Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp giáo dục học sinh THPT cá biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 6

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH THPT CÁ BIỆT
TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2017


MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU ...............................................................................................
1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................
1
.1
1
2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................
2
.1
2
3. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................
.2


2
4. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................
2
.2
2
2
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ......................................
3
2
3
1. Cơ sở lí luận của SKKN ..........................................................................
5
.2
5
1.1.
Khái
niệm
HSCB
7
..............................................................................................................................
.2
9
1.2. Một số biểu hiện hành vi của HSCB
..............................................................................................................................
9
.2
1.3.
Ý
nghĩa
của

việc
giáo
dục
HSCB 10
..............................................................................................................................
.3
10
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN ....................................
11
.3
3. Các SKKN đã áp dụng để giải quyết vấn đề ...........................................
13
.5
13
3.1. Khảo sát tình hình HSCB của lớp chủ nhiệm
..............................................................................................................................
14
.5
3.2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn HS thành HSCB
16
...............................................................................................................................
7
17
3.3. Xác định rõ những yếu tố cần có của GVCN trong việc
17
giáo dục HSCB ..........................................................................
17
3.3.1. GVCN phải tâm huyết và trách nhiệm với HSCB
...............................................................................................................................
9

3.3.2. GVCN phải biết lắng nghe và trò chuyện với HS,
đặc
biệt

HSCB ................................................................


3.3.3. GVCN phải có sự quan tâm động viên và định
hướng kịp thời cho HSCB..................................................
3.4. Tin tưởng giao việc phù hợp với khả năng của HSCB .......
3.5. Giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho
HSCB .........................................................................................
3.6. Tạo ra các sân chơi phù hợp cho HSCB .............................
3.7. Áp dụng biện pháp kỉ luật tích cực đối với tập thể lớp và
HSCB .........................................................................................
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường ...............................................................
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ................................................................
1. Kết luận ….....................................................................................
2. Kiến nghị ………………………………………………………...
TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ


1

HSCB

Học sinh cá biệt

2

HS

Học sinh

3

GV

Giáo viên

4

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

5

GVBM

Giáo viên bộ môn


6

BCH

Ban chấp hành

7

ĐTN

Đoàn thanh niên

8

HL

Học lực

9

HK

Hạnh kiểm

10

SL

Số lượng


11

TL

Tỉ lệ

12

VD

Ví dụ


13

CBGV – NV

Cán bộ giáo viên – Nhân viên

14

GD & ĐT

Giáo dục và Đào tạo

15

SKKN

Sáng kiến kinh nghiệm


16

SGK

Sách giáo khoa

17

THPT

Trung học phổ thông


I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [1]. Giáo
dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình
thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã
hội, chính vì lẽ đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người
không chỉ là sự nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn là của toàn Đảng và
toàn dân ta nói riêng. Đối với nước ta “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [2]. Tuy nhiên trong những
năm gần đây mặt trái của nền kinh tế thị trường khiến cho một bộ phận người
dân đặc biệt là giới trẻ có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lí
tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí gây ra những hành động
phạm pháp. Các tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào học đường như: HS

nghiện games, nghiện hút (thuốc lá, ma túy), bài bạc, lô đề, trộm cắp, .... Nhiều
HS có lối sống tự do, buông thả, coi thường nền nếp, kỉ cương, vi phạm đạo đức,
pháp luật. Những HS này gọi chung là HS cá biệt (HSCB). Số HS này đang có
xu hướng gia tăng, làm đau lòng cha mẹ, đau đầu thầy cô, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự bình yên của mỗi tổ ấm gia đình cũng như sự phát triển chung của
toàn xã hội.
Là một GV, tôi luôn ý thức được HSCB trong mỗi trường học là đối tượng
mà nhà trường và GV phải lo lắng, quan tâm, đầu tư nhiều công sức và tâm
huyết. Đã vậy gần như ở cấp học nào, khối lớp nào cũng có HSCB. Đặc biệt với
HS cấp THPT ở độ tuổi giáp danh giữa trẻ em và người lớn với những biến đổi
về tâm sinh lí, sức khỏe, nhận thức thì tính “cá biệt” của một bộ phận HS ở lứa
tuổi này có thể gây hậu quả đáng tiếc nếu nhà trường và gia đình không có
những biện pháp thích hợp để ngăn ngừa.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi đã đi sâu tìm tòi,
nghiên cứu các giải pháp giáo dục HS đặc biệt là HSCB để tìm ra giải pháp tối
ưu. Trong năm học 2016 – 2017 với cương vị là GVCN tôi đã chọn đề tài “Một
số giải pháp giáo dục HS THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm” làm đề tài
sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Qua đề tài này giúp:
- HS trở thành một công dân có ích cho đất nước.
- Biết tôn trọng chính bản thân mình.
- Hiểu được ý nghĩa của việc học từ đó có thêm lòng đam mê trong học
tập và nghiên cứu.
1


- HS thấy được công lao to lớn của Thầy cô, cha mẹ… từ đó có lòng trung
thực, nhân ái… và trở thành một con người đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
- Giúp một phần nhỏ các GV những người làm công tác giáo dục biết rõ

vai trò quan trọng của mình và có thêm được giải pháp hợp lí trong sự nghiệp
giáo dục.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Trong đề tài này tập trung nghiên cứu vào đối tượng HS có biểu hiện cá
biệt là những em chưa ngoan, có nhiều vi phạm và những HS thường tự ti, trầm
cảm trong trường THPT Triệu Sơn 6 năm học 2016 – 2017.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu, sách,
các trang web về giải pháp giáo dục HS cá biệt, ... để hình thành cơ sở lý luận
cho đề tài.
Phương pháp điều tra: Thực hiện tại các trường THPT trong địa
bàn huyện.
Phương pháp quan sát: Quan sát hiện tượng HS vi phạm như: Mất
trật tự có hệ thống trong giờ học, bỏ học, bỏ tiết, hỗn láo, vô lễ với thầy cô, lười
học, thường xuyên nói tục, chửi bậy, nói dối với thầy cô và bố mẹ, hay đánh
nhau với bạn trong lớp, trong trường, ...
Phương pháp thống kê toán học: Lập bảng thống kê, phân tích, xử
lí số liệu của đề tài, giúp đánh giá vấn đề chính xác, khoa học.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn, trò chuyện với HS và CBGV
– NV trong trường và nhân dân trên địa bàn.
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Theo dõi hoạt động học
tập, kĩ năng giao tiếp của HS nhằm tìm hiểu kỹ năng sống của các em.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SKKN:
1.1. Khái niệm HSCB [3]:
- Thuật ngữ HSCB để chỉ những HS có những nét cá tính riêng, có suy
nghĩ và hành vi hoặc có những năng khiếu và sở thích đặc biệt khác với HS
trong lớp.
- Gia đình những HS này là gia đình riêng biệt với cá thể hoặc nhóm HS
trong những tình huống, những biện pháp khác biệt với chúng.

