Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Trang bị kiến thức sức khỏe sinh sản nhằm hạn chế tình trạng nạo phá thai cho học sinh THPT thông qua tiết 1 bài 12 GDCD lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.53 KB, 20 trang )

Mục lục
Nội dung
Phần 1: Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích của đề tài
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phần 2: Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Các khái niệm liên quan
2.1.2. Các biện pháp phá thai
2.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý tuổi vị thành niên
2.2. Thực trạng
2.2.1. Tình hình nạo phá thai tuổi vị thành niên ở nước ta
2.2.2. Nguyễn nhân nạo phá thai ở tuổi vị thành niên ở nước ta
2.2.3. Hậu quả của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên
2.3. Giải pháp khắc phục tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên
2.4. Hiệu quả của đề tài
Phần 3: Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
2
2
2
3
3


3
4
5
7
7
8
9
12
14
16
16
16
18


PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong xu thế hội nhập và giao lưu giữa các quốc gia, các luồng văn hóa bên
ngoài có điều kiện xâm nhập vào nước ta ngày càng mạnh mẽ. Song hành cùng
những yếu tố văn hóa có tác động giáo dục lành mạnh, trong sáng, phù hợp với đạo
đức,lối sống của dân tộc và tuổi trẻ Việt Nam, không ít những yếu tố ảnh hưởng
tiêu cực đến thanh thiếu niên nước ta.
Vị thành niên và sức khỏe sinh sản của vị thành niên là một vấn đề mà cả xã
hội quan tâm và đặt lên một vị trí khá quan trọng, là yếu tố quyết định sự phồn vinh
của xã hội. Hiện nay, thiếu kiến thức và thông tin về sức khỏe sinh sản đi cùng
những thay đổi về văn hóa, kinh tế - xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những
hành vi có nguy cơ mắc sai lầm cao ở vị thành niên và thanh niên.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới và trong nền kinh tế thị trường, vị
thành niên Việt Nam ngày nay đang đứng trước trước nhiều vấn đề mới mẻ, phức
tạp, những thuận lợi và khó khăn, những nguy cơ và thách thức, các em cần phải

làm gì để có nhận thức, thái độ và hành vi đúng đắn, phát huy được khả năng và trí
tuệ của mình đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và để trở thành
những chủ nhân thực sự của tương lai đất nước. Nhất là trong thời đại công nghệ
thông tin ngày nay càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ hơn nữa, các em năng động, muốn
khẳng định bản thân và khám phá mọi thứ xug quanh mình tình yêu, giới tính…
Đây chính là ngòi nổ dẫn tới tình trạng nạo phá thai xảy ra liên tục ở độ tuổi này.
Bởi các em không hiểu biết về sự nguy hiểm của vấn đề và cách phòng chống, tình
trạng học sinh nữ tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông hàng năm
phải bỏ học vì mang thai ngoài ý muốn ngày càng nhiều do thiếu kiến thức, số ca
nạo phá thai ở tuổi vị thành niên là rất lớn và đang có chiều hướng gia tăng ( theo
thống kê của tổ chức y tế thì mỗi năm có khoảng 5000 ca nạo phá thai trong đó có
20% là ở tuổi vị thành niên). Và thực trạng này đã để lại nhiều hậu quả đáng buồn
cho các em trong tương lai.
Trường THPT Quảng Xương 2 với hơn một nghìn học sinh, đa phần các em
đều chăm ngoan, học tốt, có ý chí phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn một bộ phận các em ham chơi, đua đòi, sớm sa vào con đường yêu
đương, thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức về tình yêu, tình dục nên dẫn đến hậu quả
mang thai ngoài ý muốn phải đi nạo phá thai, bỏ học giữa chừng, đây là một thực
trạng rất đáng buồn đối với cả tập thể giáo viên chúng tôi.
Để đưa lên tiếng chuông cảnh tỉnh về thực trạng nạo phá thai của giới trẻ
ngày nay, để các em hiểu hơn về vấn đề này, sự nguy hiểm cũng như tầm quan
trọng của sức khỏe sinh sản. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “ Trang bị kiến
thức sức khỏe sinh sản nhằm hạn chế tình trạng nạo phá thai cho học sinh
THPT thông qua tiết 1 bài 12 GDCD lớp 10” . Nghiên cứu vấn đề này tôi xin đưa
2


ra thực trạng và những ảnh hưởng của việc nạo phá thai tới sức khỏe sinh sản. từ đó
tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục thực trạng trên.
Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tập trung đi sâu vào một nội dung trong

tiết 1 bài 12 – đó là nội dung “không nên có quan hệ tình dục trước hôn nhân”.
1.2. Mục đích của đề tài:
Mục đích của đề tài này là trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về
đặc điểm cơ thể , tâm sinh lí lứa tuổi vị thành niên, quá trình thụ thai ở người, thế
nào là tình dục an toàn và hậu quả của việc mang thai, nạo phá thai ở trẻ vị thành
niên. Từ đó, giúp các em hình thành nhận thức đúng đắn về vấn đề này, có trách
nhiệm trong các mối quan hệ, tránh được những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
Như vậy, các em sẽ bước vào đời vững vàng hơn, tránh những con đường sai lầm
ảnh hưởng đến tương lai.
Vấn đề không dừng lại ở việc giáo dục để các em hiểu về giới tính, sức khỏe sinh
sản, những điều có thể xảy ra trong quan hệ tình dục hay hậu quả tai hại của việc
mang thai sớm mà còn phải giáo dục để các em nhận thức sâu sắc giá trị cao đẹp
của tình bạn, tình yêu, giáo dục những khía cạnh đạo đức về giới tính cho các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh các lớp trưc tiếp giảng dạy: 10B4,10B6,10B7 (Tổng số 126 học
sinh) năm học 2016- 2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, thực tế.
- Phương pháp thăm dò ý kiến.

3


PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Hiện nay có một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành
niên những thông tin và giúp chúng phòng ngừa việc có thai và các bệnh lây truyền
qua đường tình dục sẽ vô tình thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và bừa bãi.
Tuy nhiên, thực tế thực hiện giáo dục giới tính ở nhiều nước cho thấy hoàn toàn
ngược lại. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới

tính trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho thấy trẻ vị thành niên có hoạt động
tình dục trễ hơn, giảm hoạt động tình dục, biết cách sử dụng các biện pháp ngừa
thai một cách hiệu quả và hoàn toàn không thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm
và nhiều hơn. Giáo dục giới tính hiệu quả nhất khi thực hiện trước khi trẻ bước vào
tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp khuyến khích trẻ không hoạt
động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an toàn, giảm thiểu thai
ngoài ý muốn ở các em.
Cuộc sống hoàn toàn không dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là trong
hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được chuẩn bị
đầy đủ để đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện nay đã và
đang cho thấy điều đó. Nếu chúng ta mong đợi trẻ vị thành niên những quyết định
đúng đắn, có trách nhiệm trước những cạm bẫy và thách thức của xã hội, chúng ta
phải đảm bảo trẻ vị thành niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ năng và phương
tiện để có thể tự quyết định mọi vấn đề.
2.1.1. Các khái niệm có liên quan
- Khái niệm sức khỏe sinh sản [10]
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa: “ Sức khỏe sinh sản (SKSS) là một trạng
thái khỏe mạnh, hài hòa về thể chất tinh thần và xã hội trong tất cả mọi khía cạnh
liên quan đến hệ thống sinh sản chứ không phải chỉ là không có bệnh tật hay tổn
thương hệ thống sinh sản’’
- Khái niệm vị thành niên
Vị thành niên là lứa tuổi 10 – 19 tuổi [10] là độ tuổi vị thành niên. Chương
trình sức khỏe sinh sản / Sức khẻo tình dục vị thành niên – thanh niên của khối Liên
minh châu Âu (EU) và quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 – 24.
Ở Việt Nam vị thành niên là lứa tuổi từ 10 – 18 tuổi. Thanh niên là từ 16 - 24
tuổi. Trẻ em được luật pháp bảo vệ chăm sóc giáo dục là dưới 16 tuổi. Về mặt luật
pháp vị thành niên là dưới 18 tuổi.
Hội KHHGĐVN xác định vị thành niên - thanh niên là 10 - 24 tuổi.
- Khái niệm nạo phá thai [8]
Phá thai được hiểu một cách đơn giản là một biện pháp nhằm chấm dứt quá

trình thai nghén. Nó có thể xảy ra theo 2 cách: ngẫu nhiên hoặc có mục đích. Hầu
hết các vụ phá thai đều có mục đích. Những trường hợp ngoại lệ, tức là những vụ
phá thai vì "tai nạn", được thực hiện do các khuyết tật của người mẹ hoặc đứa con,
4


đôi khi của cả hai. Chúng được gọi là trường hợp "phá thai bộc phát" để phân biệt
với những trường hợp không phải vì tai nạn, mà bị gọi bằng cái tên "hơi quá mạnh"
là "tội phá thai". Điều này gây lúng túng vì một số trường hợp “tội phá thai” lại
được thực hiện một cách bộc phát. Tốt hơn nên gọi hình thức thứ hai này bằng cái
tên “ phá thai có chủ đích” hay “cố ý phá thai”
+ Thế nào là phá thai an toàn:
Phá thai an toàn nhất và ít tai biến nhất là ở các bệnh viện chuyên khoa sản,
do các bác sĩ có trình độ chuyên môn và có tay nghề cao thực hiện, theo dõi, cơ sở
y tế đảm bảo điều kiện vô trùng tuyệt đối và có thể cấp cứu kịp thời với những
trường hợp “tai biến”, điều kiện sức khỏe của thai sản cho phép việc thực hiện phá
thai và tuổi thai chưa quá lớn, trong vòng từ 7 đến 8 tuần.
+ Thế nào là phá thai không an toàn:
Loại phá thai nguy hiểm nhất có lẽ là “lén lút” và “dân dã” mà những người
có thai tự đưa vào tử cung mình những chất hóa học. Một số bạn gái khi lần đầu có
thai đã rất lo sợ, không giám đến bệnh viện. Trong điều kiện ở nhà có bạn đã tự
hành hạ mình bằng cách đặt vào âm đạo những hóa chất hoặc tiêm qua ven những
chất độc để gây xẩy thai. Sau những cuộc phẫu thuật lén lút như vậy nguy cơ vô
sinh thường gặp cao gấp 4 lần. Nguy hiểm còn có thể xảy ra đối với những trường
hợp phá thai đã quá lớn – trên 12 tuần tuổi. Trong những trường hợp này khi nạo rễ
xảy ra những tổn thương khác nhau đối với cổ tử cung. Một trong những nguy hiểm
là do xương của bào thai đã quá to có thể làm xây xước hoặc làm thủng tử cung.
Đối với những bạn gái có u phá thai cũng rất nguy hiểm.
2.1.2 Các biện pháp phá thai [8]:
Một vài năm trước đây biện pháp phá thai bằng hút chân không được sử

dụng khá phổ biến , song hiện nay phương pháp này lại ít được sử dụng, bởi sử
dụng hút chân không, các phần của phôi thai có thể không hút ra được hết và vẫn
phải nạo lại. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thủ thuật phá thai cũng
dần trở nên đảm bảo và an toàn hơn. Tùy thuộc vào tuổi thai và điều kiện của từng
cơ sở y tế mà các bác sĩ đi đến quyết định có thể sử dụng biện pháp phá thai nào thì
an toàn nhất cho người phải phá thai. Hiện nay nước ta có những biện pháp phá thai
chủ yếu sau:
- Phá thai bằng thuốc ( được thực hiện đối với trường hợp tuổi thai dưới 7
tuần tuổi)
- Hút thai ( được thực hiện khi tuổi thai đã quá 8 tuần tuổi)
- Nạo thai ( được thực hiện khi tuổi thai chưa quá 12 tuần tuổi
- Phá thai bằng kovax ( được thực hiện khi tuổi thai đã lớn)
Việc sử dụng biện pháp phá thai nào do bác sỹ quyết định, tùy thuộc vào kỹ
thuật chuyên môn của bác sĩ tại các cơ sỏ y tế đó cũng như tùy thuộc vào điều kiện
sức khỏe, tuổi thai .

5


2.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý tuổi vị thành niên [5]
Vị thành niên là giai đoạn phát triển từ một trẻ thơ để trở thành người lớn,
giai đoạn này có nhiều biến đổi về mặt tâm sinh lý, kích thước cơ thể thay đổi và
mang những dấu hiệu đặc trưng của từng giới.
Những dấu hiệu dậy thì cơ bản của bạn gái:
- Những thay đổi về sinh lý:
Vú nhô lên, hông nở ra, tầm vóc tăng đột ngột, mọc lông ở khu vực sinh dục,
các tuyến bã ở da xuất hiện, tử cung và âm đạo phát triển đầy đủ.
Vóc dáng cơ thể: Từ một em gái nhở, cơ thể các bận bắt đầu có vóc dáng
thiếu nữ, sớm có thể từ 9 tuổi muộn có thể từ 14 tuổi. Có bạn lớn từ từ có bạn lớn
rất nhanh. Cơ thể mềm mại và giàu nữ tính.

