Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG DẠY HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.99 KB, 24 trang )


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG
DẠY HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2014- 2015
4. Tác giả:
Họ và tên: Trần Thị Hiệp
Năm sinh: 1976
Nơi thường trú: xã Giao Xuân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm Ngữ văn
Chức vụ cơng tác: Phó hiệu trưởng
Nơi làm việc: Trường THCS Giao Xuân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503.895706
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Giao Xuân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Địa chỉ: Xã Giao Xuân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503.895706


I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà rất nhiều các quốc gia trên thế giới coi là
quốc sách hàng đầu. Sự nghiệp giáo dục của nước ta cũng được đề cao và khơng
ngừng phát triển, điều đó được thể hiện ở sự luôn đổi mới, nâng cao chất lượng dạy
và học. Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng địi hỏi phải đổi mới
đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức
đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học.
Trong nghị quyết II khoá VIII( 12/1996) Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ
con đường đổi mới giáo dục và đào tạo của nước ta là : “Đổi mới mạnh mẽ các


phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nền nếp tư duy sáng tạo của người học…”, Điều 28.2 Luật giáo dục cũng đã
ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”. Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI đặc biệt nhấn mạnh nội dung: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát
triển năng lực…’’.
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, nền
kinh tế tri thức có tính tồn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục càng to lớn.
Chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc
điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương
pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học
sinh”. Theo đó giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải
giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống vừa mang tính giáo dục,
vừa mang tính giáo dưỡng, cao hơn là giáo dưỡng hướng đến nguồn gốc cội nguồn
của tổ tiên và trân trọng nó. Sự phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI
địi hỏi con người có một số phẩm chất và năng lực nổi lên hàng đầu như năng lực
làm việc nhóm, năng lực hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề cuộc sống đặt ra,
năng lực hợp tác, năng lực thích ứng... Vì thế vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
là một trong những vấn đề then chốt để đạt được những mục tiêu trên. Và trong số

các vấn đề đổi mới phương pháp dạy học thì tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học
là một vấn đề từ lâu đã được các nhà sư phạm quan tâm. Những nhóm học tập, đơi
bạn học tập (thường là người khá, giỏi kèm người yếu, kém) được giáo viên THCS


thực hiện phân chia trước khi thay đổi chương trong và sách giáo khoa những năm
80. Có điều, hoạt động nhóm khi ấy chủ yếu là hoạt động tự học của các em ở nhà.
Bây giờ, hoạt động nhóm được nhìn nhận dưới góc độ hợp tác, giải quyết nhiệm vụ
học tập. Nó khơng chỉ diễn ra ở nhà mà còn diễn ra trong lớp học nhằm giúp mọi học
sinh tham gia một cách chủ động và quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thề
chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội
dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu học hỏi lẫn nhau; cùng nhau hợp
tác giải quyết những nhiệm vụ chung. Khi thay đổi chương trình và SGK từ năm
2002-2003 và hoàn tất vào năm học 2005-2006, chúng ta đã rất chú ý đến dạy học
phân hóa, đồng thời với việc tăng cường kĩ năng hợp tác làm việc theo nhóm, tổ.
Việc phân chia các nhóm làm bài tập và nhiệm vụ có tính thi đua, việc áp dụng một
số khâu của tổ chức trị chơi làm cho khơng khí học tập sơi động, thoải mái mang
tính chất vừa chơi, vừa học quả là một nét mới. Tuy nhiên, việc phân chia nhóm, tổ
khơng phải là điểm mới của phương pháp. Mặt khác phân chia nhóm, tổ trong học
tập lịch sử không phải là một hoạt động lúc nào cũng cần thiết. Phân nhóm nếu chỉ
mang tính hình thức sẽ không đạt hiệu quả mong muốn. Bản thân nhà sư phạm V.Ơ
kơn, người kiến tạo lí thuyết dạy học nêu vấn đề cũng đã khuyến nghị: “Khơng dạy
học theo nhóm ở mọi tiết học”. Việc chia nhóm và hoạt động nhóm chỉ thích hợp cho
những tiết ơn tập, luyện tập và 1 số ít phần thực hành củng cố lí thuyết và chỉ đạt
hiệu qua cao khi giáo viên có chuẩn bị kĩ càng, biết phối hợp nhuần nhuyễn với các
phương pháp khác.
Đối với môn Lịch sử, thực tế cho thấy những năm gần đây, việc dạy Lịch sử ở
trường phổ thơng đã có những bước tiến đáng kể về nhận thức, nội dung, phương
pháp dạy học. Song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. hiệu quả dạy học bộ môn ở các
trường phổ thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra: đa số học sinh vẫn chưa có

hứng thú học tập bộ môn, vẫn dừng lại ở việc ghi nhớ máy móc sự kiện lịch sử, chưa
biết vận dụng lịch sử để giải quyết các vấn đề thực tiễn,…
Tình trạng chậm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử do nhiều nguyên nhân
nhưng chủ yếu do những nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết, do quan niệm chưa
đúng về bộ môn, đa số vẫn coi Lịch sử là môn học phụ, không cần tư duy, chỉ là sự
ghi nhớ sự kiện. Thứ hai, những tác động tích cực của cơ chế thị trường cũng làm
cho chất lượng dạy môn Lịch sử chưa tốt. Thứ ba, việc đào tạo giáo viên dạy lịch sử
cho các trường phổ thông trung học hiện nay có tác động khơng nhỏ tới chất lượng
dạy học bộ môn. Giáo viên lịch sử THCS hiện nay được đào tạo từ nhiều nguồn
nhưng không được kiểm tra, đánh giá kĩ lưỡng nên chất lượng không đồng đều. Thứ
tư, hiện tượng bảo thủ, lạc hậu về phương pháp dạy học, áp dụng đổi mới một cách
máy móc cũng làm cho hiệu quả dạy học bộ môn chưa cao.
Tuy nhiên, để góp phần biến đổi thực tế đó, khơng thể nơn nóng, chủ quan, cực
đoan, duy ý chí, cần phải có một quan niệm tổng thể, đồng thời phân tích kĩ những
hồn cảnh khách quan, những thực tế của dạy học hiện nay đặt ra một yêu cầu cấp
thiết phải đi tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử ở trường
phổ thông vừa căn bản, vừa thiết thực và vừa có tính khả thi. Qua quá trình đổi mới
phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử, bản thân tơi nhận thấy
việc tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học là rất cần thiết song việc tổ chức hoạt
động nhóm sao cho có hiệu quả lại khơng hề đơn giản và nếu không biết cách tổ


chức việc thảo luận nhóm mang tính hình thức sẽ đem đến những kết quả khơng
mong muốn thậm chí đi ngược lại mục đích nâng cao chất lượng dạy học. Trong
phạm vi đề tài này tôi tập trung vào một số giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt
động nhóm để góp phần tích cực nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử lớp
9.
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN:
Trong những năm gần đây, chương trình SGK mới của Bộ GD - ĐT đã có rất
nhiều những thay đổi về nội dung của bài học, về số lượng câu hỏi, bài tập, bài thực