- Trong nhà trường GV cho rằng HSCB là những HS có những khiếm
khuyết về đạo đức nhân cách trong quá trình giáo dục.
- Theo quan điểm giáo dục đúng đắn đối với loại HS có khiếm khuyết về
đạo đức, nhân cách, nên thống nhất dùng khái niệm: HSCB.
1. 2. Một số biểu hiện hành vi của HSCB.
2


Những biểu hiện về mặt hành vi của những HS này thường là:
- Vi phạm nội quy của nhà trường, của lớp như: Mất trật tự có hệ thống
trong giờ học, lười học bài, đi học muộn, ...
- Vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô, cha mẹ, hay
nói tục chửi thề, ...
- Vi phạm pháp luật như: Đánh nhau, trộm cắp, trấn lột, cờ bạc, lô đề, ...
- Tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, tiêu cực trong suy
nghĩ, ....
1. 3. Ý nghĩa của việc giáo dục HSCB [3].
- Giáo dục HSCB trở thành HS tốt là một trong những nhiệm vụ vô cùng
khó khăn của GVCN nhưng lại có ý nghĩa hết sức to lớn đối với bản thân
HSCB, với nhà trường, với gia đình HS và xã hội.
- Theo điều tra, HSCB thường là những HS tháo vát, có những khả năng
tốt về văn nghệ, thể thao, khả năng tổ chức... Vì vậy GVCN có thể giúp các em
phát triển đúng hướng, phát huy tài năng, hoàn thiện nhân cách, đạo đức để trở
thành một người công dân có ích.
- Đối với lớp: Nhiệm vụ giáo dục có kết quả đối với HSCB là một trong
những điều kiện đảm bảo cho lớp học ổn định trật tự, nề nếp. Mọi thành viên
khác của lớp đều có điều kiện học tập, tu dưỡng đạt kết quả tốt.
- Đối với cha mẹ HSCB: Thành công trong nhiệm vụ giáo dục HSCB
của GVCN giúp gia đình HS tránh được sự bất hạnh, đem lại nguồn hạnh phúc
lớn lao cho họ.

- Đối với xã hội: Thành công trong nhiệm vụ giáo dục HSCB của GVCN
góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội và cung cấp cho xã
hội những công dân tốt.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN:
- Trong những năm gần đây, chất lượng giáo dục toàn diện ở các trường
phổ thông đã đạt được những kết quả khả quan. Đa số các HS đều có ý thức tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của mình và phấn đấu học tốt.
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ thì tỉ lệ HS vi phạm các chuẩn mực đạo
đức ở các mức độ khác nhau ngày càng tăng, nhiều vụ việc HS đánh nhau hội
đồng rất dã man từ những mâu thuẫn, xích mích, lời qua tiếng lại trên
facebook… được tung lên mạng gây bức xúc dư luận, xã hội.
- Trường THPT Triệu Sơn 6 được đóng trên địa bàn xã Dân Lực – Huyện
Triệu Sơn – Tỉnh Thanh Hóa, cùng với sự phát triển của xã hội nhiều trò chơi
giải trí mới lạ mọc lên trên địa bàn này như: Game online, bi – a, … thu hút một
lượng lớn HS của trường tham gia. Điều này kéo theo hiện tượng như: Lừa dối
bố mẹ để xin tiền, ăn cắp vặt, … đến trường những HS này thường lơ là việc
học, luôn tỏ ra là “sành điệu”, thích làm “đại ca”, hay thường bỏ tiết, trốn học,
3


nghỉ học vô lí do, …. Bên cạnh đó có không ít nhà trường, thầy cô giáo chỉ chú
tâm dạy chữ, kiến thức văn hóa mà sao nhãng, lơ là, thiếu biện pháp giáo dục
HSCB, HS đánh nhau… dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
- Theo thống kê từ ban nề nếp của trường, số HSCB năm học 2016 2017 là 48 HS, trong đó có 20 HS thuộc khối 10; khối 11 có 15 HS và khối 12 là
13 HS. Hành vi cá biệt của các em được thể hiện qua bảng sau:

Hành vi cá biệt

Khối 10


Khối 11

Khối 12

SL

TL

SL

TL

SL

TL

- Vi phạm nội qui của Nhà trường, của
lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học
bài, đi học muộn, ….

17

83.5
%

12

80
%


10

77%

- Chơi điện tử, bỏ học, bỏ tiết, lừa dối cha
mẹ, thầy cô, …

7

35
%

5

33
%

8

62%

- Vi phạm những chuẩn mực đạo đức,
hỗn láo với thầy cô, cha mẹ, hay nói tục,
chửi thề, …

5

25
%


3

20
%

3

23%

- Vi phạm pháp luật, đánh nhau, trộm cắp,
trấn lột, cờ bạc, lô đề…

4

20
%

4

27
%

2

15%

- Tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy
cô, bạn bè, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực
trong suy nghĩ, …