Tăng trưởng của khung chậu: Ở tuổi dậy thì khung xương chậu phát triển
rộng.
Sự phát triển của vú: Từ tuổi 10 – 12, hai bên vú to dần lên và nâng cao khỏi
thành ngực. Trong quá trình phát triển vú này có thể phát triển nhanh hơn vú kia,
hoặc đôi khi bạn gái cảm thấy đau, tức. Điều đó không phải là dấu hiệu bất thường
và không có gì phải lo lắng.
Sự phát triển của lông mu và lông nách: Khi bắt đầu dậy thì lông mu và lông
quanh bộ phận sinh dục bắt đầu phát triển. Lông nách cũng xuất hiện sau đó.
Trứng cá: Trứng cá thường gặp ở tuổi dậy thì ở cả nam và nữ do sự hoạt
động của tuyến bã, tuyến mồ hôi. Các bạn trẻ cần giữ vệ sinh sạch sẽ, tránh ăn
nhiều mỡ, ngọt, chất kích thích.
Kinh nguyệt: Sự xuất hiện của kinh nguyệt là dấu hiệu quan trọng nhất của
tuổi dậy thì, thể hiện sự bắt đầu hoạt động của hệ sinh dục. Kinh nguyệt có thể xuất
hiện sớm từ năm 12 – 13 tuổi, cũng có thể muộn hơn vào năm 16 -17 tuổi. Một chu
kỳ kinh nguyệt thường kéo dài 28 ngày, tính từ ngày bắt đầu hành kinh cho tới ngày
bắt đầu hành kinh lần sau. Thời gian đầu có thể kinh nguyệt chưa đều, điều đó các
bạn gái không nên quá lo lắng. Khi bắt đầu có kinh nguyệt là bắt đầu các bạn có
khả năng có thai. Ở tuổi dậy thì vì cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh, việc có thai có
thể tác động không tốt đến sức khỏe của bạn.
- Những thay đổi về tâm lý:
Cùng với những biến đổi về cơ thể, sinh lý, đời sống tâm lý của trẻ vị thành
niên cũng có những thay đổi sâu sắc. Các em dần tự chủ về tâm lý, tình cảm có cảm
xúc về giới tính, đồng thời suy nghĩ về vai tr”ò tương lai của các em trong xã hội.
Quá trình này diễn ra dần dần, đem đến nhiều cảm xúc cho các em nhưng đôi khi
không ổn định. Sau đây là một số đặc điểm tâm sinh lý nổi trội ở lứa tuổi này.
Ý thức tự trọng, tính độc lập trong suy nghĩ và hành động: Ở tuổi này các em
có xu hướng tách ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ. Các em có tâm lý muốn làm người
lớn, coi mình là người lớn”. Các em không còn đòi đi chung với cha mẹ, muốn tự

6



chọn bạn, muốn được ăn mặc theo ý thích. Các em không còn hay tâm sự với cha
mẹ mà chuyển từ sinh hoạt gia đình sang sinh hoạt bạn bè, ngưỡng mộ thần tượng.
Những cảm giác đối với bản thân: Những biến đổi sinh học đôi khi có tác
động đến tâm lý trẻ vị thành niên. Các em có nhu cầu khám phá cơ thể mình và bạn
khác giới ( hay để ý băn khoăn những thay đổi cơ thể)
Những cảm xúc giới tính: Sự phát dục ở tuổi vị thành niên đã kích thích các
em băt đầu quan tâm đến bạn khác giới, làm xuất hiện những cảm giác cảm xúc
giới tính mới lạ. Những rung cảm mới lạ này đôi khi lướt qua nhanh chóng nhưng
cũng có khi kéo dài. Tuy nhiên không phải tất cả các em đều có những rung cảm
như vậy, cũng có một số các em sớm bị cuốc hút vào con đường yêu đương tình ái.
Những dấu hiệu dậy thì cơ bản của bạn trai :
- Những thay đổi về thể lực:
Ngực và vai phát triển, nở rộng hơn rõ rệt, tăng chiều cao nhanh chóng,
nhiều nhất có thể lên tới 8 – 13cm/năm, bắt đầu có hiện tượng mọc râu, thường là ở
góc môi, sau đó ở cằm, má tùy thuộc vào yếu tố di truyền. Xuất hiện lông mu và
lông nách, lông sẫm màu và mọc cong lên. Riêng phần lông mu có thể mọc lan lên
bụng, xuất hiện mụn trứng cá – dấu hiệu rất đặc trưng và hầu hết đều gặp phải ở
tuổi dậy thì, có mùi cơ thể đặc trưng, thay đổi về giọng nói trở nên trầm hơn hoặc
giọng ồm ồm.
- Những thay đổi về sinh lý:
+ Kích thước bộ phận sinh dục phát triển hơn và bắt đầu chức năng hoạt
động, sinh sản.
+ Nam giới thường xuyên gặp phải “giấc mơ ướt” hay còn được gọi là hiện
tượng mộng tinh.
+ Bắt đầu có tinh dịch xuất hiện. Trong tinh dịch chứa tinh trùng do tinh
hoàn sinh ra và nằm trong túi tinh.
+ Có xuất tinh ngoài ý muốn, thường là xuất tinh ban đêm với hiện tượng
mộng tinh.

- Những thay đổi về tâm lý :
Bên cạnh sự thay đổi về thể trạng và sinh lý và điều hiển nhiên khi nội tiết tố
trong cơ thể thay đổi, trẻ nam còn có những thay đổi về tâm lý rất cần được chú ý.
Các bậc cha mẹ và những người xung quanh cần nhận biết tâm lý chung của trẻ
trong giai đoạn này và biết cách định hướng, giáo dục trẻ trở thành người tốt và
thành công. Cụ thể những thay đổi bao gồm:
+ Khi đến tuổi dậy thì, trẻ sẽ có xu hướng muốn thể hiện cái tôi, muốn chứng
tỏ giới tính của mình, sở thích, ý kiến cá nhân được khẳng định cao độ và có phần
hơi “ngông”.
+ Trẻ muốn được tự do, được tôn trọng quyền riêng tư, quyền quyết định và
dần dần có xu hướng hướng ngoại giao lưu bạn bè nhiều hơn là sống trong sự bao
bọc của gia đình.
7


+ Những thay đổi trong cảm xúc, tình cảm với những người xung quanh,
bước đầu cảm nhận sự yêu ghét, tình cảm nam nữ nhưng chưa phân biệt rõ ràng.
+ Tùy vào từng người sẽ trở nên nhanh nhẹn, thông minh hơn hoặc có người
trầm hơn. Những quan niệm về cuộc sống, phong cách sống, đạo đức, mục tiêu
sống,… cũng bắt đầu hình thành.
2.2. Thực trạng
2.2.1 Tình hình nạo phá thai tuổi vị thành niên ở nước ta.[9]
Trẻ vị thành niên (từ 10-17 tuổi) ở nước ta có khoảng 23,8 triệu người, chiếm
31% dân số. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một
trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca
mỗi năm), trong đó, 20% thuộc lứa tuổi vị thành niên, thậm chí có em mới 12 tuổi.
Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam cho thấy 7,6% trong độ
tuổi này có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên
xuất hiện ở hầu hết tất cả các tỉnh thành trong cả nước chứ không riêng địa phương
nào. Tuy nhiên, xảy ra nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí

Minh, Hải phòng, Quảng Ninh…ở những thành phố lớn điều kiện kinh tế xã hội
phát triển các em có cơ hội tiếp xúc với các phương tiện thông tin xã hội nên cũng
dậy thì sớm hơn so với các em cùng trang lứa ở nông thôn, mặt khác đây cũng là
nơi tập chung nhiều trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp và các khu công nghiệp…
các em sống xa nhà thiếu tình cảm và sự quan tâm của gia đình nên dễ xa vào quan
hệ bạn bè, yêu đương và để lại những hậu quả không mong muốn Chỉ tính riêng 6
tháng đầu năm 2008 cả nước đã có 432 ngàn ca nạo phá thai ở tuổi vị thanh niên
trong đó, bệnh viện Từ Dũ – thành phố Hồ Chí Minh có 19.752 ca nạo phá thai , Hà
Nội 11.634 ca ( Nguồn thống kê của cơ quan y tế, điều tra về sức khoe sinh sản
năm 2008). Đó là chưa kể tới rất nhiều ca nạo phá thai tại những cơ sở y tế tư nhân
nhưng không thể kiểm soát và thống kê được.
Trong thực tế, những gương mặt non trẻ xuất hiện ở các cơ sở nạo phá thai
dường như ngày một nhiều. Cũng bởi quá non nớt, chưa kịp trang bị kiến thức nên
khi cần đến sự can thiệp thì “hậu quả” đã quá lớn, có khi cái thai đã ở tháng thứ 56. Có những em được cha mẹ, gia đình “áp tải” đến các cơ sở y tế lớn với đầy đủ
chuyên gia, thuốc men và trang thiết bị. Song có một số lượng lớn hơn hẳn thì âm
thầm tới các phòng khám tư, lủi thủi “giải quyết” một mình. Có những em phải
dùng đến những biện pháp đặc biệt như đẻ cô-vắc hoặc kích thích sinh non. Không
hiếm trường hợp sản phụ trẻ phá thai chui trong điều kiện vô trùng kém, lại thiếu
phương tiện cấp cứu, đã bị thủng tử cung, rách bàng quang, thậm chí thủng ruột, sót
rau, nhiễm trùng máu và có thể tử vong.

8


Hình ảnh nạo phá thai

2.2.2. Nguyên nhân nạo phá thai tuổi vị thành niên ở nước ta.[6]
Căn nguyên của việc gia tăng số vụ nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên, giới
trẻ hiện nay chính là do lứa tuổi này đang ở vào giai đoạn biến đổi tâm sinh lý, các
cơ quan chức năng sinh học, sinh lý của cơ thể dần biến đổi.

Nhu cầu muốn được tiếp xúc với người khác giới luôn cao, trong khi kinh
nghiệm về vấn đề giải quyết nhu cầu sinh lý, sinh sản còn hạn chế, người lớn thiếu
sự quan tâm sát sao. Thế nên các em rất dễ có suy nghĩ lệch lạc, tự tìm tòi, khám
phá, giải quyết nhu cầu sinh lý của mình, quan hệ tình dục bừa bãi theo đó luôn
tiềm ẩn. Qua tìm hiểu trước khi làm thủ thuật, các bác sĩ tại Khoa kế hoạch hoá gia
đình Bệnh viện Từ Dũ nhận thấy tỷ lệ hiểu biết về giới tính ở những trẻ vị thành
niên không cao. Còn quá nhiều em hiểu biết rất mù mờ về giới tính, không có kiến
thức gì về việc mang thai và các biện pháp phòng tránh thai khi quan hệ tình dục.
Vẫn còn rất nhiều em cho rằng, việc quan hệ tình dục một lần sẽ không để lại hậu
quả gì. Đây là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cử tăng
dần theo từng năm.
Hầu hết các bậc phụ huynh, đặc biệt là phụ huynh khu vực nông thôn vẫn
còn e ngại khi con cái có thắc mắc hoặc khi chia sẻ những vẫn đề về giới tính với
con cái. Thậm chí, nhiều người cho rằng đây là vấn đề “tế nhị” cần phải “giữ ý” với
con cái, có người lại lảng tránh hoặc giáo dục một cách không đầy đủ, không có
phương pháp. Nhiều bậc phụ huynh còn sai lầm khi nghĩ rằng: Nói những chuyện
ấy cho con cái thì khác gì “vẽ đường cho hươu chạy”, chỉ làm cho chúng dễ hư
9


hỏng. Đây chính là nguyên nhân khiến trẻ vị thành niên thiếu kiến thức, hiểu biết
mù mờ, tự tìm tòi và tìm tòi ở những tài liệu không lành mạnh như: trang web đen,
băng đĩa… dẫn đến hiểu biết sai lệch, quan niệm sai lầm trong tình yêu và tình dục,
không biết cách bảo vệ và chăm sóc bản thân. Trong khi đó, độ tuổi mà các em dễ
vướng vào chuyện tình cảm nhất cũng chính ở lứa tuổi học sinh, nhiều em mới là
học sinh cấp II, cấp III nhưng đã có người yêu, bạn trai. Nhưng để đến khi các em
đã “xảy ra chuyện” rồi mới cuống cuồng tìm cách “giáo dục” các em thì đã muộn,
khác nào “mất bò mới lo làm chuồng”, không những dễ gây tổn thương cho các em
mà còn để lại những hậu quả khôn lường. Bắt đầu cuộc sống “người lớn” khi chưa
đủ trưởng thành lại còn đang đi học không chỉ làm ảnh hưởng đến việc học hành

của các em mà còn là nguyên nhân chính dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và nạo
phá thai bừa bãi.
2.2.3. Hậu quả của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên.[2],[7], [8]
Có nhiều người nghĩ rằng với trình độ y học hiện nay thì việc nạo phá thai
không ảnh hưởng gì. Đúng là y học hiện đã có những phương cách thực hiện khá
an toàn. Tuy nhiên như chúng ta đã biết, dù trong điều kiện tốt nhất, việc phá thai
cũng có một nguy cơ tai biến và biến chứng nhất định, mà điều này thì có nhiều yếu
tố chi phối, trong đó có thể kể tới là tuổi thai và tuổi mẹ. Tuổi thai càng lớn thì tỷ lệ
tai biến càng cao. Nếu mới trễ kinh dưới 2 tuần thì chỉ cần thủ thuật hút thai và tỷ lệ
biến chứng thấp; Nhưng nếu trễ kinh lâu hơn, từ 2 tuần đến 2 tháng thì phải thực
hiện thủ thuật nạo thai; Và nếu trễ kinh trên 2 tháng thì phải cho sinh non, với tỷ lệ
tai biến rất cao. Những biến chứng có thể gặp trong nạo phá thai đó là băng huyết,
thủng tử cung và nhiễm trùng kéo dài có thể cắt bỏ tử cung. Ngoài ra, trong tất cả
các cách giải quyết thai, nếu được thực hiện an toàn không có những tai biến cấp
thời, thì vẫn có thể có những hậu quả lâu dài về sau, trong đó có thể kể là những
trường hợp sinh khó do nhau bám thấp, nhau tiền đạo … kể cả khả năng bị vô sinh
nếu bạn lạm dụng việc nạo hút thai.
Một điều cần phải nói thêm, là nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên tiềm ẩn
rất nhiều nguy cơ. Thứ nhất, ở lứa tuổi các em, cơ quan sinh dục chưa phát triển
đầy đủ nên thường có biến chứng nhiều hơn. Thêm vào đó là các em thường lo sợ
người lớn biết nên tìm đến những cơ sở tư nhân, thậm chí là cơ sở bất hợp pháp
không có chức năng và không đủ điều kiện để thực hiện thủ thuật một cách an toàn.
Kết quả là tỷ lệ tai biến cao, thậm chí có nhiều trường hợp tử vong. Có nhiều em,
do quá lo sợ nên sau khi nạo phá thai tại những nơi này và có biến chứng cũng
không dám trình báo, cho đến khi quá nặng vào bệnh viện thì phải cắt bỏ tử cung.
Cũng cần nói thêm ở lứa tuổi vị thành niên nếu các em nữ mang thai và sinh con thì
các nguy cơ như sinh non, biến chứng lúc sinh và con chậm phát triển tâm thần cao
hơn gấp nhiều lần so với phụ nữ trưởng thành. Ở Việt Nam, thống kê trên phạm vi
cả nước cho thấy, nguy cơ chết mẹ của bà mẹ dưới 20 tuổi cao gấp 5 lần so với bà
mẹ sinh con ở tuổi 24 – 25. Trẻ em sinh ra từ các bà mẹ tuổi vị thành niên cũng tử

