Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN CAO HỌC XÃ hội học thực trạng tiếp cận kiến thức sức khỏe sinh sản của nam thanh niên ở hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.46 KB, 18 trang )

Phần I. Mở đầu

1.1

Ly do lựa chọn đề tài.
Trên thế giới thúc đẩy bình đẳng giới và tăng quyền năng cho phụ nữ
là một trong 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nguyên tắc bình đẳng giới
đã được đưa vào điều 63 hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992
Tác động của truyền thông đại chúng rất quan trọng đối với thanh
niên nó có tác động tới nhận thức thái độ và thay đổi hành vi CSSKSS của
nam thanh niên hiện nay.
Việc quan hệ tình dục là việc tham gia của cả hai giới nam và nữ, thì
không có ly do gì chỉ nữ giới cần quan tâm đến SKSS – CSSKSS còn nam
giới thì không. Cũng vì tư tưởng này mà rất nhiều tư tưởng xấu đã xảy ra:
quan hệ vợ chồng không hòa hợp, mâu thuẩn gia đình xảy ra, gia đình
không hạnh phúc, mắc các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục, có thai
ngoài y muốn.. Vì vậy nam giới đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
CSSKSS cũng như bản thân nam giới cần có trách nhiệm hơn đối với những
hành vi quan hệ tình dục của mình. Không chỉ là nghĩa vụ nhiệm vụ của nữ
giới mà là trách nhiệm chung của cả hai giới.
Ngày nay thanh niên Việt Nam xuất hiện hiện tượng quan hệ tình dục
trước hôn nhân vì vậy các kiến thức về tình dục cũng như SKSS cho vị thành
niên ngày càng đóng vai trò quan trọng. Việc có thai ngoài y muốn, nạo phá
thai khi quan hệ tình dục trước hôn nhân để lại những hậu quả vô cùng
nặng nề cho tương lai
Theo luật thanh niên của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
số 53/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 quy định trong chương 1,
tại điều 1 về thanh niên : Thanh niên là công dân Việt Nam từ 16 tuổi đến
30 tuổi.


1


Độ tuổi thanh niên cũng gây nhiều tranh cãi, vì mỗi một bộ luật của
từng cơ quan nhà nước, luật sư có những quan điểm khác nhau về độ tuổi
của thanh niên. Cho nên lựa chọn đề tài về CSSKSS cho thanh niên phù hợp
với độ tuổi sinh sản là từ 18 – 35 tuồi. Là độ tuổi có sự cần thiết và nhận
thức đúng đắn về các kiến thức về tình dục cũng như có trải nghiệm về các
vấn đề tình dục nhiều hơn . Những mảng kiến thức này sẽ giúp cho nam
thanh niên lứa tuổi từ 18 – 35 có cái nhìn tổng quat hơn và chuẩn bị hành
trang cho cuộc sống hôn nhân gia đình, hoặc những người đã,đang có gia
đình tránh tình trạng cuộc sống không được hạnh phúc, thỏa mãn.
Nhận thấy vấn đề trang bị kiến thức SKSS cho nam thanh niên hiện
nay là cần thiết, và thanh niên là một độ tuổi tiếp cận và có hành vi tình dục
nhiều nhất ngoài hôn nhân. Thanh niên là lực lượng trẻ có tầm ảnh hưởng
lớn tới xã hội Cùng với đó là một lứa tuổi có các hoạt động xã hội về tuyên
truyền làm, học tập, nên việc nhận thức đầy đủ về SKSS có thể tự bảo vệ bản
thân, người thân và toàn xã hội khỏi những hậu quả xảy ra khi không có
kiến thức về SKSS. Với khuôn khổ môn Xã Hội Học Lứa Tuổi và những kiến
thức về truyền thông đại chúng,môn xã hội học giới đã được học và những
kiến thức,sự quan thực tế em xin chọn đề tài “ Thực trạng tiếp cận kiến
thức sức khỏe sinh sản của nam thanh niên ở Hà Nội hiện nay” làm đề
tài tiểu luận
1.2. Câu hỏi nghiên cứu.
- Thực trạng tiếp cận kiến thức làm mẹ an toàn của nam thanh niên
ở Hà Nội hiện nay như thế nào
- Thực trạng tiếp cận kiến thức về phòng tránh thai của nam thanh
niên Hà Nội hiện nay như thế nào
- Thực trạng tiếp cận kiến thức về nạo hút thai của nam thanh niên ở
Hà Nội hiện nay như thế nào