2

10
%

2

13
%

1

7.7
%

Bảng số liệu trên cho thấy số HS có hành vi vi phạm nhiều nhất là: Nghỉ
học vô lí do, chửi thề, gây gổ đánh nhau, cờ bạc, lô đề. Đặc biệt hiện tượng đáng
báo động hiện nay là tình trạng HS gây gổ đánh nhau, đây là những em chưa có
ý thức trong học tập, thiếu sự quan tâm của gia đình, các em thường bỏ giờ, trốn
học đi chơi bi – a, chơi game, la cà quán xá, do học yếu, ham chơi nên bị bạn bè
xấu lôi kéo dẫn đến vi phạm các chuẩn mực đạo đức, thậm chí là vi phạm pháp
luật. Bên cạnh đó, số HS có những hành vi vi phạm: Hút thuốc lá, chơi bài, lô đề
chiếm một tỉ lệ đáng kể đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sư phạm.
Đầu năm học 2016 – 2017 tôi được phân công tiếp nhận chủ nhiệm lớp
11A2 do GVCN cũ nghỉ sinh. Để có một kế hoạch giáo dục cụ thể tôi đã tiến hành
điều tra, khảo sát tình hình cụ thể của 45 HS trong lớp từ nhiều kênh khác nhau, kết
quả ban đầu thu được là: Tổng số 45 HS có 10 HS xếp loại HL khá; 27 HS xếp loại
HL trung bình; 08 HS xếp loại HL yếu; có 30 HS xếp loại HK tốt; 08 HS xếp loại
HK khá; 07 HS xếp loại HK trung bình; Đặc biệt lớp 05 HSCB với những biểu
hiện hành vi như sau:

4


STT

Họ tên HSCB

Hành vi cá biệt

1

Lê Văn Dương

- Ngủ gật, hay đi học muộn, nghỉ học vô lí do

2

Lê Văn Hiếu

- Nói tục, chửi thề, mất trật tự trong lớp, đánh nhau

3

Hồ Văn Thanh

- Ngủ gật, bỏ tiết, lười học bài

4

Lê Hữu Thiện


- Nghiện games, lô đề, nghỉ học không có lí do

5

Nguyễn Thị Vân

- Tự ti, ngại tiếp xúc với bạn bè, thầy cô.

Từ thực trạng trên, khi nhận lớp chủ nhiệm tôi đã tìm tòi học hỏi thêm từ
bạn bè đồng nghiệp, từ tài liệu sách báo, từ các bài tham luận, hội thảo, từ các
SKKN được đăng tải trên mạng về lĩnh vực giáo dục HS chưa ngoan, HS có học
lực yếu, HSCB, … để có kế hoạch giáo dục HSCB của lớp chủ nhiệm ngay từ
đầu năm học. Cuối năm học, kết quả đạt được rất khả quan nên tôi xin chia sẻ
cùng bạn bè đồng nghiệp “một số giải pháp giáo dục HS THPT cá biệt trong
công tác chủ nhiệm” mà tôi đã áp dụng rất hiệu quả trong năm học.
3. CÁC SKKN ĐÃ ÁP DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
3.1. Khảo sát tình hình HSCB của lớp chủ nhiệm
Bước 1. Thu thập thông tin về HSCB:
Để giáo dục được HSCB, người GVCN cần nắm bắt thông tin mọi mặt
về HS đó từ hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, quan hệ với mọi người xung
quanh, với bạn bè, người thân… đến sở thích, tâm tư nguyện vọng, ước mơ của
các em. Để làm được điều này tôi đã tiến hành như sau:
- Tổ chức cho HS hoàn thành các thông tin theo mẫu sau:
1. Họ tên:
2. Đặc điểm tính cách nổi bật:
3. Điểm mạnh:
4. Điểm yếu:
5. Sở thích:
6. Ghét:

7. Mục tiêu, mong muốn:
8. Những thuận lợi, khó khăn, rào cản trong việc thực hiện mục tiêu,
mong muốn:
9. Những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực từ gia đình, bạn bè, môi
trường sống, học tập:
10. Bản thân cần sự giúp đỡ nào từ GV, bạn bè:
5


11. Bản thân định sẽ làm gì để đạt được những mong muốn, mục tiêu
của mình:
 Thông qua việc làm này HS có thể nhận thức về bản thân về những
điểm mạnh điểm yếu cần khắc phục của mình. Đồng thời GV có thể nắm được
thông tin cơ bản về cá tính của từng HS, giúp GV có cách tiếp cận phù hợp để
giúp đỡ các em tiến bộ.
- Tìm hiểu thông tin về HSCB thông qua GVCN cũ và các GVBM:
Vì GVCN cũ của lớp là cô Lê Thị Hương đã nghỉ sinh sau khi kết thúc
năm học lớp 10 của lớp A2. Lớp 11 tôi được phân công làm công tác chủ nhiệm
thay thế. Để làm tốt nhiệm vụ của mình tôi đã trò chuyện với GVCN cũ và các
GVBM của lớp để nắm bắt tình hình học tập và rèn luyện của HS, đặc biệt là các
HSCB của lớp. Đây là nguồn cung cấp thông tin quý giá giúp tôi lập hồ sơ HS
một cách chính xác và nhanh nhất.
- Thu thập thông tin HSCB thông qua bạn bè và gia đình:
Thông tin về HSCB có thể thu thập bổ sung thêm thông qua bạn bè. Rất
nhiều điều mà GV không biết nhưng bạn bè lại biết. Khai thác được nguồn
thông tin này GVCN mới có thể đưa ra giải pháp giáo dục HSCB hợp lí cho
từng HS.
Thông tin về HSCB thu thập qua tiếp xúc, trò chuyện với gia đình HS
cũng rất quý giá để GVCN lập hồ sơ HS. GVCN có thể nắm được về hoàn cảnh
gia đình, đặc điểm của HS qua nhận định của cha mẹ HS để so sánh đối chiếu bổ

sung cho những thông tin mình đã thu thập được…
Bước 2. Phân loại HS cá biệt.
Từ kết quả thu được, đi sâu vào tìm hiểu hành vi cá biệt của từng HS ở
lớp học rồi tiến hành phân loại như sau:
Nhóm 1: Cá biệt do vi phạm nội qui của Nhà trường, của lớp, mất trật tự
trong giờ học, lười học bài, đi học muộn, …. (Gồm các HS: Lê Văn Dương, Lê
Văn Hiếu, Hồ Văn Thanh, Lê Hữu Thiện).
Nhóm 2: Cá biệt do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, bỏ tiết, lừa dối
cha mẹ, thầy cô, … (HS: Lê Hữu Thiện).
Nhóm 3: Cá biệt do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy
cô, cha mẹ, hay nói tục, chửi thề, … (HS: Lê Văn Hiếu);
Nhóm 4: Cá biệt do vi phạm pháp luật, đánh nhau, trộm cắp, trấn lột, cờ
bạc, lô đề… (HS: Lê Văn Hiếu, Lê Hữu Thiện ).
Nhóm 5: Cá biệt do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè,
hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ , … (HS: Nguyễn Thị Vân).
Bước 3: Lập hồ sơ về HSCB
Giáo dục HSCB không chỉ ngày một ngày hai là thu được kết quả mà
cần phải có thời gian và kế hoạch cụ thể. Dựa vào các thông tin thu thập được ở
6


trên và kết quả phân loại HSCB, tôi tiến hành lập hồ sơ từng HSCB, cụ thể hồ sơ
gồm:
+ Phiếu đặc điểm gia đình HS.
+ Phiếu theo dõi sự phát triển cá nhân từng HS qua từng tuần, tháng, học
kì, năm học.
+ Các thông tin sâu thu thập được về HS.
+ Học bạ.
+ Số điện thoại liên hệ.
3.2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn HS thành HSCB.