hành, sơ đồ, biểu đồ, lược đồ… Những sự thay đổi đó nhằm mục đích nâng cao chất
lượng giáo dục ở đối tượng học sinh, mà chất lượng của học sinh phụ thuộc chủ yếu
vào phương pháp dạy học và áp dụng một số kĩ thuật dạy học mới của giáo viên.
Qua q trình bồi dưỡng chun mơn khi thay sách và thực hiện đổi mới giáo dục,
đa số giáo viên đã nhận thức được tầm qua trọng của việc đổi mới phương pháp dạy
học. Tuy nhiên cịn một bộ phận khơng nhỏ giáo viên đã hiểu một cách hạn hẹp:
Điểm mới trong đổi mới phương pháp là phải tổ chức hoạt động nhóm. Khơng ít lần
dự giờ, chúng tơi đã chứng kiến việc phân chia nhóm có tính chất hình thức. GV nêu
câu hỏi hoặc ra bài tập (có những câu hỏi hoặc bài tập quá dễ học sinh có thể làm
việc độc lập để trả lời, cũng có câu hỏi quá lớn, yêu cầu kiến thức quá cao mà trong
thời gian quá ngắn không thể giải quyết được) rồi yêu cầu các nhóm thảo luận. Các
em ở bàn trên quay xuống bàn dưới. Nhóm trưởng cùng cả nhóm chụm đầu rì rầm
một lát. Rồi GV yêu cầu đại diện mỗi nhóm trình bày. Khơng thấy sự nhất trí nào
của nhóm cả. Nhóm trưởng trình bày ý kiến riêng đã được chuẩn bị ở nhà. Vả lại
thời gian quá ít, phần hướng dẫn của GV quá hời hợt làm sao đủ cho hoạt động tư
duy tập thể? Nhiều GV dạy xong khi được góp ý về tính hình thức và sự khơng hiệu
quả của việc chia nhóm cũng thừa nhận: “Tơi cũng biết thế nhưng nếu khơng chia
nhóm, lại sợ khơng đúng với tinh thần đổi mới”. Sau những lần tổ chức hoạt động
nhóm khơng hiệu quả, tâm lý GV ngại chuẩn bị đã bỏ qua hoạt động này. Bên cạnh
đó một bộ phận GV không thấy được tầm qua trọng của hoạt động nhóm trong đổi
mới phương pháp dạy học, cho rằng hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức nên
khơng áp dụng trong bất kì loại bài nào, tình huống nào. Tất cả những quan điểm
trên trong một bộ phận không nhỏ GV đặc biệt là GV dạy Lịch sử - Môn học không
được coi trọng như Ngữ văn, Tốn, Ngoại ngữ, đã dẫn đến hoạt động nhóm trong
dạy học lịch sử THCS đang dần mang những tác dụng không mong muốn cho đổi
mới và nâng cao chất lương dạy và học. Có thể khái quát những tồn tại cơ bản của
việc tổ chức thảo luận nhóm hiện nay như sau:
* Về phía giáo viên
Khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, GV cịn lúng túng ở một số thao tác
sau:

Thứ nhất, thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận (TL): Việc lựa chọn vấn đề TL
chưa hấp dẫn nên chưa khơi dậy tính tích cực của HS. Có những vấn đề TL quá khó
hoặc quá dễ so với trình độ của HS. Ví dụ: Những bài học về nghệ thuật quân sự của
Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp? (q khó so với trình độ HS lớp 9).
Hoặc: Trình bày ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng? (Q dễ vì câu trả lời đã
có đầy đủ trong sách giáo khoa). Lại có trường hợp lựa chọn chủ đề phù hợp trình độ
đối tượng nhưng nội dung vấn đề lại quá khô khan, không phù hợp với đặc điểm tâm


lý của HS. Ví dụ: Lập bảng thống kê những thành tựu cơ bản trong thực hiện nhiệm
vụ khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh của nhân dân miền Bắc
(1954 – 1975) và ý nghĩa của những thành tựu đó?. Việc lựa chọn vấn đề TL là khâu
then chốt quyết định sự thành bại của phương pháp này. Vấn đề khơng hay, khơng
phù hợp với trình độ HS sẽ không huy động, thu hút được HS tập trung TL, nếu có
thì cũng chỉ mang tính chất đối phó.
Thứ hai, thao tác chia nhóm: GV chưa xác định được số lượng nhóm trong một
lớp, số lượng HS trong một nhóm. Cho nên, có trường hợp chia nhóm quá lớn hoặc
quá nhỏ, không phù hợp với vấn đề cần TL và đặc điểm của lớp học. Việc chia nhóm
cịn đơn điệu, chủ yếu chia theo bàn (2 bàn/nhóm)
Thứ ba, thao tác chọn nhóm trưởng: Nhóm trưởng khơng do nhóm tự bầu hoặc
luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do GV chọn một HS khá trong
nhóm chuyên trách. Điều này khiến cho các HS khác trong nhóm mất đi cơ hội thể
hiện mình cũng như cơ hội rèn luyện năng lực quản lý, năng lực trình bày vấn đề
trước nhóm và tập thể lớp.
Thứ tư, thao tác giao nhiệm vụ: GV giao nhiệm vụ chưa rõ ràng, cụ thể. Do đó,
HS khơng hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm là cần phải làm gì, trong thời gian bao lâu,
cách thức thực hiện như thế nào.
Thứ năm, thao tác quan sát, hỗ trợ HS khi TL: Thông thường, các lớp đều có
số lượng HS khá đơng (trên 40 em). Một số GV khi giao nhiệm vụ xong thường ngồi
tai chỗ nên không quan sát, bao quát hết được HS trong lớp làm gì trong thời gian

TL, dẫn tới tình trạng có HS làm việc riêng, nói chuyện trong thời gian này. GV
cũng khơng nắm bắt được những khó khăn, lúng túng của HS trong q trình TL để
có sự gợi ý, hỗ trợ kịp thời.
Thứ sáu, thao tác tổng kết. Sau khi viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra giấy,
nhóm trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng. GV
gọi HS khác nhận xét, bổ sung. GV kết luận. Thao tác này được lặp đi lặp lại khá
đơn điệu, nhàm chán.
* Về phía HS
- HS hầu như khơng được giao nhiệm vụ về nhà chuẩn bị trước cho thảo luận
nhóm nên có phần bị động trong q trình thảo luận trên lớp. Mặt khác, nếu được
giao nhiệm vụ trước thì HS cũng khơng chuẩn bị, hoặc chuẩn bị mang tính đối phó.
- Trong thời gian TL, chỉ có số ít HS làm việc thật sự (nhóm trưởng và HS khá,
giỏi trong nhóm), cịn lại các em thường ngồi chơi, nói chuyện, làm việc riêng. Hiện
tượng độc diễn cá nhân bên cạnh “người chầu rìa”, “ người ngồi cuộc” diễn ra khá
phổ biến, kể cả khi có người dự giờ trong lớp. HS không ý thức được sự cần thiết
phải hợp tác để chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em biến hoạt động TLN thành
cơ hội để tán gẫu, lãng phí thời gian.
- Câu trả lời của HS thường lặp lại những vấn đề trong SGK, thiếu sức sáng tạo.
- TLN thường gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác.
Vì những hạn chế trên mà PPTLN thường được vận dụng mang tính hình thức,
đối phó, chủ yếu trong các giờ hội giảng. Phỏng vấn một số GV dạy Lịch sử trường
THCS trên địa bàn huyện Giao Thủy và một số trường trên địa bàn các huyện khác
thuộc tỉnh Nam Định, chúng tơi được biết, hầu như rất ít GV vận dụng PPTLN trong
những giờ học bình thường: 11, 4% GV thường xuyên vận dụng; 57, 7% GV thỉnh


thoảng mới vận dụng; 30,8% GV chưa bao giờ vận dụng PP này.
Nguyên nhân việc GV ngại áp dụng PP này là:
1.Thói quen sử dụng các PP dạy học truyền thống (83, 3%);
2. TLN là PP khó, tốn nhiều thời gian trong khi lượng kiến thức phải truyền đạt