2


- Thực trạng tiếp cận các kiến thức về tình dục của nam thanh niên ở
Hà Nội hiện nay như thế nào
- Thực trạng tiếp cận kiến thức về vô sinh của nam thanh niên ở Hà
Nội hiện nay như thế nào
1.3 Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
Đọc và tìm hiểu về các tài liệu liên quan đến các vấn đề về CSSKSS.
Các bài báo/tạp chí, các công trình khoa học nghiên cứu, các sách giáo
khoa, giáo trình , khóa luận tốt nghiệp liên quan tới tình dục đối với thanh
niên sinh viên, HIV/AIDS, tình dục an toàn. Và các giao trình có kiến thức
liên qua tới bình đẳng giới trong tình dục, bạo lực tình dục giữa nam và nữ.
Để trang bị, làm rõ các khía cạnh liên quan tới SKSS đối với nam thanh
niên.
Từ những tài liệu than khảo, thao tác hóa khái niệm,chọn lọc dữ liệu,
số liệu đã tìm được, phân tích, bình luận khách quan dựa vào kiến thức
môn xã hội học lứa tuổi và các kiến thức nghiên cứu xã hội học khác. Đưa
ra nhận định về vấn đề, đưa ra kiến và kết luận luận điểm
- Phương pháp quan sát.
Phần 2. Nội dung.
1 . Thực trạng tiếp cận kiến thức làm mẹ an toàn.
Thực trạng tiếp cận kiến thức làm mẹ an toàn đối với nam thanh
niên hiện nay ngày càng được quan tâm sâu sắc hơn bởi nam thanh niên
giữ vai trò quan trọng đối với cuộc sống gia đình và chăm sóc bà mẹ khi
sinh con. Nhưng bên cạnh đó những kiến thức về làm mẹ an toàn hầu hết
chỉ được trang bị cho nữ giới đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong
quá trình bà mẹ mang thai và sinh con.


3


Nam thanh niên đóng một vai trò quan trọng trong vai trò đặc biệt
giúp đỡ,chia sẻ với bà mẹ về các kiến thức làm mẹ an toàn . nhằm chăm sóc
tốt cho bà mẹ thời kỳ mang thai và sinh con
Qua cuộc khảo sát cho thấy có tới 80% số nam thanh niên được hỏi
cho rằng chưa từng tiếp cận với kiến thức làm mẹ an toàn,còn 20% còn lại
có tiếp cận nhưng tiếp cận ở mức không sâu và chưa kỹ.
Trong số nam thanh niên tiếp cận với vấn đề chăm sóc bà mẹ trước
khi sinh chỉ có 18%, kiến thức khám phá thai định kỳ có 12% cà chăm sóc
bà mẹ au khi sinh là 15%. Hầu hết nam thanh niên đều có kiến cho rằng :”
kiến thức làm mẹ an toàn thuộc về nữ giới chứ nam giới không cần phải
tìm hiểu” [tr26.Khóa luận thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS
của nam thanh niên ở đô thị hiện nay. Đỗ Thị Kim Anh.2009]
Với kết quả nghiên cứu trên cho thấy hầu hết nam thanh niên Hà Nội
hiện nay vẫn chưa có y thức trang bị cho mình các kiến thức về làm mẹ an
toàn và có trách nhiệm với các kiến thức liên quan đến phụ nữ.
Một số ít còn lại là 20% số nam thanh niên đã có y thức tìm hiểu về
vấn đề LMAT nhưng chưa sâu. Thái độ tìm hiểu các kiến thức về vấn đề này
của nam thanh niên vẫn chưa nghiêm túc và coi đó không phải là việc quan
trọng đối với bản thân mà đó là việc quan trọng đối với phụ nữ.
Trong khi đó vấn đề sinh con và giáo dục con cái, chịu trách nhiệm
với con trong gia đình là trách nhiệm của hai người. Để giữ vững hạnh
phúc gia đình hay việc đam bảo được cuộc sống lành mạnh cho cả gia đình
là trách nhiệm của cả nam và nữ. vậy việc trang bị kiến thức LMAT cần thiết
cho cả nam và nữ.
Ở đây thấy được sự bất bình đẳng và phân biệt về giới trong việc
trang bị kiến thức làm mẹ an toàn “Anh đọc cái đó làm gì, anh là con trai

anh đọc cái đó có mà bị hâm à, chỉ xem sức khỏe đàn ông thì xem thôi, còn
mấy cái sức khỏe phụ nữ, sức khỏe sinh sản anh bỏ qua không đọc, với cả