Số HS có hành vi cá biệt không nhiều so với tổng số HS của toàn lớp,
tuy nhiên nó lại có ảnh hưởng không nhỏ và dễ lây lan trong tập thể HS. Để tìm
những nguyên nhân trên tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của 60 người là GVCN,
GVBM, công tác quản lí và HS. Kết quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng: Những nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi cá biệt của HS.
TT Các nguyên nhân

Số ý kiến

Tỉ lệ

Xếp bậc

1

Gia đình, xã hội chưa quan tâm giáo dục
các em đầy đủ

50

83.3%

1

2

Người lớn chưa gương mẫu

47


78%

2

3

Những biến đổi về tâm sinh lí lứa tuổi

42

70%

3

4

Quản lí giáo dục đạo đức của nhà trường
chưa chặt chẽ

41

68.3%

4

5

Nội dung giáo dục đạo đức chưa thiết thực

39


65%

5

6

Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường

35

58.3%

6

7

Một bộ phận thầy cô chưa quan tâm giáo
dục đạo đức cho HS

27

45%

8

8

Ảnh hưởng của sự bùng nổ thông tin,

truyền thông

24

40%

9

9

Chưa có sự phối hợp tốt giữa các lực
lượng giáo dục

32

53.3%

7

10

Sự quản lí giáo dục đạo đức của xã hội
chưa đồng bộ

18

30%

12


7


TT Các nguyên nhân

Số ý kiến

Tỉ lệ

Xếp bậc

11

Phim ảnh, sách báo không lành mạnh, các
trò chơi trên mạng

21

35%

11

12

Nhiều đoàn thể xã hội chưa quan tâm đến
giáo dục đạo đức.

17

28.3%


13

13

Sự tác động của pháp luật chưa nghiêm,
chưa chặt chẽ

12

20%

14

14

Tệ nạn xã hội

23

38.3%

10

Bảng trên cho thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn HS thành HSCB, có
thể chia thành các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân từ gia đình: Gia đình là cái nôi của sự hình thành và phát
triển nhân cách của trẻ. Trình độ văn hóa, lối sống, phương pháp giáo dục có ảnh
hưởng lớn đến nhân cách của trẻ. Thực tế hiện nay những HS có hành vi cá biệt
thường ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ không có điều kiện

quan tâm đến việc học hành của con cái, hoặc có những gia đình có điều kiện
kinh tế tốt nhưng do bố mẹ nuông chiều, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất mà ít
quan tâm đến đời sống tinh thần và những đặc điểm phát triển tâm sinh lí lứa
tuổi của con cái. Bố mẹ chỉ lo làm giàu mà khoán trắng việc giáo dục con cái
cho nhà trường. Bên cạnh đó, nhiều gia đình bố mẹ thường xuyên cãi vã hoặc li
dị nhau… . Sự thiếu gương mẫu của người lớn chính là điều kiện để trẻ học tập
những thói hư tật xấu, là môi trường thuận lợi cho sự phát triển tình trạng
HSCB.
- Nguyên nhân từ phía nhà trường: Do sự giáo dục của nhà trường còn
nặng về kiến thức văn hóa, đôi khi lãng quên đi nhiệm vụ giáo dục con người
“tiên học lễ hậu học văn”. Mặt khác năng lực của một số GVCN lớp còn hạn
chế, chưa đi sâu đi sát từng HS để nắm bắt hoàn cảnh riêng của từng em, tìm
hiểu tâm tư nguyện vọng của các em. Một số ít GV thậm chí cả cán bộ quản lí
đôi lúc còn thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sống, chưa thực sự là “tấm
gương sáng để HS noi theo”. Việc áp dục các phương pháp giáo dục đạo đức
còn cứng nhắc, thậm chí sai nguyên tắc: Xem nhẹ yếu tố thuyết phục, thô bạo
trong đối xử với HS, …
- Nguyên nhân từ xã hội: Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng đã
làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt Internet là kho tài
nguyên vô tận, mang lại nhiều lợi ích cho con người nhưng nó cũng có mặt trái
ảnh hưởng đến giới trẻ như: Phim ảnh khiêu dâm, đồi trụy, bạo lực, những câu
chuyện trái với đạo đức thuần phong mỹ tục đã gieo vào lòng các em những suy
nghĩ lệch lạc, bắt trước, … Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến HS trở thành
HSCB.

8


- Nguyên nhân từ bản thân HS: Đó là những biến đổi tâm sinh lí lứa tuổi
HS THPT. Do các đặc điểm tâm sinh lí tuổi dậy thì, tình cảm của các em chưa