10


vong trong năm đầu đời nhiều hơn 40% so với trẻ sinh từ các bà mẹ lứa tuổi hai
mươi. Số trẻ em dưới 15 tuổi mắc bệnh lây qua đường tình dục chiếm 1,16% ( đối
với bệnh lậu) và 1,5% đối với các bệnh khoa liễu khác.
Những em được chỉ định sinh con, ngoài các nguy cơ nhiễm độc thai nghén,
sảy thai, đẻ non, ngôi bất thường, còn có nguy cơ bị sản giật, chuyển dạ kéo dài,
sang chấn nặng đường sinh dục, thường phải mổ hoặc cắt nới âm hộ để lấy thai ra.
Có trường hợp do thai lớn, cơ thể người mang thai lại chưa phát triển đầy đủ nên
việc lấy thai ra đã vĩnh viễn cướp đi khả năng làm mẹ của họ sau này. Còn việc giữ
thai lại có thể dẫn tới nguy cơ nhiễm độc thai, cao huyết áp, thiếu máu, sinh non và
nhau tiền đạo. Những bà mẹ vị thành niên thường không hoàn tất việc học, đứa trẻ
ra đời thường nhẹ cân, lại có khuynh hướng ít được học hành và dễ bị bỏ rơi hay bị
lạm dụng. Có đến 13% con trai của các bà mẹ vị thành niên dễ có khuynh hướng
vào tù và 22% con gái của họ có khuynh hướng trở thành những bà mẹ trẻ giống
như mẹ của mình.
Kết quả nghiên cứu giữa Bộ Y tế Việt Nam và Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
cho thấy, thực trạng nạo hút thai tại Việt Nam có khuynh hướng ngày một gia tăng,
tai biến do phá thai dẫn đến tử vong mẹ chiếm 5% trong tổng số bà mẹ tử vong, các
tai biến đó là: xuất huyết (chiếm 40%), nhiễm trùng (20%), số còn lại là thủng tử
cung, nhiễm độc... Bộ Y tế nhận định rằng, tai biến xảy ra do kỹ năng lâm sàng
không cao, thiết bị dụng cụ cũ kỹ, nguyên tắc tiệt trùng dụng cụ không đảm
bảo..việc phải dùng dụng cụ nong bằng kim loại để nong rộng cổ tử cung; dùng que
kim loại để dò hướng khoang tử cung và đo độ dài khoang tử cung; dùng ống hút
bằng kim loại để hút phôi thai và đế cuống rốn; cuối cùng còn phải dùng nuôi nạo
bằng kim loại để nạo sạch khoang tử cung. Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, đều
phải dùng dụng cụ bằng kim loại đưa vào đưa ra, tất nhiên có khả năng làm xước tử
cung, thậm chí tạo thành lỗ rách ở tử cung. Ngoài ra, khi tổ chức đế cuống rốn nằm
ở vách tử cung, bị ống hút phụ áp hút ra khỏi vách tử cung, sẽ để lại trên bề mặt đó

bao nhiêu là mạch máu bị vỡ ra. Nếu như đế cuống rốn không lấy ra được nhanh, sẽ
ảnh hưởng đến sự co bóp của tử cung, do đó có thể làm cho các mạch máu không
liền lại, trong quá trình thủ thuật đó sẽ bị mất nhiều máu. Vả lại, nếu trước đó, đã
có viêm bộ phận sinh dục như viêm âm đạo, viêm cổ tử cung chưa được chữa khỏi,
hoặc trong quá trình thủ thuật không nghiêm chỉnh thực hiện vô trùng đúng với quy
định, thì những dụng cụ đưa vào đưa ra rất có thể đưa vi khuẩn vào khoang tử cung
gây nhiễm trùng.
Ngoài ra, việc nạo hút thai còn có khả năng để lại di chứng, nhất là đối với
các trường hợp đã qua nạo hút nhiều lần, nguy hại sẽ không nhỏ, có thể xuất hiện
các tình huống sau:
Dính khoang tử cung: Nếu nạo hút quá mức, lớp gốc ở màng trong tử cung bị
tổn thương, mặt màng có thể dính vào nhau sẽ làm ảnh hưởng đến sự vận hành của
tinh trùng và làm cho trứng đã thụ thai khó cắm vào, do đó hậu quả thường thấy
11


nhất là không thụ thai được, có khi có thai cũng dễ sẩy thai.Còn sự thay đổi về kinh
nguyệt thì do mức độ tổn thương của niêm mạc tử cung. Nếu tổn thương không
nhiều, chỉ có một bộ phận nào đó ở khoang tử cung bị dính, thường chỉ làm giảm
lượng kinh nguyệt hoặc gây ra xuất huyết không theo một quy tắc nào. Nếu tổn
thương nghiêm trọng, mặt dính ở khoang tử cung rộng, sẽ gây bế kinh lâu dài. Nếu
cổ tử cung bị dính, máu hành kinh không ra ngoài được mà chảy ngược vào bụng
sẽ gây ra bế kinh lâu dài và đau bụng có tính chất chu kỳ.
Hiện tượng không thụ thai: Sau khi nạo phá thai, không thụ thai lại được
nữa, ngoài nguyên nhân dính khoang tử cung đã nói trên, còn có khả năng do ống
dẫn trứng bị viêm. Khi thủ thuật bị viêm nhiễm, chứng viêm có thể từ nội mạc tử
cung lan sang ống dẫn trứng, làm cho khoang ống dẫn trứng bị dính, gây ra tắc;
cũng có khả năng do ống limpha và mạch máu ở vách tử cung khuyếch tán ra tới tổ
chức liên kết cạnh tử cung, làm cho xung quanh ống dẫn trứng viêm, miệng ống
dẫn trứng dính vào nhau và kẹt lại. Dù cho nguyên nhân ống dẫn trứng tắc lại do