4


anh không có thời gian để mà xem mấy cái đó.[ tr26.Khóa luận thực trạng
và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS của nam thanh niên ở đô thị hiện nay.
Đỗ Thị Kim Anh.2009] có những nam thanh niên đã mặc định trong suy
nghĩ và hành vi của mình về việc tìm kiếm, tìm hiểu về các kiến thức làm
mẹ an toàn là chỉ dành cho nữ giới, và chỉ có nữ giới mới cần thiết để tiếp
cận vấn đề này.
Tóm lại, các kiến thức về làm mẹ an toàn đối với nam thanh niên ở
Hà Nội hiện nay quan tâm đến là rất ít. Họ luôn cho rằng các kiến thức này
là dành cho người vợ, người mẹ, người phụ nữ trong gia đình chứ không
phải dành cho nam giới. do vậy bản thân của nam thanh niên chưa tự y
thức được vai trò ,trách nhiệm của bản thân trong việc trang bị kiến thức
cho mình. Nam thanh niên là một lứa tuổi sắp và đang trong quá trình sinh
con. Vậy việc trang bị kiến thức về làm mẹ an toàn là vô cùng cần thiết đối
với lứa tuổi này.
Giúp trang bị kiến thức cuộc sống gia đình trong tương lai cho
những thanh niên chưa kết hôn và giữ vững hạnh phúc gia đình cho những
nam thanh niên đã kết hôn và có vợ đang trong thời kỳ sinh đẻ.
2. Thực trạng tiếp cận kiến thức về phòng tránh thai.
Hiện nay trên các phương tiện truyền thông đại chúng thì vấn đề
phòng tránh thai được đăng tải và đưa tin rất phổ biến. rất dễ để tìm hiểu
được về vấn đề này trên internet và các mạng xã hộị. thanh niên là nhóm độ
tuổi tiếp cận với thông tin đại chung qua internet là nhiều nhất và đây cũng
là một thuận lợi được đặt ra đối với việc trang bị kiến thức cho thanh niên
về phòng tránh thai.

Thực trạng tiếp cận về phòng tránh thai có 85,3% nam thanh niên ở
Hà Nội đã từng tiếp cận và 14,7% nam thanh niên chưa từng tiếp cận
Nhóm thanh niên là nhóm tuổi đang có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất ở
nước ta - là nhóm đang có con số đáng báo động về thực trạng nạo phá

5


thai. Do vậy việc có kiến thức về phòng tránh thai là vô cùng quan trọng.
nếu không trang bị đủ các kiến thức về vấn đề này thì sẽ gây hậu quả khó
lường đối với người bạn tình đã quan hệ tình dục cùng. Việc có thai ngoài
muốn gây tổn thương về mặt tình cảm và tinh thần cũng như tương laic
cho cả hai, nhất là đối với nữ giới.
“phải tìm hiểu để biết mà phòng tránh chứ, lần đầu tiên anh quan hệ
với bạn gái, không nghĩ gì tới các biện pháp tránh thai nên sau khi làm
chuyện đó xong rất lo sợ và chờ cho tới khi bạn gái có kinh trở lại mới thở
vào nhẹ nhõm. Sau lần đó anh đã tìm hiểu về mấy vấn đề này trên internet
nhưng cũng thỉnh thoảng thôi , anh bận mà , bây giờ thì ok rồi.” .[tr29.Khóa
luận thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS của nam thanh niên ở
đô thị hiện nay. Đỗ Thị Kim Anh.2009]
“bây giờ thì mình phải biết những vấn đề này chứ, con gái bây giờ
không thích những người kém kinh nghiệm đâu, hồi đó anh bị người yêu bỏ
cũng chỉ vì anh rất ngây ngô mấy chuyện đó,và nói anh trẻ con. Có lần bạn
gai anh đau bụng anh tưởng bị tào tháo đuổi và nói đi giải quyết đi. Cô ấy
bảo anh chẳng biết gì cả, bây giờ cô ấy lấy chồng rồi. anh hay tìm hiểu mấy
vấn đề nay qua internet, thình thoảng cũng hay đọc báo gia đình và phụ
nữ” [tr30 Khóa luận thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS của
nam thanh niên ở đô thị hiện nay. Đỗ Thị Kim Anh.2009]
Nam thanh niên đã có y thức tự bảo vệ mình và tự bảo vệ bạn tình
khỏi việc có thai ngoài y muốn và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.

ngoài ra thanh niên cũng tự y thức tìm hiểu và có thái độ tích cực hơn đối
với các biện pháp phòng tránh thai. Nhưng trong đó có số ít vẫn chưa có y
thức tìm hiểu về vấn đề này
Chủ yếu thanh niên tìm hiểu về phòng tránh thai qua internet , ngoài
ra có báo/tạp chí, truyền hình.. Các biện pháp tránh thai được thanh niên