đồ sộ, quỹ thời gian dành cho mơn GDCD lại q ít (1tiết/tuần) (94, 4%);
3. GDCD là môn phụ trong khi để TLN thành công phải tốn nhiều công sức
chuẩn bị (94, 4%);
4. Không gian lớp học chật, bàn ghế cố định, HS đơng nên việc di chuyển khi
chia nhóm gặp nhiều khó khăn (83,3%);
5.Từ quan niệm coi Lịch sử là mơn phụ, HS không chú trọng học môn này nên
không hào hứng tham gia TLN (50%).
Vậy làm thế nào để khuyến khích GV tổ chức hoạt động nhóm một cách hiệu
quả, nâng cao chất lượng của hoạt động nhóm để góp phần đổi mới và nâng cao chất
lượng dạy học môn Lịch sử nói chung và Lịch sử 9 nói riêng theo định hướng phát
triển năng lực học sinh?
III. CÁC GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG NHÓM TRONG GIỜ DẠY LỊCH SỬ LỚP 9.
3.1. Nắm vững những nét chính về dạy học Lịch sử theo định hướng phát triển
năng lực
*Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ
và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa
dạng của việc học tập và cuộc sống
*Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi… làm nền
tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp.
Năng lực chung của học sinh có thể quy về 9 loại chính:
- Năng lực tự học
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực sáng tạo
- Năng lực tư duy
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác, hội nhập
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin
- Năng lực sử dụng ngơn ngữ
- Năng lực tính tốn

*Năng lực chun biệt: Là những năng lực được hình thành và phát triển trên
cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại
hình hoạt động, cơng việc hoặc tình huống, mơi trường đặc thù, cần thiết cho
những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động
như Toán học, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể thao, Lịch sử…


*Những năng lực chuyên biệt cần chú trọng hình thành và phát triển cho
HS trong môn Lịch sử cấp THCS:
Năng lực

Tái hiện sự kiện,
hiện tượng,
nhân vật
Xác định và giải
quyết mối liên
hệ, ảnh hưởng,
tác động giữa
các sự kiện, hiện
tượng lịch sử
với nhau
Thực hành với
đồ dùng trực
quan

Ví dụ

Tái hiện lại sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử quá
khứ tiêu biểu, có ảnh hưởng đến lịch sử thế giới và dân
tộc

Xác định và giải quyết được mối liên hệ, ảnh hưởng
tác động giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử với nhau,
thông qua đó lí giải mối quan hệ giữa các sự kiện lịch
sử như: mối quan hệ của các sự kiện với hồn cảnh
lịch sử, với tình hình kinh tế xã hội trong và ngồi
nước, những tác động tích cự hoặc tiêu cực của tình
hình thế giới đối với lịch sử Việt Nam…
- Quan sát, đọc và trình bày diễn biến trên bản đồ, lược
đồ….
- Lập bảng niên biểu các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm, các chiến dịch, các cuộc chiến tranh, các
thành tựu về kinh tế, văn hóa, vẽ được đồ thị…
- Khai thác nội dung lịch sử cần thiết thông qua lược
đồ, bản đồ, tranh ảnh, phim tư liệu, hiện vật, mẫu vật,
bảo tang, di tích…
So sánh, phân So sánh nhân vật, sự kiện, giai đoạn, thời kì lịch sử,
tích, phản biện, phân tích; phản biện các sự kiện, nhân vật, nhận định,


khái quát hóa

luận điểm lịch sử trong một thời kỳ lịch sử, khái quát
một giai đoạn hay một thời kì lịch sử....

Nhận xét, đánh
giá rút ra bài học
lịch sử từ những
sự kiện, hiện
tượng, vấn đề lịch
sử, nhân vật

Vận dụng, liên hệ
kiến thức lịch sử
đã học để giải
quyết những vấn
đề thực tiễn đặt
ra

Khả năng nhận xét, đánh giá, khái quát hóa, rút ra bài học
cho bản thân từ những sự kiện, hiện tượng, nhân vật, vấn
đề lịch sử.

Khả năng biết vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học
để giải quyết một vấn đề thực tiễn đặt ra như ô nhiễm môi
trường, xung đột trên thế giới, tranh chấp biển đảo, xu thế
tồn cầu hóa…

3.2. Nắm vững những vấn đề chung về tổ chức thảo luận nhóm trong dạy học
nhằm định hướng năng lực HS:
* Mục đích của thảo luận nhóm trong dạy học:
Việc tổ chức thảo luận nhóm trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói
riêng là một trong những hình thức, phương pháp dạy học nhằm thực hiện tốt nhất
việc dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Dưới hình thức học
tập này học sinh được khuyến khích thảo luận và hợp tác với nhau, được trao đổi
chia sẻ và có cơ hội để sử dụng kiến thức và các kỹ năng mà các em được lĩnh hội và
rèn luyện. Cùng với đó học sinh được lơi cuốn vào các hoạt động học tập, thu lượm
kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự hướng dẫn của giáo viên.
Hơn nữa trong lớp học thường có học sinh giỏi – khá – trung bình – yếu. Trong
nội dung bài học có nội dung dễ nhận biết, có nội dung trừu tượng, khó nhận biết,
mà để phát huy tính tư duy của học sinh thì giáo viên là người hướng dẫn, giúp đỡ
các em khai thác kiến thức, không nên tự giải thích, thuyết trình kiến thức cho các

em. Để làm được việc này (Đưa học sinh đóng vai trị chủ đạo trong giải quyết kiến
thức) thì nên cho các em cùng nhau trong một tổ, nhóm đọc sách giáo khoa cùng bàn
bạc – phân tích – mổ xẻ – so sánh rồi các em đánh giá, nhận xét và đưa ra câu trả lời
cho nội dung trong đó. Với tình huống này các em trong nhóm sẽ tự giải quyết được
vấn đề, tự tin, làm chủ kiến thức. Các em cịn có được sự đồn kết tương thân tương
ái giúp đỡ nhau trong học tập theo hướng tích cực. Giáo viên hạn chế được phương
pháp diễn giải thuyết trình, mang tính áp đặt kiến thức.
Hoạt động nhóm là phương pháp học tập mà theo đó học sinh trong nhóm trao
đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau. Đây là một hình thức dạy – học thực hiện tốt nhất
việc phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh đặc biệt với học sinh lớp 9, lớp
lớn nhất trong trường THCS. Trong mơi trường nhóm học sinh trao đổi ý tưởng và
kiến thức với các thành viên trong nhóm. Học sinh được học tập thông qua giao tiếp,
trao đổi, tranh luận với nhau, chia sẻ và có cơ hội để diễn đạt ý nghĩ của mình, tìm
tịi và mở rộng suy nghĩ. Còn giáo viên là người tổ chức các hoạt động gợi mở,


hướng dẫn, kích thích và hỗ trợ học sinh bằng kinh nghiệm giáo dục của mình.
* Vai trị của thảo luận nhóm trong dạy học:
Thảo luận nhóm có vai trị vô cùng quan trọng trong các hoạt động dạy học:
+ Thảo luận nhóm ni dưỡng mơi trường học tập có lợi. Tất cả học sinh trong
nhóm trao đổi, giúp đỡ, và hợp tác với nhau tạo nên một môi trường học tập cởi mở.
Các thành viên của nhóm được tự do học hỏi lẫn nhau những vấn đề mình cịn chưa
hiểu. Với việc thảo luận cùng các thành viên khác của nhóm và lớp, nhiệm vụ học
tập được giải quyết dễ dàng hơn. Kiến thức của học sinh sẽ bớt phần chủ quan phiến
diện, làm tăng tính khách quan khoa học.kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ
và nhớ nhanh hơn do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.
+ Thảo luận nhóm tạo nên những nhóm nhỏ có khả năng học tập. Những học
sinh nhanh hiểu có thể giúp những học sinh chậm hiểu khơng bị tụt hậu so với nhóm.
Mỗi thành viên của nhóm chịu trách nhiệm về thành tích của nhóm mình và cũng
yêu cầu sự tự giác của các bạn khác trong nhóm tạo ra bầu khơng khí đồn kết, giúp