miệng ống dẫn trứng bịt lại, đều cản trở tinh trùng và trứng gặp nhau, tất nhiên dẫn
đến không còn thụ thai được.
Sẩy thai hoặc đẻ non: Khi nạo phá thai, nhất là khi nạo, phải dùng đến kìm
để lấy thai ra, nếu miệng cổ tử cung bị dụng cụ nới rộng làm rách, thì sau đó, hễ có
thai là sau 12 tuần sẽ kết thúc bằng sẩy thai. Vì sao lại sẩy thai muộn mà không sẩy
thai sớm? Then chốt của vấn đề là ở chỗ, miệng cổ tử cung sau khi bị rách sẽ lỏng
ra, mất công năng “cơ vòng”, đồng thời không giữ được trạng thái “đóng khóa”
trong điều kiện áp lực cao. Khi có thai, ở thời kỳ đầu do thai chứa trong tử cung
chưa lớn, áp lực trong tử cung thấp thì còn ứng phó được, nhưng thai dần dần phát
triển, nước ối nhiều lên, thai nhi lớn hơn, áp lực trong khoang tử cung ngày càng
tăng, miệng trong cổ tử cung bị lỏng không chống đỡ được, bọc bào thai trồi vào
ống cổ tử cung, làm cho ống cổ tử cung dần dần trương rộng ra và co ngắn lại, đến
mức nào đó, màng bào thai vỡ ra và không tránh được tình trạng sẩy thai. Vì vậy,
thai sẽ không thể phát triển cho đến lúc đủ tháng.
Đế cuống rốn bị dính hoặc cắm sâu vào: Khi tử cung bị nạo quá sâu hoặc bị
nạo hút nhiều lần, nội mạc tử cung bị tổn thương và teo lại. Đến khi có thai tiếp sau
đó, nội mạc tử cung do đã bị tổn thương và teo lại nên thường không
thể lành lặn lại, phải bong ra lớp màng đáy để tiếp nhận phôi bào cấy vào, màng tử
cung bong ra phát dục không tốt, lông tơ ở bên ngoài phôi bào sẽ cấy sâu vào, thậm
chí còn xâm phạm tới lớp cơ bên dưới của màng tử cung. Như vậy, đế cuống rốn
được hình thành sẽ không dễ hoặc căn bản không thể tách khỏi vách tử cung một
cách tự nhiên, kết quả ra sao, có thể suy ra khác biệt. Thai nhi sau khi sinh ra, phần
bị dính hoặc phần cấy sâu vào của đế cuống rốn không tách ra hết, không đưa ra
được gây ảnh hưởng đến sự co bóp của tử cung, còn ở chỗ tách ra được ở vách tử
cung cũng thành một hõm máu chảy ra, tất nhiên sẽ gây xuất huyết nhiều. Nếu chỗ

12


dính liền của đế cuống rốn thì còn có thể bóc ra, còn nếu đế cuống rốn cắm vào thì

chỉ có cách cắt bỏ tử cung mới giải quyết được.
2.3. Giải pháp khắc phục tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên: [4]
Trẻ vị thành niên chiếm tới 30% dân số nước ta, là lứa tuổi có nhiều thay đổi
về tâm sinh lý, có nhiều thắc mắc về sự phát triển của cơ thể cũng như cần những
giải đáp, hỗ trợ từ phía người lớn và các tài liệu chuyên môn. Thế nhưng trên thực
tế ở nước ta công tác giáo dục sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên còn
nhiều hạn chế.
Thứ nhất: Từ việc phân tích những nguyên nhân và hậu quả nêu trên, điều
quan trọng nhất, cho các em nữ và cả các em nam, đó là phải hết sức tránh để
không xảy ra “tình trạng này”. Cụ thể là vị thành niên, thanh niên chưa lập gia đình
phải hạn chế việc quan hệ tình dục, trong đó phải đặc biệt tránh cả những hoàn
cảnh “ nguy cơ” có thể dẫn đến quan hệ “bất ngờ” như nơi thanh vắng chỉ có hai
người, nhất là khi có uống rượu.
Thứ hai: Nếu nam giới có những cảm xúc không kiềm chế được thì người nữ
phải kiên quyết từ chối, không chiều theo lời nài ép của bạn trai và cảm xúc của
mình. Thà mất lòng một chút còn hơn là phải trả giá cho sự nông nổi của mình.
Việc từ chối “chung đụng” không đồng nghĩa với không yêu thương mà còn là yếu
tố quan trọng bảo vệ tình yêu.
Thứ ba: Nếu đã “lỡ”, khi đó người nữ cần uống thuốc viên ngừa thai sau giao
hợp càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ, uống 2 viên, viên sau cách viên đầu 12
giờ. Nên nhớ đây là thuốc chỉ dùng trong trường hợp “khẩn cấp” và không được
lạm dụng như một loại thuốc ngừa thai vì có thể gây rong kinh, rong huyết. Còn
nếu “việc lỡ ấy” đã qua 72 giờ thì người nữ phải hết sức chú tâm theo dõi kinh
nguyệt để phát hiện sớm những dấu hiệu có thai như mất kinh, căng tức đầu vú
v.v... và sớm có biện pháp giải quyết phù hợp
Nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên không còn là vấn đề nhức nhối, để
không còn trẻ vị thành niên và gia đình các em phải mang những nỗi đau thì giáo
dục sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên một cách kịp thời và hiệu quả
không chỉ là việc làm cần thiết, là trách nhiệm của cha mẹ, nhà trường mà còn là
“phương thuốc phòng” tốt nhất.

Cần có chiến lược giáo dục cụ thể :
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực kế hoạch hóa gia đình, sự dậy thì sớm do
điều kiện sống cải thiện cùng với quan niệm dễ dãi về tình dục là những nguyên
nhân hàng đầu dẫn tới tỷ lệ nạo phá thai ở trẻ vị thanh niên tăng cao. Trong khi đó,
vấn đề giáo dục giới tính chưa được các bậc cha mẹ cũng như các nhà giáo dục, các
nhà quản lý xã hội quan tâm đúng mức. Không ít cha mẹ cho rằng giáo dục giới
tính, tình dục là “vẽ đường cho hươu chạy”, còn các nhà giáo dục thì cho rằng đó là
vấn đề tế nhị, riêng tư, không nghiêm túc, rất khó trình bày trên bục giảng... Vì