bền vững, không ổn định, khả năng làm chủ bản thân, bản lĩnh còn yếu trước
những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài… nên dễ phát sinh mặc cảm,
sự bồng bột, cả tin, … tạo cơ hội cho những hiện tượng tiêu cực trong xã hội
xâm nhập vào tư tưởng, tình cảm của các em.
Như vậy, có thể thấy nguyên nhân cơ bản của việc HS có những hành vi
cá biệt là do gia đình, nhà trường, môi trường xã hội và từ chính bản thân các
em. Việc tìm hiểu phát hiện đúng nguyên nhân dẫn đến HSCB vô cùng quan
trọng đối với tất cả các GV và các bậc cha mẹ. Nó cũng giống như tác dụng của
việc chẩn đoán bệnh của thầy thuốc trước khi bắt tay vào chữa trị.
3. 3. Xác định rõ những yếu tố cần có của GVCN trong việc giáo dục
HSCB.
3. 3. 1. GVCN phải tâm huyết và trách nhiệm với HSCB.
GV được mệnh danh là “người kỹ sư tâm hồn”, dù ở bất cứ thời đại nào
thì người GV vẫn cần một bầu nhiệt huyết, một trái tim yêu nghề. Học trò kính
trọng GV không chỉ vì giỏi chuyên môn, hiểu sâu biết rộng, … mà trước hết là ở
cái “tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “dù khó khăn gian khổ đến đâu
cũng phải dạy tốt, học tốt”. Bên cạnh sự tâm huyết với nghề, người GV cũng
cần phải có tinh thần trách nhiệm cao. Như một nhà hiền triết đã từng nói: “Một
kĩ sư tồi sẽ làm hỏng một ngôi nhà, một cây cầu; một bác sĩ không có đạo đức
sẽ giết chết một con người, song một người thầy thiếu trách nhiệm sẽ làm hỏng
một thế hệ thậm chí cả con cháu sau này”.
Đối với người GVCN, tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp họ có được
năng lực cảm hóa HS nói chung, HSCB nói riêng. Đó là năng lực gây ảnh hưởng
trực tiếp của GV đến với HS về mặt tình cảm và ý chí để thay đổi hành vi cá biệt
của HSCB, giúp cho các em phát triển nhân cách một cách đúng đắn.
VD1: HS Lê Hữu Thiện nghiện chơi game, bỏ học nhiều, tôi đã nhiều
lần dò hỏi, tìm tới tận quán Internet mà em thường tới đó chơi để khuyên nhủ,
động viên và đưa em về tận nhà, tôi gặp gỡ gia đình em để cùng có biện pháp
giáo dục giúp đỡ em, tôi luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến em, cuối giờ học
tôi thường tâm sự, động viên an ủi em, khuyên giải để em thấy rõ tác hại của

việc chơi game. Với những thái độ dịu dàng chân thành ấy, Thiện đã dần nhận
thức được sai lầm, có chí thú học hành và hạ quyết tâm bỏ chơi game, …
VD 2: HS Lê Văn Dương đi học muộn, hay nghỉ học không có lí do,
ngủ trong lớp, GV bộ môn ai cũng phản ánh và đề nghị xếp loại HK Yếu…. Là
GVCN tôi đã bỏ công tìm hiểu thì được biết Dương vì cha mất sớm, hoàn cảnh
gia đình quá khó khăn em luôn phải thức khuya dậy sớm để phụ giúp người mẹ
tàn tật…. Em ngại với bạn, với thầy cô nên ko dám nói. Biết được điều đó tôi đã
động viên chia sẻ với em rất nhiều, trong lớp có Kiên thường hay đi học qua nhà
em, Kiên là HS có học lực khá và hạnh kiểm tốt. Tôi đã cố tình xếp Dương ngồi
cùng Kiên để các em thân nhau hơn, tôi động viên và nhắc nhở Kiên hãy chia sẻ
9


động viên Dương, dần dần Kiên và Dương trở thành đôi bạn thân tự lúc nào, giờ
đây mỗi khi Dương gặp khó khăn là Kiên xuất hiện, qua Kiên tôi cũng nắm bắt
rõ hơn về tình hình của em. Chính sự quan tâm này đã khiến em tự tin hơn,
quyết tâm học tập hơn, cuối năm học em đã đạt học lực khá, hạnh kiểm tốt. Tuy
vậy, đằng sau sự nhiệt tình, tâm huyết của GV đối với học trò cũng rất cần có sự
phối kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình.
3. 3. 2. GVCN phải biết lắng nghe và trò chuyện với HS, đặc biệt là
HSCB.
- Đối với HS nói chung và HSCB nói riêng GV cần phải biết lắng nghe.
Vì khi lắng nghe GV sẽ thấu hiểu được những tâm tư nguyện vọng của HS. Chỉ
khi thấu hiểu thì mới trò chuyện chia sẻ được.
- Bí quyết để lắng nghe và trò chuyện là GV cần phải tạo ra môi trường
an toàn, thân thiện để HS tin tưởng, cảm giác thoải mái. Để làm được như vậy
GV cần thể hiện cho HS đó thấy rằng mình muốn nghe từ cách nhìn cũng như
cử chỉ, thể hiện sự quan tâm lắng nghe để hiểu hơn là để đáp lại, tránh những
việc làm gây mất tập trung, giữ bình tĩnh và kiên nhẫn, không nóng vội, không
cắt ngang lời. Phải đặt mình vào vị trí của các em để có thể đồng cảm với các

em, tránh tranh cãi hoặc phê phán.
VD: HS Hồ Văn Thanh trong lớp hay ngủ gật, bỏ tiết, lười ghi bài …,
khơi gợi HS tâm sự tôi mới hiểu ra điều em ấy đã giấu trong lòng bấy nay. Đó là
em ấy vô tình phát hiện ra mình được bố mẹ xin về nuôi từ nhỏ chứ không phải
là con ruột nên thất vọng và chán nản. Từ đó em không còn chú ý học như trước
nữa, tôi đã trò chuyện với em rất nhiều mỗi khi rảnh rỗi, dần dần em cảm thấy
tin tưởng, chia sẻ mọi chuyện với tôi như một người bạn lớn. Qua việc trò
chuyện tôi đã hiểu em hơn rất nhiều, và chia sẻ với em mọi khó khăn trong cuộc
sống. Để tỏ lòng biết ơn đối với tôi em đã cố gắng rất nhiều trong học tập và rèn
luyện, cuối năm học em cũng đã đạt được kết quả học lực với điểm trung bình
môn 6.5 và hạnh kiểm xếp loại khá.
 Việc lắng nghe và trò chuyện đã giúp GV xây dựng được quan hệ tin
cậy, tôn trọng, thân thiện với HS; giúp HS nhận thức đúng về điểm mạnh, điểm
yếu của bản thân, giúp các em nhận thức được hậu quả của những hành vi tiêu
cực và tất yếu phải thay đổi thói quen, hành vi cũ. Đồng thời GVCN có thể chia
sẻ những khó khăn, hỗ trợ đáp ứng những nhu cầu chính đáng của HSCB.
3. 3. 3. GVCN phải có sự quan tâm động viên và định hướng kịp thời
cho HSCB.
- Trong công tác giáo dục HSCB thì sự động viên, khuyến khích có vai
trò rất quan trọng. HSCB đa số là những HS không có động cơ, ý thức học tập,
khiếm khuyết về đạo đức nhân cách. Chính vì vậy GVCN phải là người trực tiếp
quan tâm, động viên các em với tình yêu thương vô bờ, tấm lòng độ lượng và
bao dung. Chính điều này sẽ xóa bỏ khoảng cách, làm cho các em cảm thấy
mình không bị “ghét bỏ” hay bị “trù dập”. Khoảng cách giữa GV và HS được
kéo lại gần hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, những chia sẻ, ….
10