đỡ nhau học tập, biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn. Thành công của bài học
phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy dạy học hợp tác
trong nhóm nhỏ gọi là phương pháp cùng tham gia.
+ Thảo luận nhóm giúp những học sinh nhút nhát, diễn đạt kém có điều kiện
rèn luyện, tập dượt, để dần tự tin khẳng định bản thân trong sự hấp dẫn của các hoạt
động nhóm, hứng thú trong học tập và sinh hoạt tập thể, dễ hòa nhập với cộng đồng.
+Thảo luận nhóm cịn giúp các vấn đề về kỷ luật lớp học, nâng cao thành tích
học tập của nhóm. Do có thời gian làm việc độc lập, tự giải quyết các vấn đề nên học
sinh trong nhóm sáng tạo hơn.
+ Thảo luận nhóm cịn giúp cho học sinh sống trong thế giới hiện thực – thế
giới của sự hợp tác, nâng cao vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội, kĩ năng giao tiếp,
phát triển kỹ năng hợp tác.
+ Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học hợp tác giúp các thành viên trong
nhóm chia sẽ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận
thức mới. Mỗi học sinh có thể nhận thức rõ trình độ hiểu biết về chủ đề nêu ra, thấy
mình cần học hỏi lẫn nhau giữa học sinh chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ
giáo viên.
Như vậy việc nâng cao chất lượng thảo luận nhóm thông qua tiết dạy học ở bộ
môn là vấn đề rất cần thiết trong hoạt động dạy và học lịch sử 9. Với các kĩ thuật dạy
học tích cực nhằm gíúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến
thức vào tình huống khác nhau trong học tập làm cho học là q trình kiến tạo, học
sinh tìm tịi, khám phá, phát hiện, luyện tập, tự hình thành tri thức, có năng lực và
phẩm chất năng động, sáng tạo trong cuộc sống. Chính vì vậy việc nâng cao chất
lượng thảo luận nhóm thơng qua tiết dạy học ở bộ mơn lịch sử 9 có vai trị rất quan
trọng góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học.
* Cơ cấu nhóm:
- Nhóm là một tổ chức gồm 2 đến 8 học sinh, nhóm là mơi trường cơ sở, nơi
diễn ra các quan hệ trực tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh
và học sinh với giáo viên.

- Nhóm khơng nên có số lượng lớn vì như vậy các thành viên khơng có cơ hội


để thể hiện ý kiến của mình và giáo viên khó quản lý. Nhóm bao giờ cũng đặt trong
mơi trường trung gian là lớp, tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp, nội dung học tập
mà giáo viên chia thành bao nhiêu nhóm, số lượng thành viên trong nhóm. Để nhóm
hoạt động có hiệu quả, các thành viên phải biết rõ nhiệm vụ của mình, vì vậy phải
phân cơng nhiệm vụ cụ thể cho các em:
+ Trưởng nhóm: Điều khiển thảo luận trong nhóm và báo cáo kết quả sau thảo
luận.
+ Thư ký: Ghi chép kết quả hoạt động của nhóm sau khi đã thống nhất.
+ Thành viên khác: Có nhiệm vụ tham gia tích cực vào các hoạt động thảo luận
của nhóm.
* Cách chia nhóm và các kiểu nhóm để thảo luận.
Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo màu sắc, theo biểu
tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi, theo tổ… Tùy theo mục tiêu và yêu cầu vấn đề
học tập mà các nhóm được phân ngẫu nhiên hoặc mặc định, được duy trì ổn định
trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động của tiết học. Các nhóm được giao
cùng một nhiệm vụ hoặc khác nhiệm vụ.
- Để chia nhóm theo ngẫu nhiên, có thể dùng thẻ học tập có ghi số hoặc điểm
danh hoặc ghép mảnh theo chủ đề học tập. Trong tiết học, nếu có nhiều nội dung, ta
nên thay đổi hình thức nhóm, tạo ra cái mới, khơng khí học tập vui vẻ hơn
- Để chia theo chủ định, giáo viên nên chú ý đặc điểm của học sinh (trình độ, thái
độ, tính cách, giới tính…) để cơ cấu nhóm cho phù hợp. Các hình thức nhóm cụ thể :
- Nhóm nhỏ (2-3 học sinh): Thường dùng khi cần học sinh trao đổi, thảo luận
những vấn đề cụ thể, đơn giản, thời gian ngắn.
- Nhóm ghép đội: Dùng để nghiên cứu, phân tích, trao đổi về một số vấn đề phức
tạp địi hỏi có sự cộng tác cao.
- Nhóm 4-6 học sinh: Dùng khi học sinh trao đổi ý kiến hoặc thực hành một cơng
việc cụ thể địi hỏi nỗ lực chung của cả nhóm khi tiến hành thảo luận.

- Nhóm 6- 8 học sinh: Dùng khi thảo luận với nội dung có nhiều vấn đề, nhiều
quan điểm trong khả năng giải quyết của học sinh, các vấn đề cần so sánh hay đi sâu
hơn vào một nội dung đã thảo luận ở nhóm nhỏ nhưng khó thực hiện chung cho cả
lớp.
- Nhóm xuất phát và nhóm chuyên sâu: Dùng khi thu thập thông tin và các vấn
đề thảo luận, rèn luyện kỹ năng xử lý và trình bày thông tin.
* Các bước tiến hành hoạt động thảo luận nhóm:
- Chuẩn bị nội dung thảo luận :
+Trước tiên giáo viên cần chọn bài, chọn vấn đề thích hợp cho học sinh thảo
luận.
+Cần lưu ý khi chọn đề tài thảo luận là phải xem xét nghiên cứu xem học sinh
đã biết gì về chủ đề đã nêu ra.
+Khi đã chọn được vấn đề thảo luận đúng yêu cầu, giáo viên cần thông báo
cho học sinh chuẩn bị ý kiến (viết thành văn bản) tham gia thảo luận.
+Từ đó học sinh ý thức được yêu cầu nội dung của đề tài, các nguồn tài liệu
chính, kế hoạch thực hiện và nhiệm vụ của tập thể cũng như của từng cá nhân…
- Tổ chức thảo luận :
+Giáo viên chia nhóm, thơng báo về chủ đề cần thảo luận, quy trình và nguyên


tắc thảo luận, cần quy định rõ thời gian thảo luận, mỗi nhóm nên cử một nhóm
trưởng để điều khiển và mộ thư kí ghi biên bản thảo luận nhóm. Học sinh cần luân
phiên nhau làm nhóm trưởng và thư kí để đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận.
+Hướng dẫn thảo luận: Trong quá trình thảo luận giáo viên làm nhiệm vụ quan
sát, theo dõi, lắng nghe, gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết mà không tham gia ý kiến
thảo luận, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ phản ứng nếu câu trả lời, tranh
luận không đúng với ý mình. Tuy nhiên nhằm làm tăng thêm hứng thú khi thảo luận,
giáo viên cũng có thể đưa ra các câu, giống như “ván nhún” hoặc nêu ra cách thảo
luận để tạo khơng khí sơi nổi cho buổi thảo luận, tạo khơng khí thân mật, cởi mở,
khuyến khích sự tham gia của mỗi học sinh trong thảo luận. Khi thảo luận, giáo viên