6


chú y nhiều nhất, quan tâm nhiều nhất là dùng bao ca su chiếm 94,5%
ngoài ra nam thanh niên tìm hiểu về hiệu quả của thuốc tránh thai chiếm
64% ngoài ra còn các biện pháp về xuất tinh ngoài, tính chu kỳ kinh nguyệt,
triệt sản nam...
Các họa động tìm hiểu về phòng tránh thai được nam thanh niên chú
y đến và quan tâm, là do họ đã nhận thức được vai trò quan trọng của các
kiến thức này đối với đời sống tình dục của bản thân, và bảo vệ bạn tình
khỏi những hậu quả của việc quan hệ tình dục. nhưng vẫn có những cá
nhân thanh niên chưa trang bị được những kiến thức cơ bản cho
Tóm lại, thanh niên và nhất là nam thanh niên là một lứa tuổi có
hành vi quan hệ tình dục nhiều, là một lứa tuổi mang tính chất nhiệt tình và
có quan hệ xã hội rộng rãi việc quan hệ tình dục là khó tránh khỏi. Do vậy
nam thanh niên hiện nay phần lớn đã tự y thức chủ động tìm kiến thông
tin, tìm hiểu các vấn đề về phòng tránh thai, vì thực tế kiến thức này đối với
nam thanh niên là rất thiết thực, nên hầu hết nam thanh niên được hỏi để
biết tới,đa số đã có y thức chủ động tìm kiếm thông tin về phòng tránh thai.
3. Thực trạng tiếp cận kiến thức về nạo hút thai.
Ngày nay nam thanh niên đã có y thức tự trang bị cho mình về kiến
thức phòng tránh thai và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, nhưng
nhắc đến vấn đề nạo phá thai nam thanh niêm lại toe ra ngỡ ngàng và
không quan tâm nhiều đến vấn đề này. Nhưng vấn đề về nạo phá thai không

chỉ dành riêng cho nữ giới mà nam giới cũng cần có những kiến thức này
nhằm chia sẻ, phòng tránh những rủi do do nạo phá thai gây ra.
Thực trạng tiếp cận kiến thức nạo phá thai của thanh niên Hà Nội
hiện nay chiếm tỉ lệ thấp có 33% trong số nam thanh niên được phỏng vấn
đã tiếp cận với kiến thức nạo phá thai. Còn lại 67% là số nam thanh niên
không tiếp cận với mảng kiến thức này.

7


Nhưng có một điều đáng lưu y ở đây là số nam thanh niên được tiếp
cận với các kiến thức này phần lớn là do vô tình đọc được,nghe được qua
các kênh truyền thông đại chúng hoặc chỉ khi xảy ra hậu quả cần đi phá
thai thanh niên mới chủ động tìm đến các thông tin về nạo phá thai. Thông
tin mà nam thanh niên tiếp cận đó chủ yếu là internet chiếm 86%. Sách báo
và tạp chí là 70% và các kênh thông tin còn lại thì ít được sử dụng như chia
sẻ với bạn bè,người thân, gia đình thì chiếm tỉ lệ rất ít. [tr31 Khóa luận
thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS của nam thanh niên ở đô thị
hiện nay. Đỗ Thị Kim Anh.2009]
Một điều trái ngược là các kiến thức về nạo hút thai trên các phương
tiện truyền thông đại chúng rất nhiều và rất đa dạng nhưng nam thanh
niên lại không tiếp cận với các vấn đề này vấn đề ở đây là y thức của nam
thanh niên không muốn tìm hiểu. Mặc dù việc tiếp cận là rất dễ dàng. Việc
cần thay đổi ở đây là thay đổi tư duy, suy nghĩ và cần làm cho nam thanh
niên hiểu vai trò, trách nhiễm của nam cũng như nữ trong việc tìm hiểu về
nạo hút thai và từ đây mới thay đổi được hành vi tiếp cận thông tin cho
nam thanh niên.
Thanh niên hiện nay đang xảy ra một tình trạng quan hệ tình dục
trước hôn nhân và không có các biện pháp phòng tránh gây nên có thai
ngoài muốn. Do chưa trang bị các kiến thức về SKSS cho bản thân dẫn đến

gây có thai cho bạn gái. Nhiều hệ lụy xảy ra nguy hiểm hơn nữa là việc nạo
phá thai không an toàn sẽ dễ dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng đến tương lai sau
này của người phụ nữ là đầu tiên và nam thanh niên cũng chịu nhiều hậu
quả nặng nề.
Việc có thai ngoài y muốn gây ra tổn thương về tinh thần và tổn
thương về thể chất cho nữ nhiều hơn là đối với nam. Có nhiều nam thanh
niên luôn cho rằng việc trang bị kiến thức về nạo phá thai “ Mình chỉ cần
biết làm sao để không mắc các bệnh lây nhiễm là được rồi. Còn các thứ còn