Khi đó những lời động viên, những định hướng của GVCN sẽ đạt hiệu quả cao,
giúp các em có được tinh thần, động cơ và ý thức trong rèn luyện đạo đức và

học tập.
- HSCB thường là những HS không có lí tưởng sống, không có ước mơ,
hoài bão, không xác định được mục tiêu của cuộc đời mình nên không biết phải
rèn luyện những gì để giúp ích cho bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học tập và
rèn luyện của mình. Chính vì vậy GVCN cần phải định hướng cho HS dựa trên
những thông tin thu thập được trong hồ sơ HS để giúp các em xác định được
hoài bão, ước mơ của cuộc đời mình và trở thành người hữu ích.
VD: Tôi rất ấn tượng với HS Lê Hữu Thiện của lớp mình. Nụ cười với
chiếc răng khểnh của em trông thật thiện cảm và đáng yêu. Tuy nhiên qua bạn
bè trong lớp và qua những lần tiếp xúc trò chuyện, lắng nghe em chia sẻ, tôi
được biết em thường tham gia vào việc chơi lô đề mỗi ngày, thi thoảng chơi bài
bạc. Trong một lần tiếp xúc, trò chuyện với em, em nói với tôi “em học kiếm sơ
sơ ít chữ sau này con em nhỏ hỏi, em có thể trả lời cho nó ít câu”. Câu nói này
đã khiến tôi trăn trở và tự hỏi “tại sao HS của mình đã có suy nghĩ học để dạy
con nhưng lại chỉ dạy khi con còn nhỏ?”, phải chăng em cảm thấy mình không
có khả năng chiếm lĩnh tri thức, không có khả năng học cao hơn, xa hơn? Hay
em không thấy được ý nghĩa của việc học?. Chính điều đó đã thôi thúc tôi phải
làm gì đó cho Thiện để giúp em có suy nghĩ và mục tiêu đúng đắn hơn.
Thường ngày những khi rãnh rỗi, có điều kiện tiếp xúc với em tôi thường
động viên, khích lệ em để em thấy được khả năng của mình và tự tin hơn. Đồng
thời tôi cũng giúp em định hướng cho mình một nghề nghiệp trong tương lai.
“Mưa dầm thấm lâu”, “có công mài sắt, có ngày nên kim”, cuối cùng Thiện cũng
tìm thấy được con đường đi đúng đắn cho mình, từ bỏ việc chơi lô đề hàng ngày,
và em nói với tôi “từ nay cô và các bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy em chơi lô
đề, bài bạc nữa”. Đó là thành quả lớn lao mà tôi gặt hái được trong công tác chủ
nhiệm của mình.
3. 4. Tin tưởng giao việc phù hợp với khả năng của HSCB.
Là HSCB nhưng mỗi em đều có điểm mạnh, điểm yếu và sở thích riêng.
Nếu GVCN biết cách khai thác các điểm mạnh, sở thích đó của HSCB sẽ giúp
ích rất nhiều trong việc giáo dục các em. Thông qua hồ sơ HS để biết rõ về từng

HSCB, tôi đã tìm cách lôi cuốn các em vào công việc của lớp hợp với sở thích
và năng lực của các em.
VD1: HS Lê Văn Hiếu thuộc diện HSCB nhưng hầu hết các HS trong
lớp đều nghe theo lời em không chỉ vì em lớn hơn các bạn 1 tuổi mà em còn có
vẻ “từng trải” hơn. Tôi đã mạnh dạn cử Hiếu làm lớp trưởng với nhiệm vụ quán
xuyến tất cả mọi vấn đề chung của lớp. Kết quả, em hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ. Cuối năm lớp được giải Nhì nề nếp, trong lớp không có tình trạng HS vi
phạm nội quy, bị ghi sổ đầu bài hay đánh nhau.

11


Ảnh: HS nhận giải cho tập thể lớp đạt giải nề nếp năm học
VD 2: HS Hồ Văn Thanh là một trong những HSCB của lớp với các
hành vi như đã nêu nhưng em có năng khiếu về âm nhạc. Em có giọng hát rất
hay và thường xuyên được “luyện” trong phòng karaoke. Khả năng đạo diễn của
em cũng “đáng nể” nên tôi đã thuyết phục em vào sinh hoạt CLB âm nhạc, đảm
nhiệm cương vị đội trưởng của CLB và Lớp phó văn nghệ. Trong dịp thi đua
chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, tôi đã giao cho em dàn dựng tiết
mục múa hát dự thi. Em đã làm cho cả trường phải bất ngờ, thích thú về tiết mục
thú vị của lớp trong ngày thi đó.

Ảnh: Tiết mục nam giả nữ múa bài “Cây đa quán dốc”
12


 Thông qua việc làm này tôi thấy rằng HSCB không có nghĩa là các
em không biết làm gì hay không muốn làm gì. Điều quan trọng là người GVCN
phải hiểu rõ về HS của mình và tìm ra cách khơi gợi sự hứng thú và năng lực
tiềm ẩn của HS, mạnh dạn giao việc phù hợp sẽ kích thích, lôi cuốn các em vào