phải nghe cẩn thận những điều học học sinh nói để hiểu học sinh định nói cái gì. Kết
quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức (bằng lời, bằng tranh vẽ,
bằng tiểu phẩm, bằng văn bản viết trên giấy to…), có thể do một người thay mặt
nhóm trình bày hoặc có thể nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp
nhau.
- Tổng kết thảo luận :
+Giáo viên tổng kết những ý kiến phát biểu, nêu lên một cách súc tích và có hệ
thống những ý kiến thống nhất và chưa thống nhất.
+Tham gia ý kiến về những điều chưa thống nhất và bổ sung thêm những điều
cần thiết. Những ý kiến chưa thống nhất có thể sắp xếp vào buổi thảo luận sau.
+Giáo viên cần đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần thái độ làm
việc chung của tập thể, của nhóm và cá nhân học sinh.
3.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi tổ chức thảo luận nhóm:
- Khơng phải tiết dạy nào cũng phải cần đến thảo luận nhóm. Đối với những bài
học có tính chất thơng tin, sự kiện thuần túy thì khơng cần sử dụng phương pháp
này. Vấn đề được đưa vào thảo luận nhóm phải là vấn đề địi hỏi tư duy, suy luận
cao, thậm chí có tính quan niệm, khả năng phát sinh nhiều ý kiến trái chiều, thì nó
mới cần thiết sự hợp tác giải quyết của nhiều người, tránh biến hoạt động nhóm
thành hành động mơ phỏng phương pháp (bắt chước người ta) có tính trình diễn chứ
khơng áp dụng phương pháp một cách khoa học. Tóm lại, phải tùy thuộc vào thời
lượng tiết dạy, nội dung bài học để lựa chọn phương pháp.
- Thêm nữa, người dạy còn phải xét đến tâm lí lứa tuối của đối tượng học. Đối
với học sinh, các em đang trong lứa tuổi ham chơi. Việc các em ngồi thảo luận theo
nhóm đơi khi chỉ là hành động bề ngồi, khơng tránh khỏi tình trạng học sinh chỉ
xem đó là cơ hội để trị chuyện, tán gẫu. Vì vậy nếu muốn người học thực sự có một
q trình học theo nhóm nghiêm túc, người dạy phải có thời gian hướng dẫn, tổ
chức, thậm chí là biện pháp kỉ luật nghiêm khắc thì mới mong hướng các em vào
cách học này. Còn nếu gượng ép sử dụng thì chỉ giải quyết được vài vấn đề vụn vặt
của bài học, tức phương pháp này đã bị hạn chế quá nhiều khả năng đem lại hiệu quả
tích cực thực sự của nó.

- Khi chia nhóm thảo luận nên cơ cấu có đủ thành phần (giỏi – khá – trung bình –
yếu – kém, hiếu động – trầm lặng…). Nên để học sinh luân phiên nhau làm nhóm
trưởng, thư kí. Qui mơ nhóm khơng nên q đơng.
- Giáo viên nên chuẩn bị kỹ vấn đề cần thảo luận và dự kiến các tình huống xảy
ra cùng các phương án xử lý


- Giao nhiệm vụ phải rõ ràng, cụ thể, đảm bảo mỗi học sinh đều hiểu nhiệm vụ
- Trong quá trình học sinh làm việc, giáo viên phải theo dõi từng nhóm, có sự
giúp đỡ, hướng dẫn kịp thời, đảm bảo tất cả học sinh đều làm việc.
- Trong mỗi nhóm cần có sự phân cơng rõ ràng nhiệm vụ cụ thể trong đó đề cao
vai trị hợp tác
- Cần tạo khơng khí thi đua giữa các nhóm để khuyến khích học tập
- Giáo viên nên nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để kịp
thời động viên, khuyến khích các nhóm thảo luận tốt hơn và rút kinh nghiệm các
nhóm làm việc chưa tốt.
* Vai trò của giáo viên:
Để đạt kết quả cao, giáo viên phải biết tổ chức nhóm, hướng dẫn cách thực hiện,
phân bổ thời gian hợp lý, giải đáp thắc mắc của học sinh trước khi chính thức đi vào
hoạt động, đồng thời ghi lại chủ đề và chỉ dẫn lên bảng hoặc máy chiếu… Quan
trọng hơn là việc giám sát của người thầy. Khi học sinh tiến hành hoạt động, giáo
viên chuyển từ vị trí người hướng dẫn sang vị trí người giám sát. Nhiệm vụ của giáo
viên lúc này là nhận biết tiến trình hoạt động của các nhóm từ đó có thể có những
can thiệp kịp thời để mang lại hiệu quả. Muốn vậy khi giám sat hoạt động nhóm giáo
viên cần:
+ Chú ý đến hoạt động mà giáo viên yêu cầu lớp thực hiện. Không nên tranh thủ
làm việc riêng khi học sinh đang thảo luận, vì như vậy học sinh sẽ không tập trung
vào hoạt động. Di chuyển, quan sát toàn bộ lớp để giám sát được mọi hoạt động.
Lắng nghe quá trình trao đổi của học sinh trong nhóm. Từ đó giáo viên có thể có
những phát hiện thú vị và khả năng đặc biệt của từng em, hướng thảo luận của từng

nhóm để điều chỉnh kịp thời. Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên lề” hoạt
động khơng? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào khơng khí chung của
nhóm.
+Nhận biết bầu khơng khí xem các nhóm hoạt động “thật” hay “giả”. Có khi vấn
đề giáo viên đặt ra là nguyên nhân gây nên sự thay đổi khơng khí hoạt động của
nhóm. Nếu vấn đề q khó học sinh khơng đủ khả năng giải quyết, ngược lại vấn đề
quá dễ khiến học sinh khơng có gì phải làm. Cả hai trường hợp này đều có thể làm
giảm đi độ “nóng” của bầu khơng khí trong lớp. Lúc này giáo viên cần có sự điều
chỉnh kịp thời, khen ngợi và khuyến khích, gợi ý nếu thật sự cần thiết. Nếu các nhóm
hoạt động tốt giáo viên nên bộc lộ sự hài lòng, đó là dấu hiệu cho học sinh thấy rằng
các em đang đi đúng hướng và cứ đi tiếp.
+Nhắc thời gian để các nhóm hồn thành phần hoạt động của mình đúng thời
gian quy định.
- Trong thảo luận nhóm nên tạo những nhóm nhỏ có khả năng học tập, những
học sinh nhanh hiểu có thể giúp những học sinh chậm hiểu khơng bị tụt hậu so với
nhóm. Mỗi thành viên của nhóm chịu trách nhiệm về thành tích của nhóm mình và
cũng yêu cầu sự tự giác của các bạn khác trong nhóm tạo ra bầu khơng khí đồn kết,
giúp đỡ nhau học tập.
- Trong thảo luận nhóm giáo viên phải khéo léo làm thế nào để giúp những học
sinh nhút nhát, diễn đạt kém có điều kiện rèn luyện, tập dượt, để dần khẳng định bản
thân trong sự hấp dẫn của các hoạt động nhóm.
- Thảo luận nhóm cịn giúp các vấn đề về kỷ luật lớp học, nâng cao thành tích


học tập của nhóm. Do có thời gian làm việc độc lập, tự giải quyết các vấn đề nên học
sinh trong nhóm sáng tạo hơn.
- Thảo luận nhóm cịn giúp cho học sinh sống trong thế giới hiện thực – thế giới
của sự hợp tác.
* Vai trò của học sinh:
- Phải biết chủ động tích cực lĩnh hội kiến thức, phải xem trước bài học, tài liệu