13


những lẽ đó, cho đến nay, chúng ta vẫn gặp nhiều khó khăn hay nói đúng hơn là
còn “giữ ý” đối với vấn đề mặc nhiên được coi là “tế nhị” này.
Theo quan điểm của các bác sĩ sản khoa cũng như tâm lý thì các biện pháp
tránh thai cần được áp dụng cả với những em gái vị thành niên. Vì tình trạng quan
hệ tình dục trước hôn nhân của giới trẻ ngày nay ngày càng phổ biến và nằm ngoài
tầm kiểm soát. Ở nước ngoài, trong quan niệm giáo dục về tình dục, khái niệm “an
toàn” đối với họ ngoài vấn đề bệnh tật còn bao gồm cả việc không có thai ngoài ý
muốn. Còn chúng ta hiện nay, “an toàn” là khi con mình không “quan hệ” gì hết,
đây liệu có còn là một quan niệm đúng đắn và hợp thời nữa chăng. Hay chỉ mang
tính cứng nhắc và sẽ lại tiếp tục góp phần “duy trì” hậu quả là tình trạng nạo phá
thai vị thành niên vẫn là vấn đề “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”...Có lẽ đến lúc này,
không còn ai nghi ngờ việc phải đưa kiến thức giáo dục giới tính vào học đường.
Người lớn chúng ta hãy quan tâm tới các em nhiều hơn nữa, hãy tạo cho em một
môi trường văn hóa tình dục lành mạnh, một nhận thức đúng đắn về tình dục với
hai chức năng: thỏa mãn nhu cầu hạnh phúc của con người và duy trì nòi giống.
Cần triển khai nhiều chương trình tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe sinh sản tập
trung vào các trường THCS, THPT. Đồng thời thành lập các câu lạc bộ Vị thành
niên và thanh niên tại các trường này để hoạt động tuyên truyền, học tập về chăm

sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên diễn ra thường xuyên, hiệu quả. Phát triển
các mô hình như: “Góc thân thiện” chăm sóc- giáo dục sức khỏe sinh sản toàn diện
cho thanh thiếu niên nông thôn; tập huấn kiến thức cho phụ huynh trẻ vị thành niên.
Ngoài các biện pháp trên cần phải đề phòng nguy cơ phá thai giấu giếm.
Người hành nghề không có giấy phép về luật thì gọi là Phá thai phạm pháp, về y
học thì gọi là phá thai không an toàn vì các cơ sở này không đủ điều kiện vô khuẩn,
không đủ phương tiện chuyên môn, người làm thường không được đào tạo, hoặc dù
đã có đào tạo mà làm ở một cơ sở không được phép thì cũng nguy hiểm vì thiếu
điều kiện vô khuẩn và hồi sức. ở các cơ sở này, họ có thể dùng các biện pháp phản
khoa học như đặt một que bằng thảo mộc để nong cổ tử cung, hoặc dùng những
dụng cụ tự tạo gây nhiễm khuẩn và chấn thương nghiêm trọng. Do thiếu kỹ thuật và
phương tiện, phá thai giấu giếm rất dễ bị sót hoặc bị tai biến. Vì nhiều người cũng
muốn giấu giếm nên khi phát hiện được để xử lý thì đã muộn, nhiều khi dẫn đến
hậu quả thương tâm.
Trong các cố gắng nhiều mặt để chống nạo phá thai không an toàn cần chú ý:
Giáo dục trẻ về các nguy hiểm của nạo phá thai không an toàn, tầm quan trọng của
các biện pháp phòng tránh thai ngoài ý muốn, việc dễ dàng tìm đến các cơ sở làm
sảy thai chủ động được Nhà nước cho phép.
Cung cấp các dịch vụ tư vấn và kế hoạch hoá gia đình dễ tiếp cận và dễ chấp
nhận để tránh thai ngoài ý muốn.
Mở rộng các cơ sở dịch vụ điều trị cấp cứu mọi tai biến do nạo.
Cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao để đình chỉ thai nghén với các chỉ định đã
14


được luật pháp cho phép, thủ tục thu nhận đơn giản, dễ dàng.
Với nam nữ thanh niên mới lớn, chúng ta cần giáo dục cho các em biết và hiểu rõ
về sức khỏe sinh sản vị thành niên.
2.4. Hiệu quả của đề tài :
Trước khi áp dụng đề tài này vào dạy bài 12 GDCD lớp10 [1] tôi thấy đa số

học sinh còn rất thiếu kiến thức, hiểu rất lơ mơ về các vấn đề liên quan đến giới
tính, sức khỏe sinh sản. Vì vậy khi được hỏi về các vấn đề liên quan đến sức khỏe
sinh sản thì hầu hết các em còn ngượng ngùng, e ngại, xấu hổ, thậm chí có em đỏ
mặt, lảng tránh không nói được quan điểm của mình trước vấn đề nhạy cảm này.
Nhưng đến nay, sau một năm áp dụng đề tài này tôi thấy có nhiều sự thay đổi
trong tư duy, nhận thức của các em như : Từ chỗ ngại ngùng, xấu hổ bây giờ các
em đã sôi nổi hơn với những kiến thức về giới, về sức khỏe sinh sản mà giáo viên
cung cấp, có nhiều bạn còn thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình về tình dục an
toàn, có nên hay không nên quan hệ tình dục trước hôn nhân và hậu quả để lại của
việc có thai ngoài ý muốn. Thật đáng mừng là hầu hết các em đã ý thức được hậu
quả của việc yêu đương quá sớm, quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đây là một vấn
đề hết sức có ý nghĩa định hướng cho các em trong các mối quan hệ .
Trước và sau khi thực hiện đề tài này tôi tiến hành khảo sát ở các lớp dạy: 10B4,
10B6, 10B7 ( tổng số 126 học sinh) với 10 câu hỏi sau:[8]
Câu 1: Vị thành niên gồm các giai đoạn nào sau đây:
a.
Từ khi sinh ra đến tuổi dây thì.
b.
3 giai đoạn: từ 10 – 13 tuổi; từ 14 – 16 tuổi; từ 17 – 19 tuổi
c.
Cả 2 ý trên đều đúng.
Câu 2: Giai đoạn từ 16 tuổi đến 19 tuổi cấu tạo sinh lí có đặc điểm:
a.
Cơ thể trưởng thành, con gái hầu hết có kinh; con trai “chín về sinh dục”.
b.
Lớn nhanh.
c.
Hình thành các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp; có kinh( ở nữ), sinh tinh (ở
nam).
Câu 3: Nếu quan hệ tình dục có giao hợp ở tuổi vị thành niên sẽ:

a.
Không gây hậu quả vì cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ.
b.
Có thai vì ở nữ trứng đã chín và rụng; ở nam đã hình thành tinh trùng.
c.
Cả 2 ý trên đều đúng.
Câu 4: Tình yêu là gì?
a.
Là tình bạn thân thiết giữa một người nam và một người nữ.
b.
Là tình thương mến sâu sắc, sự hòa hợp giữa hai người khác giới.
c.
Là tình cảm giữa hai người không phân biệt giới tính.
Câu 5: Hậu quả của việc quan hệ tình dục sởm ở tuổi vị thành niên:
a.
Ảnh hưởng đến việc học hành.
b.
Có thể có thai ngoài ý muốn.
c.
Cả hai đều đúng.
15