các hoạt động của trường, lớp thì những biểu hiện hành vi cá biệt của HS sẽ
giảm đi rất nhiều.
3. 5. Giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho HSCB.
Trong thời gian qua, giáo dục kĩ năng sống đã được coi trọng và thực thi
ở nhiều trường lớp dưới nhiều hình thức khác nhau như: Tích hợp, lồng ghép
vào các môn học và ở một số hoạt động ngoại khóa ngoài giờ lên lớp, … Tuy
nhiên, hiệu quả của công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, thực trạng học sinh
thiếu kĩ năng sống cơ bản như: Kĩ năng ứng xử, kĩ năng kiểm soát cảm xúc, kĩ
năng giải quyết xung đột, …. là một trong những nguyên nhân dẫn tới số lượng
HSCB ngày một gia tăng. Vì vậy tăng cường giáo dục giá trị sống và rèn luyện
kĩ năng sống cho HS là biện pháp cần thiết để góp phần ngăn chặn HS trở thành
HSCB.
- Để thực hiện GV có thể lồng ghép vào trong các tiết dạy các môn học
những nội dung cơ bản về kĩ năng sống nhằm hướng cho HS tới các giá trị cơ
bản của cuộc sống như: Giản dị, khiêm tốn, khoan dung, trung thực, tôn trọng,
hợp tác, đoàn kết, trách nhiệm, tự do, hòa bình, hạnh phúc, yêu thương.
- Bản thân là một GV bộ môn đồng thời là GVCN tôi đã lồng ghép các
nội dung giáo dục kĩ năng sống thông qua các tiết dạy và tiết sinh hoạt chủ
nhiệm như: Đưa ra các bài tập tình huống về kĩ năng sống và cách giải quyết để
rút ra bài học về giá trị sống, hay tổ chức hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, và phối
kết hợp với các hoạt động do ĐTN phát động.
 Với cách làm này đã giúp HS hiểu rõ hơn về các giá trị đích thực của
cuộc sống và rèn luyện kĩ năng sống, tạo điều kiện phát triển nhân cách HS một
cách đúng đắn, giúp các em vững tin trong cuộc sống và hướng tới thành công
trong tương lai.
3. 6. Tạo ra các sân chơi phù hợp cho HSCB.
- Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS trở thành HSCB
đó là vì các em không có sân chơi phù hợp với năng lực và sở thích của bản
thân. Chính vì thế các em không thấy trường học thú vị, các môn học không thể
lôi cuốn các em nên các em đều chán việc học ở trường và bỏ đi chơi tìm đến

các thú vui khác, có khi đó là những thú vui không lành mạnh.
- Để khắc phục tình trạng trên, tôi đã lên kế hoạch, phối hợp với các
GVBM và BCH Đoàn trường thành lập các câu lạc bộ như: Câu lạc bộ tiếng
anh, câu lạc bộ tin học, câu lạc bộ âm nhạc, CLB thể thao, … nhằm khơi gợi
niềm đam mê, phát huy được năng lực của bản thân HSCB, tạo niềm vui, hứng
thú cho các em mỗi khi đến trường, giúp các em HSCB có thể hòa đồng với tập
thể, khẳng định được bản thân mình.
13


VD 1: Thiện mê điện tử nhưng có ưu điểm rất thông minh và sử dụng
máy tính rất thành thạo. Tôi đã lôi cuốn em vào sinh hoạt trong CLB tin học.
chính những buổi sinh hoạt trong câu lạc bộ Thiện đã giúp được rất nhiều HS
trong lớp sử dụng thành thạo máy tính, có thể soạn thảo được những mẫu văn
bản rất đẹp (soạn thảo văn bản là một trong những nội dung chính trong chương
trình sgk tin học 10)…. Từ đó các bạn trong lớp rất thiện cảm và có cái nhìn rất
tốt về em. Bản thân Thiện cũng cảm thấy mình có ích, giờ em thấy mình không
lạc lõng giữa tập thể lớp, ngược lại em cảm thấy vui khi đến trường và còn tích
cực tham gia vào các hoạt động tập thể do ĐTN hay nhà trường phát động. Đặc
biệt để trị được bệnh nghiện game của em tôi đã tìm hiểu kĩ hiện tại em đang
chơi gì, sau đó tôi đã dày công “luyện”, cuối cùng tôi đã hẹn thách đấu với em
vào một buổi ngoại khóa. Tuy tôi không thắng được em nhưng tôi đã khiến em
phải nể phục. Từ đó em cũng không còn quá đam mê điện tử nữa mà chú tâm
vào học hành. Cuối năm học em đã đạt thành tích học tập với học lực khá. Đây
là một bước tiến đáng tự hào.
VD 2. Nguyễn Thị Vân là HS tuy bị trầm cảm nhưng có ưu điểm là
chạy rất nhanh và trong môn quốc phòng em tháo lắp súng rất giỏi, với thời gian
ngắn. Tôi đã phối hợp với GV Thể dục – Quốc phòng bồi dưỡng cho em đi thi
HS giỏi môn Quốc phòng an ninh ở nội dung tháo lắp súng và thi chạy việt dã ở
huyện. Kết quả, em đạt giải 3 ở nội dung tháo lắp súng và giải khuyến khích

chạy việt dã của huyện. Thành tích này đã khích lệ em rất nhiều, khiến em tụ tin
hơn, hòa đồng hơn với các bạn trong lớp.

Ảnh: Nguyễn Thị Vân đứng trên bục vinh quang nhận giải
 Với những kết quả đạt được ở trên là nguồn động lực lớn lao để tôi có
thêm niềm tin phát triển các câu lạc bộ vững mạnh hơn.
3. 7. Áp dụng biện pháp kỉ luật tích cực đối với tập thể lớp và
HSCB.
Để theo dõi mọi hoạt động của HS trong lớp tôi đã tiến hành lập ra cuốn
sổ “nhật kí lớp học” với mẫu sau:
14


SỔ NHẬT KÍ LỚP HỌC
Tháng/ Năm: …
STT

Tuần học

Thứ/ ngày

Họ tên HS

Việc tốt/ Điểm tốt

Việc xấu/ Điểm xấu

Xác nhận của TT

....


….

….

……………

……….

………

………..

Xác nhận của GVCN
(Kí tên)
VD: Tháng 4/ 2017
STT

Tuần học

1

15

Thứ/ Ngày
Thú 4/ 20

Họ tên HS

Việc tốt/ Điểm tốt


Lê Hữu Thiện

Việc xấu/ Điểm xấu
Văn: 4 (Miệng);

Xác nhận của TT
TT tổ 1: Lê Văn An

Tiết Văn: Nói chuyện
bị ghi SĐB
2

15

Thứ 6/ 22

Hoàng Thu Hà

3

15

Thứ 7/ 23

Lê Văn Dương






….