tham khảo theo sự hướng dẫn của giáo viên các em mới tiến hành nhanh mang tính
đồn kết có hiệu quả sau giờ thảo luận.
3.4. Tổ chức thảo luận nhóm ở một số tiết học trong chương trình lịch sử lớp9
theo định hướng phát triển năng lực HS.
* Các dạng câu hỏi thảo luận nhóm thường dùng trong dạy học lịch sử
nhằm phát triển năng lực học sinh.
Có nhiều cách xây dựng nội dung thảo luận nhóm trong q trình dạy học Lịch sử.
Song về cơ bản nhằm phát triển năng lực của HS có thể quy về 4 dạng câu hỏi như
sau :
Dạng 1: Có thể đưa ra một sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử và yêu cầu HS nhận
xét, đánh giá.
Ví dụ: Phong trào Ngũ Tứ (1919) nêu cao khẩu hiệu “Trung Quốc của người Trung
Quốc”, “Xóa bỏ hiệp ước 21 điều…”. SGK Lịch sử 8. Từ phong trào này em có suy
nghĩ gì về hành động của Trung Quốc khi đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng
biển chủ quyền của Việt Nam.
Dạng 2. Có thể nêu nhận định, đánh giá về sự kiện, nội dung hoặc nhân vật lịch
sử và yêu cầu HS bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về vấn đề đó.
Ví dụ: Em đánh giá như thế nào về vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến
với chiến thắng Điện Biên Phủ
Dạng 3. Yêu cầu rút ra quy luật, bài học lịch sử và u cầu HS giải thích, bình
luận, đánh giá.
Ví dụ: Phân tích bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong
những bài học đó, bài học nào Đảng ta có thể vận dụng để giải quyết vấn đề biển
đảo hiện nay?
Dạng 4. Cho phép HS được lựa chọn sự kiện, nhân vật lịch sử yêu thích nhất
trong một giai đoạn lịch sử, một chuỗi các sự kiện được học để trả lời, nhưng
phải lý giải tại sao lại chọn sự kiện, nhân vật lịch sử đó.
Ví dụ: Phân tích những thắng lợi quân sự quyết định bước ngoặc của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Trong những thắng lợi đó em thích thắng lợi nào? Tại sao?
* Một số ví dụ tổ chức thảo luận nhóm trong chương trình Lịch sử 9 nhằm

phát triển năng lực học sinh:
* Ví dụ 1:
Bài 1 : Liên Xơ và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của
thế kỉ XX
I.
Liên Xô :
1. Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh:
Sau khi giáo viên phân tích sự quyết tâm của Đảng và nhà nước Liên xô trong
việc đề ra và thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, có thể cho học sinh thảo luận
theo hình thức nhóm 6 đến 8 em theo 2 câu hỏi sau:


- Câu 1 (Nhóm 1, 2): Nhận xét gì về tôc độ tăng trưởng kinh tế của Liên Xô
trong thời kì khơi phục kinh tế?
- Câu 2 (Nhóm 3, 4): Nguyên nhân của sự phát triển đó?
Với những câu hỏi này có thể cho học sinh thảo luận trong 5 phút. Sau khi học
sinh thảo luận, các nhóm trình bày và nhận xét trong cùng câu hỏi, giáo viên đưa ra
đáp án ( có thể ghi bảng phụ hoặc dùng máy chiếu) kết hợp khái quát nội dung và
nhận xét phần báo cáo của mỗi nhóm.
* Đáp án:
- Tốc độ khơi phục kinh tế trong thời kì này tăng nhanh chóng.
+ Cơng nghiệp: Năm 1950 tăng 73% so với trước chiến tranh.
+ Nông nghiệp: Bước đầu khôi phục, một số ngành phát triển.
+ Khoa học kĩ thuật: Chế tạo thành công bom nguyên tử (1949), phá vỡ thế
độc quyền của Mĩ.
- Nguyên nhân: Do sự thống nhất về tư tưởng, chính trị của xã hội Liên Xơ, tinh
thần tự lập, tự cường, tinh thần chịu đựng gian khổ, lao động cần cù, qn mình của
nhân dân Liên Xơ.
2. Tiếp tục công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH (từ năm 1950
đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX)

Sau khi giải thích khái niệm: Thế nào là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của
CNXH, GV nêu câu hỏi thảo luận:
Câu 1 (Nhóm 1, 2): Liên Xô xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật trong hồn cảnh
nào?
Câu 2 (Nhóm 3, 4): Hồn cảnh đó có ảnh hưởng gì đến cơng cuộc xây dựng XHCN
ở Liên Xô?
Tương tự như phần trên, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận trong 5 phút,
sau đó các nhóm báo cáo kết quả và nhận xét chéo trong cùng câu hỏi. Giáo viên đưa
ra đáp án, khái quát nội dung và nhận xét kết quả thảo luận của các nhóm.
Đáp án: Các nước tư bản phương Tây ln có âm mưu và hành động bao vây
chống phá Liên Xơ cả về kinh tế chính trị và qn sự. Liên Xơ phải chi phí lớn cho
quốc phịng, an ninh để bảo vệ thành quả của công cuộc xây dựng CNXH.
Về kinh tế: Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp, đứng hàng thứ hai thế
giới (sau Mĩ), một số ngành vượt Mĩ.
Về khoa học kĩ thuật: Các ngành khoa học kĩ thuật đều phát triển, đặc biệt là
khoa học vũ trụ.
Về quốc phòng: Đạt được thế cân bằng chiến lược về quân sự nói chung và sức
mạnh hạt nhân nói riêng so với Mĩ và phương Tây.
Hồn cảnh đó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng cơ sở vật chất – kĩ
thuật, làm giảm tốc độ của công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô.
* Ví dụ 2:
Bài 5: Các nước Đơng Nam Á
Mục III: Từ “ASEAN 6” phát triển thành “ASEAN 10”.
Sau khi tìm hiểu nội dung mục này GV cho HS thảo luận trả lời câu hỏi:
? Tại sao có thể nói: “Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, một chương trình
mới đã mở ra trong lịch sử khu vực Đơng Nam Á”?
GV hướng dẫn HS tìm hiểu sự phát triển của tổ chức ASEAN.


- Từ những năm 90 của thế kỉ XX xu thế nổi bật là mở rộng thành viên của tổ

chức ASEAN
- Năm 1992, ASEAN quyết định biến biển Đông Nam Á thành khu vực mậu dịch
tự do (AFTA) trong vòng 10 đến 15 năm. Năm 1994, ASEAN lập diễn đàn khu vực
(ARF) với sự tham gia của 23 quốc gia trong và ngồi khu vực.
*Ví dụ 3:
Bài 6: Các nước châu Phi
Phần I: Tình hình chung:
Câu hỏi TL: Hãy cho biết tình hình nổi bật của châu Phi khi giành được độc lập?
Học sinh lựa chọn và trình bày hiểu biết của mình về tình hình được coi là nổi
bật của châu Phi, GV nhận xét, bổ sung , kết luận:
Nét nổi bật của tình hình châu Phi là ln trong tình trạng bất ổn: xung đột, nội
chiến, đói nghèo, nợ chồng chất và bệnh tật ( từ 1987 đến 1997 có tới 19 cuộc xung
đột và nội chiến, ở Run-an-da có tới 800 nghìn người chết; 1,2 triệu người phải lang
thang chiếm 1/10 dân số).
* Ví dụ 4:
Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 19191925
I. Nguyên Ái Quốc ở Pháp(1917-1923)
Câu hỏi thảo luận: Tại sao khi bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Tất Thành lại đi sang phương Tây, đến nước Pháp? Con đường ấy có gì
khác so với các bậc tiền bối?
Nguyễn Tất Thành đi sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu vì sao Pháp
lại thống trị nước mình và thực chất của các từ “tự do, bình đẳng, bác ái” của Pháp.
Từ đó Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Người muốn tìm hiểu cuộc sống của những người lao động ở phương Tây, gắn
kết họ lại với nhau. Người đề cao học tập và lí luận. Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác –
Lênin và cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn – con đường cách mạng vô sản.
Mặc dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối nhưng người không
tán thành con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước. Con đường cứu nước của
các vị tiền bối là đi sang phương Đông, dựa vào Nhật Bản để đánh Pháp, chẳng khác

gì “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”, bởi Nhật tuy là một nước “đồng chủng da
vàng” nhưng cũng là một nước đề quốc.
Các nhà yêu nước chống Pháp là các sĩ phu phong kiến, mong muốn của họ là
giải phóng dân tộc, thiết lập lại chế độ phong kiến hoặc đi theo con đường dân chủ tư
sản. Còn Nguyễn Ái Quốc lại đi theo con đường cách mạng vô sản.
Câu hỏi TL: Việc Nguyễn Ái Quốc đọc luận cương của Lê-nin có ý nghĩa thế
nào?
Luận cương của Lê-nin giúp Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước giải
phóng dân tộc- con đường cách mạng vơ sản
GV đọc đoạn tư liệu nói về cảm xúc của Người khi đọc luân cương:” Luận
cương của Lê-nin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao. Tơi
vui mừng đến phát khóc lên ngồi 1 mình trong phịng mà tơi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết


cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
* Ví dụ 5:
Bài 17: Cách mạng Việt Nam khi Đảng Cộng sản ra đời
Mục III: Việt Nam Quốc dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái
GV giới thiệu sự ra đời của Việt Nam quốc dân đảng ngày 25-12-1927.
GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm về hồn cảnh ra đời của Việt Nam Quốc dân
Đảng.
HS trình bày kiến thức hiểu biết của mình. Nhóm khác nhận xét bổ sung. GV kết
luận:
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân tộc dân chủ trong nước; bên ngoài các
trào lưu tư tưởng mới thâm nhập vào rất mạnh mẽ, ảnh hưởng của Cách mạng Tân
Hợi ở Trung Quốc với chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã dẫn đến sự ra đời
của Việt Nam Quốc dân đảng.
*Ví dụ 6:
Bài 20: Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939