Câu 6: Thế nào là tình dục an toàn?
a.
Thỏa mãn nhu cầu sinh lý.
b. Đảm bảo không nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình dục, không gây tổn
thương cơ quan sinh dục.
c. Cả hai đều đúng.
Câu 7: Chu kỳ kinh nguyệt của một người phụ nữ:

a.
Thay đổi từ 21 đến 35 ngày.
b.
Chính xác 28 ngày
c.
Có một chu kỳ.
Câu 8: Khi lỡ có thai cần làm gì sau đây?
a.
Bí mật đến các phòng khám tư nhân phá thai.
b.
Nói chuyện thẳng thắn với bố mẹ hoặc cô giáo chủ nhiệm.
c. Tự ý uống thuốc sảy thai.
Câu 9: Vị thành niên có thể áp dụng biện pháp tránh thai nào sau đây?
a.
Bao cao su .
b.
Thuốc tránh thai.
c.
Cả hai đều đúng.
Câu 10: Tác hại của việc mang thai ở tuổi vị thành niên:
a.
Ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm sinh li
b.
Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội, tương lai của bản thân.
c.
Cả 2 ý trên đều đúng.
Kết quả thu được như sau:
+ Trước khi thực hiện đề tài:( Học sinh)
Câu
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
Đúng 40
52
48
66
70
45
42
37
72
68
Sai
86
74
78
60
56
81
84
89
54
58

+ Sau khi thực hiện đề tài:( Học sinh)
Câu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Đúng 78
85
76
88
90
92
80
97
101
95
Sai
48
41
50
38
36
34
46

29
25
31
Từ bảng thống kê trên cho thấy trước khi được trang bị kiến thức về sức
khỏe sinh sản vị thành niên đa phần các em còn khá rụt rè , mơ hồ , thiếu hiểu biết
về những kiến thức sinh sản như: Chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ là bao nhiêu
ngày, có những biện pháp tránh thai nào, tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành
niên là gì, thế nào là tình dục an toàn.....
Sau khi được cung cấp những kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản, tình bạn,
tình yêu nhận thức của các em về giới và an toàn tình dục tương đối tốt, các em đã
mạnh dạn chia sẻ những thắc mắc liên quan đến giới tính, sức khỏe sinh sản với giáo
viên, từ đó các em có khả năng tự bảo vệ bản thân, kĩ năng sống được nâng lên

16


PHẦN 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Từ những hậu quả nêu ra trong bài viết có thể thấy nạo phá thai gây ra những
ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ cho sức khỏe sinh sản và còn ảnh hưởng tới tâm
sinh lý người mẹ. Hơn nữa những nguy cơ tiềm ẩn của nạo phá thai ở lứa tuổi vị
thành niên lại rất nhiều và khó có thể lường trước được vì cơ thể các em chưa phát
triển hoàn thiện, chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thực hiện thiên chức làm
mẹ.
Học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất
trong cuộc đời của mỗi con người nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp.
Do vậy, để học sinh THPT có kiến thức và hiểu biết về sức khỏe sinh sản thì vấn đề
giáo dục sức khỏe sinh sản cho các em là rất cần thiết. Giáo dục trong trường THPT
sẽ trang bị cho các em có thái độ, hành vi đúng đắn trong giải quyết các mối quan
hệ với bạn bè khác giới, đặc biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên

quan đến tình yêu, tình dục an toàn để góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, tốt
đẹp. Để làm tốt công tác giáo dục sức khỏe sinh sản đòi hỏi người giáo viên – đặc
biệt là giáo viên dạy GDCD cần phải trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cơ
bản về giới tính, sức khỏe sinh sản, phải biết cách thu hút được sự quan tâm, chú ý
của học sinh đối với vấn đề này và cần tạo ra không khí học tập sôi nổi, cởi mở để
giúp học sinh vượt qua thái độ ngại ngùng, xấu hổ khi nói về các vấn đề tế nhị liên
quan đến giới tính, sức khỏe sinh sản.
3.2. Kiến nghị:
Trên cơ sở đó tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả và chất
lượng công tác giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản cho học sinh THPT là:
Một là, cần xậy dựng lại nội dung giáo dục giới tính,giáo dục sức khoẻ sinh
sản ở trường THPT một cách bài bản có tính khoa học, logíc chặt chẽ và đầy đủ
hơn.
Hai là, cần tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng về chủ đề “giáo dục giới
tính”, “giáo dục sức khoẻ sinh sản” , trong đó có sự tham gia của các giáo viên,
nhất là giáo viên dạy môn Giáo dục công dân để họ có thể tiếp cận một cách khoa
học, có tính hệ thống để vận dụng vào quá trình giảng dạy.
Ba là, cần tổ chức các diễn đàn, các hoạt động ngoại khóa giao lưu giữa học
sinh, giáo viên trường THPT với các chuyên gia về lĩnh vực giáo dục giới tính, sức
khoẻ sinh sản , để giúp học sinh và giáo viên hiểu được vị trí, vai trò và sự cần
thiết giáo dục giới tính ở trường THPT.
Bốn là, nhà trường, đặc biệt là các giáo viên chủ nhiệm cần phải phối hợp
chặt chẽ và có hiệu quả với gia đình trong việc giáo dục học sinh, trong đó có vấn
đề giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản.
17


Năm là, thành lập Câu lạc bộ “sức khoẻ sinh sản” ở các trường THPT để
giúp học sinh giao lưu, chia sẻ những thắc mắc về vấn đề giới tính, sức khoẻ sinh
sản .

Sáu là, các bậc phụ huynh quan tâm nhiều hơn trong việc chăm sóc theo dõi
và hướng dẫn con cái về chủ đề sức khỏe sinh sản.
Bảy là, các thầy cô giáo bộ môn Giáo dục công dân cần phải trang bị cho các
em những hiểu biết sâu sắc về giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại
tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm. Giáo dục bạn
trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh, biết tự kiềm chế để chứng
minh cho một tình yêu trong sáng, lành mạnh nếu nó chớm nở.
Trên đây bằng kinh nghiệm còn hạn chế của mình tôi đã mạnh dạn trình bày
một số nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên vào dạy học tiết 1 bài 12
GDCD lớp 10. Đề tài này vẫn còn rất nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi rất mong được
sự góp ý nhiệt tình của các đồng chí trong nhóm, tổ chuyên môn và các bạn đồng
nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Phạm Thị Thủy

18


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Sách giáo khoa Giáo dục công dân 10.
2. Sách giáo khoa Sinh học lớp 11.
3. Dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng môn GDCD 10.
4. Tài liệu những điều giáo viên cần biết để giáo dục kỹ năng sống và sức khỏe sinh

sản vị thành niên- tổng cục dân số năm 2009.
5. Tuổi vị thành niên, tình yêu và giới tính: sách dành cho bạn gái/ Phan Kế Cường
6. Một số nguyên nhân của hiện tượng nạo phá thai ở trẻ vị thành niên/ Xuân Sơn.
7. Những vấn đề thách thức trong sức khỏe sinh sản hiện nay/ Vương Tiến Hòa.
8. Nguồn internet.
9. Báo sức khẻo sinh sản, báo phụ nữ, Báo sinh viên…..
10. Tài liệu của tổ chức Y tế thế giới (WHO)

19


20



×