8


lại thì con gái nên là người biết và chủ động, vì con gái thường phải chịu
hậu quả đó là mang thai mà, nếu gặp người con trai đểu thì nó bỏ mặc
cũng phải chịu mà” nam thanh niên có một số người vẫn luôn mặc định về
vai trò của người phụ nữ là phải tự bảo vệ mình khỏi bị có thai mà không
tự y thức được rằng bản thân nam giới cũng phải có trách nhiệm đối với
vấn đề này, vì vậy có nhưng trường hợp nữ giới quan hệ với bạn trai và dẫn
đến có thai ngoài muốn đã tự tử vì stress tinh thần và tình cảm. có những
trường hợp đã tự tử.
Như vậy lứa tuổi thanh niên ngày nay đang phát triển đang là một
lứa tuổi giao lưu và tiếp nhận những luồng tư tưởng mới về văn hóa nên
việc quan hệ tình dục xảy ra là phổ biến. Cần tiếp cận và tìm hiểu về nạo hút
thai nhằm chăm sóc sức khỏe cho người vợ, bạn gái, bạn tình của mình.
Giảm tình trạng nam thanh niên không chủ động tự tìm kiếm thông tin.
Tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
4. Thực trạng tiếp cận các kiến thức về tình dục
Thanh niên hiện nay nói chung hay là đối tượng sinh viên nói riêng
đều trang bị cho bản thân những kiến thức về tình dục. Nhưng ở mỗi người
có một mức độ và tầm hiểu biết khác nhau. Sinh viên trường ĐH Khoa Học

Xã Hội Và Nhân Văn. Số sinh viên biết các kiến thức đầy đủ về kiến thức
QHTD AT chỉ có 15%,còn lại 85% số sinh viên còn lại chưa nhận thức đầy đủ
về vấn đề QHTD AT. Do vậy đã cho thấy không phải một cá nhân hay nhóm
thanh niên đều có nhận thức đầy đủ về vấn đề tình dục, mà vẫn còn xảy ra
tình trạng thiếu hiểu biết và hiểu biết chưa sâu về vấn đề này.

Biểu 1: Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD
AT giữa nam sinh viên và nữ sinh viên trường KHXH &NV (đơn vị %).

9


Qua biểu đồ trên cho thấy nam thanh niên luôn là người chưa trang
bị đầy đủ kiến thức bằng nữ giới. mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về
QHTDAT của nam thanh niên cao hơn nữ giới. Nữ có nhận thức đầy đủ với
tỉ lệ 17,9%, cao hơn so với 12,5% số nam có nhận thức đầy đủ kiến thức về
QHTD AT. Bên cạnh đó, có đến 87,5% số nam SV có nhận thức không đầy đủ
về kiến thức QHTD AT. [tr21. Tiểu luận Nhận thức và nhu cầu của sinh viên
về vấn đề giáo dục giới tính]
Qua số liệu này cho thấy nam thanh niên vẫn chưa có y thức tiếp cận
về an toàn tình dục bằng nữ giới. Nam thanh niên là người luôn chủ động
trong việc quan hệ tình dục nhưng không trang bị đầy đủ kiến thức cho bản
thân. Vì tư tưởng nữ sẽ cần đến những kiến thức về tình dục hơn nam, nữ
giới cân bảo vệ bản thân hơn nam giới, với những tư tưởng sai lệch sẽ dẫn
đến nhiều hậu quả nghiêm trọng cho cả hai giới.
Còn trong số nam thanh niên thì sẽ có những cá nhân đã từng tiếp
cận tới kiến thức về tình dục
Nhìn vào biểu đồ ta thấy nam thanh niên quan tâm và tìm tới kiến
thức tình dục chiếm phần lớn là 92%. Số còn lại chưa từng tiếp cận chiếm
8%. Và có nhiều ly do khiến nam thanh niên chưa từng tiếp cận là do chưa

cần thiết đối với bản thân hoặc còn cảm thấy e ngại.ngại ngừng khi nhắc
đến vấn đề này khi mọi người biết đến.
Việc tiếp cận của nam thanh niên về kiến thức tình dục bao gồm
nhiều nội dung và nội dung khác nhau. Tìm hiểu về kiểu quan hệ tình dục
chiếm (75%), thông tin về quan hệ tình dục trước hôn nhân (82%), phim
sex và những hình ảnh mát mẻ (70%) còn lại rất ít tìm kiếm các nội dung về
các loại bệnh liên quan đến tình dục (23%). Nam thanh niên tìm kiếm và
tiếp cận các thông tin chủ yếu với các nội dung nhằm đáp ứng nhu cầu về
mặt sinh ly, sở thích hoặc dành cho vấn đề quan hệ tình dục. số nội dung

10


còn lại về các vấn đề liên quan đến sức khỏe được ít thanh niên quan tâm
hơn. Nam thanh niên chưa quan tâm thực sự đến các vấn đề sức khỏe của
bản thân.
Tóm lại việc tiếp cận kiến thức về tình dục là quan trọng đối với nam
thanh niên. Hiện nay giới trẻ có việc quan hệ tình dục là khá phổ biến và coi
đó là một việc bình thường . Vấn đề quan hệ tình dục cũng như các hành
động liên quan đến tình dục nhằm thỏa mãn các ham muốn của tâm sinh ly
con người và còn được nhìn dưới góc độ giáo dục,văn hóa, thẩm mỹ. Đôi khi
không thể tránh khỏi nhưng việc giáo dục và trang bị kiến thức cho bản
thân là cần thiết và nên làm nhất là đối với nam giới. Nhưng vẫn thấy xuất
hiện thực trạng nam thanh niên chưa từng tiếp cận, tiếp cận chưa đầy đủ
hoặc tiếp cận chưa đầy đủ bằng nữ giới đều là những dấu hiệu của sự tiêu
cực không tốt về vấn đề này.
Ở độ tuổi là thanh niên thì việc trang bị kiến thức về tình dục là điều
vô cùng cần thiết và không thể thiếu, thanh niên là đối tượng có hành vi
quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều nhất, số đông thanh niên đã có kiến
thức và đã từng tiếp cận với kiến thức về tình dục là một dấu hiệu tốt, bên