? Đường lối lãnh đạo của Đảng và hình thức đấu tranh trong giai đoạn 1936 –
1939 có gì khác so với giai đoạn 1930 – 1931?
Đáp án:
1930 - 1931
1936 - 1939
Xác định kẻ thù
Để quốc phong kiến
Phản động Pháp và tay sai
Mục tiêu, nhiệm vụ Chống đế quốc giành độc Chống phát xít, chống chiến tranh
lập dân tộc. Chống đế quốc phản động tay sai, đòi tự do
phong kiến giành ruộng dân chủ cơm áo hịa bình.
đất cho dân cày
Hình thức, phương Bí mật, bất hợp pháp, Hợp pháp, cơng khai, bán cơng
pháp cách mạng
bạo động vũ trang
khai.
*Ví dụ 7:
Bài 23: Tỏng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
Câu hỏi: Sự lãnh đạo kịp thời, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và của
lãnh tụ Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám thể hiện ở những điểm nào? Theo
em bài học nào Đảng và Nhà nước ta cần vận dụng trong thời kì xây dựng và bảo vệ
đất nước trong giai đoạn hiện nay?
- Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nắm
bắt diễn biến tình hình thế giới và cách mạng trong nước để thay đổi chủ trương chỉ
đạo chiến lược cho phù hợp; giải quyết đúng đắn mọi mối quan hệ giữa nhiệm vụ
dân tộc và dân chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu.
- Đảng tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi – Mặt trận Việt Minh, trên cơ sở liên minh cơng nơng tạo nên

sức mạnh tồn dân, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh bại chúng.
- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng ta đã lịnh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang, kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa
từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị, chớp thời cơ tiến tới Tổng khởi
nghĩa.


- Đảng luôn kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững mạnh về tổ
chức, tư tưởng chính trị, đủ năng lực và uy tín để lãnh đạo cách mạng thành công.
* Những bài học cần vận dụng trong thời kì hiện nay:
- Bài học về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn Việt Nam
- Bài học về tập hợp lực lượng, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Bài học về kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, chớp thời cơ
chống lại các thế lực thù địch
- Bài học về đấu tranh, xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh…
* Ví dụ 8:
Bài 27: Cuộc kháng chiến tồn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc
(1953 – 1954)
Thảo luận hình thức trị chơi: chia 2 đội, mỗi đội 3 em, thi xem đội nào hoàn
thành nhanh hơn bảng thống kê bằng cách chọn dán các mốc thời gian và sự kiện có
ý nghĩa chiến lược của quân dân ta trên các mặt trận quân sự, chính trị trong kháng
chiến chống Pháp từ thu đông 1950 đến đông xuân 1953 - 1954. (GV chuẩn bị 2
bảng thống kê trống và các mốc thời gian, sự kiện…, có cả những sự kiện không phù
hợp yêu cầu của câu hỏi). HS thảo luận chọn những sự kiện theo yêu cầu để hồn
thiện bảng thống kê.
Thời gian
Sự kiện
6/1950
TƯ Đảng và chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới
12/1953

Quân ta mở cuộc tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên
12/1953
Quân ta mở cuộc tấn công địch ở Thượng Lào
12/1953
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
1/1954
Quân ta mở cuộc tiến công lên Tây Bắc
2/1954
Quân ta mở cuộc tấn công Trung Lào
5/1954
Hiệp định Giơ ne vơ
*Ví dụ 9 :
Bài 29 : Cả nước trực tiếp đấu tranh chống Mĩ cứu nước (1965 – 1973)
Phần I : Chiến đấu chống chiến lược « Chiến tranh cục bộ » của Mĩ (1965 –
1968)
Câu hỏi : Chiến lược « Chiến tranh cục bộ » và chiến lược « Chiến tranh đặc
biệt » của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau ?
Giống : Đều là Chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ nhằm
chống lại phong trào cách mạng của nhân dân ta, tiếp tục duy trì chế độ thực dân
kiểu mới ở miền Nam.
Khác :
Chiến tranh đặc biệt
Chiến tranh cục bộ
- Tiến hành bằng quân đội tay sai do cố - Tiến hành bằng lực lượng quân đội Mĩ,
vấn Mĩ chỉ huy, dựa vào vũ khí, trang bị quân đồng minh và quân đội Sài Gòn.
kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ.
- Lực lượng quân đội Sài Gòn tăng - Lực lượng quân Mĩ giữa vai trò quan
nhanh, cuối năm 1964 lên tới 580.000 trọng. Tổng cộng quân đội địch lúc cao
người
nhất - năm 1969 lên tới 1,5 triệu người

với trang bị hiện đại


- Âm mưu : Chống lại phong trào cách - Âm mưu : Đàn áp cách mạng miền
mạng của nhân dân ta, tiếp tục duy trì chế Nam, tiến hành phá hoại miền Bắc, nhằm
độ thực dân kiểu mới ở miền Nam.
cứu quân ngụy khỏi tan rã sau thất bại của
« Chiến tranh đặc biệt », tiếp tục giữ miền
Nam dưới ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân mới.
*Ví dụ10 :
Bài Tổng kết lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến nay
Câu hỏi thảo luận : Có nhận định cho rằng : ‘ Hịa bình, ổn định và hợp tác phát
triển vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với Việt Nam’. Hãy cho biết ý kiến về
nhận định trên.
- Về thời cơ : Nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí, thị trường rộng lớn,
sự phân cơng lao động xã hội... tạo cơ hội cho Việt Nam. Chúng ta có thể mở rộng
quan hệ hợp tác hữu nghị, tận dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật và các nguồn
lực khác của thế giới, nhanh chóng đưa đất nước ta tiến lên kịp với thời đại.
- Thách thức : Thách thức lớn nhất của chúng ta là trình độ lực lượng sản xuất
cịn thấp kém. Ngồi ra cịn có âm mưu diễn biến hịa bình, nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, nguy cơ suy thoái đạo đức, đánh mất bản sắc dân tộc. Tình trạng ơ
nhiễm môi trường, bệnh tật, tai nạn giao thông...
IV. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN MANG LẠI
- Qua quá trình thực hiện việc dạy - học theo phương pháp thảo luận nhóm ở
chương trình lịch sử lớp 9 nói riêng và chương trình lịch sử trung học cơ sở nói
chung tơi thấy nếu giáo viên biết xây dựng, lựa chọn các tình huống có vấn đề và
biết sử dụng đúng thời điểm thì phương pháp thảo luận nhóm sẽ mang lại hiệu quả
rất cao, phát huy được cao độ tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, giúp các
em nhớ lâu, hiểu kỹ và tìm được các mối liên quan giữa các sự kiện lịch sử cùng