Sử 10 (Miệng)



TT tổ 3: Nguyễn Nhung
Nghỉ học (kp)

TT tổ 2: Lê Văn Tuấn



….
Xác nhận của GVCN
(Kí tên)
Nguyễn Thị Lê
15


- Sau mỗi tiết học, HS có thành tích tốt và bị phê bình, nhắc nhở tự ghi
nhật kí, có chữ kí xác nhận của tổ trưởng.
- Sau mỗi tuần học, dựa vào kết quả theo dõi lớp trưởng đánh giá chung
các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá xếp loại cụ thể từng thành viên trong tổ,
GVCN cùng tập thể lớp bầu chọn một HS xuất sắc nhất trong tuần để tuyên
dương, khen thưởng trước lớp. Bên cạnh đó một số HS vi phạm (đặc biệt số HS
vi phạm kỉ luật nặng) cũng sẽ được nhắc nhở xử phạt (ví dụ: Phạt lao động đối

với HS nghỉ học vô lí do, dọn vệ sinh đối với những HS vi phạm sổ đầu bài....).
 Việc làm này giúp GVCN cập nhật được đầy đủ các thông tin liên
quan đến HS như: Vắng/ chậm, bỏ tiết, vi phạm nội qui, vô lễ với thầy cô, các
điểm số đạt được trong tuần, … để nắm bắt đúng về tình hình học tập và rèn
luyện của HS trong từng tuần. Từ kết quả trên GVCN có thể đánh giá chính xác
kết quả của HS đồng thời có biện pháp giáo dục phù hợp, kịp thời và hiệu quả.
4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC,
VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
Từ việc vận dụng linh hoạt các giải pháp nêu trên đối với từng loại HSCB đã giúp
cho bản thân tôi thành công hơn trong công tác chủ nhiệm của mình. Cụ thể kết quả cuối năm
của lớp 11A5 năm học 2016 – 2017 đạt được như sau:

Xếp loại

Học lực
Hạnh kiểm
SL
%
SL
%
Giỏi-Tốt:
01
2.2%
34
75.6%
Khá:
20
44.4%
10
22.2%

T.bình:
23
51.1%
01
2.2%
Yếu:
01
2.3%
0
0.0%
Kém:
0
0.0%
Cộng
45
100.0%
45
100.0%
Danh hiệu HS Giỏi
1
2.2%
Danh hiệu HS Tiên tiến
20
44.4%
- Đối chứng với kết quả đầu năm số HS có học lực khá – giỏi tăng lên
một cách rõ rệt, giảm thiểu số HS yếu một cách đáng kể, cụ thể số HS giỏi tăng
2.2%; HS khá tăng 22.2%; HS trung bình giảm 8.9%; HS yếu giảm 15.5%.
- Về mặt hạnh kiểm: HK tốt tăng 8.3%; khá tăng 4.5%; trung bình giảm
13.4%.
- Không còn HS nào thuộc diện HSCB.

- Thành tích khác:
+ Giải nhì nề nếp năm học 2016 – 2017;
+ Giải nhì văn nghệ 20/11;
+ Giải khuyến khích khéo tay hay làm chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ
8/3; giải ba cầu lông đôi nam nữ 26/3.
 Đây là thành quả lớn lao mà tôi gặt hái được trong công tác chủ
nhiệm của mình.
III.

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
16


1. KẾT LUẬN:
- Giáo dục HSCB thành HS ngoan hiền là điều hết sức cần thiết. Việc
vận dụng linh hoạt các giải pháp nêu trên của tôi đã đem lại hiệu quả rất cao. Đã
có nhiều HSCB chưa ngoan nhưng sau 3 năm học tập các em thực sự trưởng
thành, trở thành công dân có ích cho đất nước, biết tôn trọng bản thân, hiểu được
ý nghĩa của việc học và có thêm lòng đam mê học tập và nghiên cứu.
- Đã giúp được một phần nhỏ GV những người làm công tác giáo dục
biết rõ vai trò quan trọng của mình và có thêm được giải pháp hợp lí trong sự
nghiệp trồng người.
 Công tác giáo dục HSCB luôn là một thử thách rất lớn đối với mỗi
GVCN, song làm tốt được điều này người GV mới trở thành một nhà giáo dục
đúng nghĩa.
2. KIẾN NGHỊ:
1. Đối với Nhà trường:
- Cần đề xuất với ban giám hiệu nhà trường không chỉ chú trọng đầu tư
cho việc bồi dưỡng HS giỏi mà cần có sự quan tâm, đầu tư cho việc giáo dục
HSCB, thậm chí có những chính sách khen thưởng cho việc rèn luyện giáo dục

HSCB.
- Cần có kế hoạch nhân rộng các điển hình GVCN giỏi của trường.
2. Đối với Sở GD & ĐT:
- Cần có nhiều hơn các đợt tập huấn về lĩnh vực công tác chủ nhiệm.
- Cần có nhiều hội thảo về lĩnh vực giáo dục HSCB.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi, trong quá trình thực hiện vẫn
còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của đồng nghiệp để nội dung đề tài hoàn
thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Lê

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. GHI CHÚ:
[1]. Trích trong bài thơ “Nửa đêm” (Tập thơ “Nhật kí trong tù” – Hồ Chí
Minh).
[2]. Điều 2, chương I - luật giáo dục năm 2005.
[3]. Tài liệu trên mạng Internet:
Nguồn: />biet-trong-nha-truong-thcs-6591/
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Mô đun THPT 3 “Giáo dục HS THPT cá biệt” của Bộ GD & ĐT.
2. Mô đun THPT 35 “Giáo dục kĩ năng sống cho HS THPT” của Bộ
GD & ĐT.
3. Mô đun THPT 36 “Giáo dục giá trị cho HS THPT” của Bộ GD &
ĐT.
4. Mô đun THPT 41 “Tổ chức hoạt động tập thể cho HS THPT” của
Bộ GD & ĐT.
5. Nguyễn Công Khanh “Giao tiếp ứng xử tâm lý tuổi học đường” của
NXB Thanh niên, 2007.
6. Tham khảo một số tài liệu trên mạng Internet:
- Nguồn: />- Nguồn:
o/index.php/sphcm/article/viewFile/11763/10724

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THPT Triệu Sơn 6

TT

1.

Tên đề tài SKKN

Một số giải pháp trong công

Cấp đánh giá xếp
loại

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Ngành GD cấp
Xếp loại C 2012 –
tỉnh; Tỉnh Thanh
2013
tác chủ nhiệm nhằm nâng cao
Hóa
chất lượng giáo dục học sinh



×