cạnh đó còn có lại số thanh niên chưa từng tiếp cận câng trang bị cho bản
thân những kiến thức về tình dục nhằm đảm bảo cuộc sống tình dục lành
mạnh và phòng tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
Ngoài ra cũng có thể nói việc tiếp cận về vấn đề tình dục cũng do
nhiều yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài tác động đến hành vi tìm hiểu của
nam thanh niên. Như các phương tiện truyền thông đại chúng , internet
chiếm (97,1%), sách báo/tạp chí (71%) là hai kênh thông tin nam thanh
niên tiếp cận và sử dụng nhiều nhất
Bảng 1:Các kênh thông tin mà nam thanh niên đã tiếp cận về
kiến thức tình dục. [tr35. Khóa luận thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến
thức SKSS của nam thanh niên ở đô thị hiện nay. Đỗ Thị Kim Anh.2009]

11


Các kênh thông tin
Internet
Báo/tạp chí
Truyền hình
Đài phát thanh
Bạn bè
Người yêu
Gia đình
Nhà trường
Các trung tâm tư vấn

Phần trăm
97,1
71
40,6

30,4
48,6
23,9
14,5
13
15,2

Truyền thông đại chúng về tình dục là việc rất cần thiết và cấp bách
hiện nay, khi thực trạng nam thanh niên có hành vi quan hệ tình dục trước
hôn nhân khá nhiều nhưng việc trang bị kiến thức về tình dục lại bị hạn chế
và còn nhiều ngăn cản mà xã hội đang đặt ra. Giói trẻ thanh niên là đối
tượng luôn được tiếp cận, tư duy và thay đổi cái mới tiếp nhận những nền
văn hóa mới, nhưng cũng chính thanh niên là người phải trả giá cho những
hậu quả do sự hồ hởi thay đổi và tiếp nhận đó. Đã có thanh niên có tư
tưởng tiến bộ và thoáng hơn về vấn đề quan hệ tình dục, nhưng việc quan
hệ tình dục thế nào cho an toàn lại là một dấu chấm hỏi đằng sau việc quan
hệ tình dục đối với thanh niên.
Mỗi một người đều tự tìm hiểu cho mình những kênh thông tin thuận
tiện nhất, hiệu quả nhất và chính xác nhất về tình dục, thanh niên vẫn lựa
chọn cho bản thân là tiếp cận trên internet và sách báo nhưng trên
internet có nhiều trang thông tin cung cấp những nguồn thông tin sai và
không chính xác. Còn lại các vấn đề nhạy cảm thanh niêm muốn riêng tư
không chia sẻ với bạn bè hoặc không chia sẻ với người khác về cơ thể
mình,các vấn đề thắc mắc về tình dục.
Như vậy các kênh thông tin truyền thông đại chúng đôi khi cũng ảnh
hưởng đến chất lượng các kiến thức tình dục của nam thanh niên. Và

12



truyền thông đại chúng giúp thanh niên định hướng được các vấn đề về
tình dục bằng cách tự bản thân tìm hiểu, riêng tư và tự bảo vệ mình.
5. Thực trạng tiếp cận kiến thức về vô sinh.
Theo kết quả điều tra dân số ở Việt Nam ước tính tỉ lệ hiếm muộn vô
sinh là từ 7 – 10% tổng các cặp vợ chồng có độ tuổi sinh đẻ. [tr44.Kiến thức
thái độ ,hành vi chăm sóc SKSS, khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ
chăm sóc SKSS của nam giới tại Hà Nội. Đoàn Phương Thúy.2009] Nam
thanh niên là độ tuổi từ 18 – 30 đa số nằm trong độ tuổi sinh đẻ. Thực
trạng hiếm muộn – vô sinh ở Việt Nam phản ánh những kiến thức, cách tiếp
cận của nam thanh niên dẫn đến tình trạng vô sinh
Nguyên nhân gây ra vô sinh có rất nhiều ly do có thể do nam hoặc do
nữ. Có thể do nam sử dụng chất kích thích quá nhiều, chất lượng tinh trùng
của nam giới. Hoặc có thể là do nữ đã quá tuổi sinh con, tắc, teo buồng
trứng, có bệnh về đường sinh dục.. tất cả những nguyên nhân trên đều dẫn
đến tình trạng vô sinh. Theo khảo sát có (48%) số nam thanh niên chưa
từng tiếp cận với vấn đề vô sinh, còn lại (52%) đã từng tiếp cận.
“Kiến thức về tình dục và phòng tránh thai là kiến thức thực tiễn đáp
ứng nhu cầu, ham muốn thực tại, khi có những ham muốn để đảm bảo an
toàn cho bản thân và cho cả bạn tình của mình thì nhất thiets sẽ tìm hiểu về
các biện pháp phòng tránh, còn kiến thức về vô sinh thì chỉ quan taam tới
khi đã có vợ chồng. Khi có gia đình rồi mới cần quan tâm tới nó.” [tr38.
Thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS của nam thanh niên ở đô thị
hiện nay.Đỗ Thị Kim Anh.2009]
Đây là tư tưởng chủ quan của không ít những thanh niên chưa có gia
đình trong độ tuổi từ 18 – 25 luôn không tự trang bị những kiến thức chăm
soc sứ khỏe cho bản thân và dẫn đến tình trạng vô sinh khi lập gia đình.
Một yếu tố khác là thanh niên trong độ tuổi này thường là sinh viên có