loại. Giờ học lịch sử cũng sơi nổi hơn, khơng sáo mịn, nhàm chán. Tình trạng nhầm
lẫn kiến thức lịch sử, quên các sự kiện cơ bản được khắc phục một cách đáng kể. Các
em chủ động tham gia vào hoạt động học tập, có tinh thần hợp tác để thực hiện
những nhiệm vụ học tập đơ[cj giao, từ đó phát triển được năng lực, phẩm chất cần
thiết đặc biệt là năng lực giải quyết các vấn đề mang tính thực tiễn. Khi tơi tìm hiểu
tâm lí học sinh, có đến hơn 90% học sinh không ngần ngại thổ lộ: Hiện nay các em
đã thấy thích học lịch sử, khơng cịn sợ như trước nữa, vì học lịch sử các em được
cuốn hút vào các hoạt động tìm hiểu khám phá kiến thức, được chơi các trị chơi, mà
ở đó các em được thể hiện hiểu biết của mình, được nói những gì mình suy nghĩ chứ
khơng bị gị bó ngồi nghe thầy cơ giảng suốt 45 phút như trước kia nữa. Để học sinh
hứng thú và u thích mơn học này, nhất là trong điều kiện xã hội hiện nay, thì đó là
một kết quả vô cùng to lớn đối với mỗi giáo viên.
V. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:
Để áp dụng một cách có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm trong dạy - học
lịch sử cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
1. Đối với nhà trường:
- Tuyên truyền, bồi dưỡng cho đội ngũ GV hiểu đúng, hiểu rõ tác dụng của
thảo luận nhóm trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng.
- Cần chú trọng đầu tư đúng mức trang thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo đáp


ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu dạy - học của giáo viên và học sinh trong việc tổ chức
dạy học theo nhóm.
- Tích cực thực hiện các hoạt động tham quan, ngoại khoá, học hỏi kinh
nghiệm… để mở rộng hơn nữa môi trường học tập của giáo viên và học sinh, khuyến
khích giáo viên và học sinh áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực,
phát huy tác dụng của hoạt động nhóm trong nhà trường.
1. Đối với giáo viên:
- Là người thiết kế và tạo môi trường cho phương pháp thảo luận nhóm, nên
giáo viên cần lập một kế hoạch bài giảng kỹ càng, chu đáo. Ngoài việc xác định mục

tiêu cụ thể của bài, giáo viên còn phải dự kiến kế hoạch hoạt động của thầy và trò,
xác định xem đơn vị kiến thức nào thích hợp với phương pháp thảo luận nhóm với kĩ
thuật khăn phủ bàn hoặc sơ đồ tư duy và nếu áp dụng thì nên lựa chọn kiểu nhóm
nào? Trong thời gian bao lâu? Phối hợp với những phương pháp nào?...
- Giáo viên cần phải chuẩn bị kĩ các câu hỏi, phiếu học tập, các tình huống và
cả các câu hỏi gợi mở nếu cần để khuyến khích học sinh suy nghĩ. Bên cạnh đó cũng
cần phải có kế hoạch chia nhóm cho phù hợp với nội dung kiến thức. Đặc biệt là
phải giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm đảm bảo tất cả các em đều phải làm việc
và làm việc một cách tích cực.
- Là người tổ chức, thiết kế, giáo viên phải quản lý, giám sát giúp đỡ hoạt động
thảo luận của học sinh. Phát hiện kịp thời những nhóm hoạt động khơng hiệu quả để
uốn nắn, điều chỉnh, cũng như động viên khuyến khích khen ngợi những nhóm tích
cực để tạo khơng khí học tập cởi mở, tự tin của học sinh.
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà một cách chu đáo để chủ động trong
việc tham gia hoạt động nhóm.
2. Đối với học sinh
- Để thảo luận nhóm có hiệu quả cần phải chuẩn bị bài kĩ càng theo hướng
dẫn của giáo viên trước khi vào học bài mới. Bởi có chuẩn bị bài học sinh mới có
tâm thế tự tin tham gia vào nhóm học tập của mình.
- Khi tham gia vào hoạt động thảo luận nhóm, cần chú ý lắng nghe sự hướng
dẫn của giáo viên, thực hiện tốt nhiệm vụ mà giáo viên giao cho, tham gia tích cực
vào hoạt động của nhóm, chú ý lắng nghe người khác phát biểu và cũng sẵn sàng đưa
ra ý kiến của mình, hợp tác thân thiện để nhanh chóng thống nhất ý kiến với tồn
nhóm.
Như vậy tổ chức dạy học theo nhóm theo đúng yêu cầu đổi mới là một trong
những hình thức thực hiện tốt nhất việc dạy học lịch sử phát huy tính tích cực và
tương tác của HS đặc biệt với HS lớp 9. Với hình thức này, học sinh được chủ động
học tập, chiếm lĩnh và làm chủ kiến thức, các em được lôi cuốn vào các hoạt động
học tập, được say mê tìm tịi và ngày càng trở nên u thích mơn học hơn. Tác dụng
của phương pháp thảo luận nhóm là rất to lớn, khơng thể phủ nhận. Tuy nhiên không

nhất thiết bài nào, nội dung nào cũng tổ chức thảo luận nhóm, bởi thảo luận nhóm dù
tổ chức tốt cũng có thể có những hạn chế nhất định như: một số học sinh lười học
vẫn có thể ỷ lại vào các bạn khác, học sinh có thể chỉ tập trung vào nội dung mà
nhóm mình thảo luận... Đó là những vấn đề mà mỗi giáo viên nên chú ý khắc phục
trong quá trình dạy học để mỗi giờ học đạt hiệu quả cao hơn.
VI. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN


Trên đây là một số những suy nghĩ và việc làm mà tơi đã đúc rút trong q
trình giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường. Tôi xin cam kết không sao
chép và vi phạm bản quyền tác giả. Rất mong được sự góp ý, xây dựng của đồng
nghiệp để cùng nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử, đáp ứng yêu cầu ngày
một cao hơn của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường.
Xin chân thành cám ơn!
Giao Xuân, ngày 22 tháng 3 năm 2015

CƠ QUAN ĐƠN VỊ

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Trường THCS Giao Xuân xác nhận: Sáng kiến
kinh nghiệm “Nâng cao chất lượng hoạt động
nhóm trong dạy học bộ mơn Lịch sử lớp 9 ở
trường THCS theo định hướng phát triển năng
lực học sinh” của tác giả Trần Thị Hiệp xếp loại
xuất sắc cấp trường đủ điều kiện dự thi cấp
huyện.


Trần Thị Hiệp


PHỊNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO HUYỆN GIAO THỦY
Phịng Giáo dục và Đào tạo huyện Giao Thủy xác nhận: Sáng kiến kinh nghiệm
“Nâng cao chất lượng hoạt động nhóm trong dạy học bộ môn Lịch sử lớp 9 ở
trường THCS theo định hướng phát triển năng lực học sinh” của tác giả Trần Thị
Hiệp xếp loại xuất sắc cấp huyện, đủ điều kiện dự thi cấp tỉnh./.
TRƯỞNG PHÒNG:

Mai Tiến Dũng


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Lịch sử - NXB Giáo dục
2007
2/ Tư duy học sinh tập 1- NXB Giáo dục Hà Nội
3/ Những vấn đề cơ bản giáo dục hiện đại – NXB Giáo dục Hà Nội năm 1999
4/ Sách giáo viên, sách giáo khoa lịch sử 9…
5/ Việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thơng - Tạp chí Giáo viên và nhà
trường số 32
6/ Các tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn lịch sử.
7/ Hướng dẫn thực hiện theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử Trung học cơ sở
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009.
8/ Tài liệu tập huấn giáo viên. Dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng trong chương trình Giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo.Hà Nội
năm 2010. 9/ Phương pháp dạy học lịch sử – NXB Đại học Sư phạm Hà Nội 2003





×