13



những hoạt động như sống thử, dùng thuốc tránh thai nhiều lần, nạo hút
thai.. ngoài ra nam thanh niên hay sử dụng những chất kích thích với
những cuộc vui bạn bè trong quán xá, bia rượu.. đã có những trường hợp
không có khả năng sinh con, mất khả năng làm cha làm mẹ vì vô tình trong
những cuộc an chơi đã mắc những căn bệnh không thể cứu chữa,làm tan
vỡ hạnh phúc gia đình khi một trong hai người không có con.
Nam thanh niên tại Hà Nội vẫn chưa tiếp cận nhiều với các kiến thức
về vô sinh những nam thanh niên đã kết hôn có tỉ lệ tìm kiếm thông tin, tiếp
cận về kiến thức vô sinh cao hơn so với nam thanh niên chưa kết hôn. Có
thể đối với nam thanh niên chưa kết hôn có suy nghĩ việ tiếp cận các kiến
thức về vô sinh chưa cần thiết và chưa đến lúc phải tiếp cận, khi nào có gia
đình sẽ tìm hiểu.
Thực trạng tiếp cận kiến thức về vô sinh của nam thanh niên cũng
chia theo từng độ tuổi khác nhau và có sự chênh lệch nhất định. Thanh niên
trên 30 tuổi có tỉ lệ tiếp cận là cao nhất trong số người đã tiếp cận chiếm
(80%) , 25 – 30 tuổi thì thấp hơn (61,3%) còn lại từ 18- 25 chím tỉ lệ thấp
nhất với (48,2%). Ở đây có sự khác biệt về độ tuổi trong nhóm thanh niên
là do thanh niên từ độ tuổi 18 – 25 chiếm tỷ lệ cao là đang đi học – đang là
sinh viên, đang tìm kiếm việc làm, chưa ổn định cuộc sống hoặc chưa kết
hôn, chưa có nhu cầu sinh con việc tiếp cận với các kiến thức vô sinh còn ít
và chưa được coi là quan trọng. Ngược lại độ tuổi trên 30 tuổi là những
trường hợp chủ yếu đã lập gia đình và kết hôn, có trường hợp gia đình
chưa có con, hoặc đã trải qua thời kỳ sinh con nên việc tìm hiểu, tiếp cận về
vô sinh với đối tượng này là cần thiết và đáp ứng nhu cầu thắc mắc về sinh
sản đối với nam thanh niên ở độ tuổi này.
Như vậy một kết quả chung cho rằng nam thanh niên tiếp cận với các
kiến thức về vô sinh chưa cao, đặc biết với nhóm thanh niên trẻ có độ tuổi
từ 18 – 25 tuổi. có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vô sinh


14


của cả nam và nữ, nhưng đã có những nguyên nhân do lỗi chủ quan của
từng người dẫn đến vô sinh. Thanh niên là một nhóm tuổi mang trong
mình nhiều nhiệt huyết cho tương lai, luôn hoạt đông xã hội tích cực,
nhưng không phải ai cũng biết lựa chọn cho bản thân cách sống an toàn và
lành mạnh, thanh niên cũng dễ bị lôi kéo, xa đà vào những tệ nạn xã hội, sử
dụng những chất kích thích gây hại cho cơ thể dẫn đến tình trạng vô sinh.
Cần tuyên truyền, tác động đến thanh niên trang bị cho bản thân các kiến
thưc về vô sinh, hiểu được tác hại của các chất kích thích, nắm được vai trò
và tầm quan trọng của các kiến thức vô sinh đối với cuộc sống hiện tại và
tương lai sau này khi lập gia đình, hoặc những người đã có gì đình.
3. Kết luận.
Theo kết quả đã tham khảo và sử dụng thì cho thấy thanh niên ở Hà
Nội hiện nay đã tìm hiểu các kiến thức về SKSS. Nam giới ngày càng quan
tâm nhiều hơn về vấn đề tình dục cũng như an toàn tình dục. Nhưng ở mỗi
một vấn đề khác nhau về SKSS nam thanh niên lại có thái độ khác nhau và
cách tìm hiểu khác nhau. Nam giới vẫn tập chung quan tâm nhiều đến các
vấn đề về an toàn tình dục và phong tránh thai nhiều hơn các vấn đề về làm
mẹ an toàn, nạo hút thai, và các kiến thức về vô sinh vẫn chưa có tỷ lệ cao
đối với những vấn đề này. Do những nguyên nhân khác nhau dẫn đến nam
thanh niên có sự khác nhau,chênh lệch nhau về các vấn đề này.
Vẫn còn những tư tưởng bất bình đẳng giới tồn tại với nam thanh
niên ở Hà Nội. Phòn tránh thai, hay các kiến thức về làm mẹ an toàn có
không ít nam thanh niên không những không quan tâm mà hiển nhiên mặc
định những vấn đề này là nữ giới cần tìm hiểu,cần phải biết nam không cần
thiết, không cần tìm hiểu. Nhưng đa số nam thanh niên đã có y thức tự
trang bị kiến thức về SKSS cho bản thân trong cuộc sống gia đình nhằm giữ
vững hạnh phúc gì đình.. Từ đây thấy được vấn đề về tình dục muốn được

nam thanh niên tiếp nhận hoàn toàn một cách tích cực hơn trước mắt cần

15


thay đổi tư tưởng về giới, và bất bình đẳng giới. Việc sinh con là việc của cả
hai giới nên nam thanh niên cần có kiến thức về SKSS là rất cần thiết.
Các phương tiện truyền thông đại chúng, các kênh truyền thông cũng
đóng vai trò quan trọng đối với việc tiếp cận thông tin về chăm sóc SKSS
của nam thanh niên. Internet là kênh thông tin được nam thanh niên Hà
Nội lựa chọn nhiều nhất nó mang tình thuận lợi, nhanh chóng và tốn ít chi
phí cho việc tìm kiếm, ngoài ra cũng có những kênh thông tin khác như
báo/tạp chí. Như vậy cho thấy nam thanh niên thường tiếp cận các kiến
thức khi thực sự cần thiết hoặc trong thời gian rảnh dỗi lên mạng. Các dữ
liệu thông tin trên mạng đôi khi không mang tính khác quan và gặp phải
các lỗi trong báo chí như đưa thông tin sai, nhầm thông tin, hoặc mang
những định kiến giới trong các bài báo. Như vậy vô tình đưa thông tin sai
và gây hại. không phải trang thông tin nào thanh niên tiếp cận cũng chính
xác và đáng tin cậy.
Các nhóm tuổi khác nhau có thực trạng tiếp cận về các mảng kiến
thức về chăm sóc SKSS khác nhau. Nam thanh niên từ độ tuổi 30 trở lên
tiếp cận nhiều hơn với kiến thức vô sinh trong khi đó nam thanh niên từ 18
– 25 lưa tuổi sinh viên tiếp cận rất ít và tiếp cận các kiến thức về tình dục
lại cao hơn. Việc tiếp cận kiến thức SKSS giữa các nhóm tuổi có sự khác
nhau, những vấn đề nam thanh niên trong các nhóm tuổi quan tâm nhiều
hơn cũng khác nhau.
Như vậy thanh niên nói chung và nam thanh niên nói riêng là một
lứa tuổi quan trọng đối với sự phát triển của toàn xã hội, đang và đã tiếp
cận với các kiến thức về SKSS, nhưng mức độ và phương pháp tiếp cận khác
nhau. Nam thanh niên ngày nay cần trang bị về tri thức, kinh tế, văn hóa và

các kiến thức về tình dục, SKSS đẻ hướng đến một cuộc sống lành mạnh, an
toàn hơn cho chính bản thân, người thân và toàn xã hội.

16


Tài liệu tham khảo
-

Khóa luận tốt nghiệp thực trạng và nhu cầu tiếp cận kiến thức SKSS của

-

nam thanh niên ở đô thị hiện nay. Đỗ Thị Kim Anh.2009
Đề tài khoa học Nhận thức và nhu cầu của sinh viên về vấn đề giáo dục giới

-

tính – nhóm sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn ]
Kiến thức thái độ ,hành vi chăm sóc SKSS, khả năng tiếp cận và chất lượng

-

dịch vụ chăm sóc SKSS của nam giới tại Hà Nội. Đoàn Phương Thúy.2009
Báo nhân dân số ra 10/7/2013

17




×