Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy hóa học hữu cơ 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.74 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Tiêu đề

Trang

A. Mở đầu

1

B. Nội dung

2

I. Cơ sở lý luận

2

II. Thực trạng

2

III. Giải pháp

2

1. Sử dụng trong giảng dạy bài mới

2

1.1. Tích hợp


2

1.2. Lồng ghép

4

2. Sử dụng trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá

8

3. Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa

11

IV . Hiêu quả do sáng kiên đem lại

12

C . Kết luận

13

I. Kết luận

13

II. Kiến nghị

13



Tài liệu tham khảo

15

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Hóa Học trong trường trung học phổ thông giữ 1 vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học
là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những
tri thức hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành,
… của Hóa học. Học Hóa học để hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn
thông qua cở sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa của các chất bằng
phương trình phản ứng hóa học … Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy
tính sáng tạo tạo ra những ứng dụng phục vụ đời sống con người. Hóa học góp
phần giải tỏa, xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần
của con người.
Để đạt được mục đích của Hóa học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy hóa
học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về
Hóa học, người giáo viên dạy hóa học còn phải có phương pháp truyền đạt thu
hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức Hóa Học của học sinh. Đó là vấn đề cần
quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Do vậy, tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh
nghiệm “ sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy hóa học hữu cơ 11 ” với
mục đích góp phần sao cho học sinh học Hóa Học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi
với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học và kích thích năng lực vận dụng kiến
thức của học sinh. Để Hóa Học không còn mang tính đặc thù, khó hiểu như một
“thuật ngữ khoa học”

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm “ sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng
dạy hóa học hữu cơ 11 ”với mục đích góp phần sao cho học sinh học Hóa học
dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống . Từ đó nhằm khơi dậy cho học sinh
niềm yêu thích, đam mê với môn Hóa học.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Đề taì này nghiên cứu về khả năng tiếp thu của học sinh khi giảng dạy
bằng việc sử dụng một số bài toán thực tiễn trong hóa học hữu cơ.
III.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở pháp lí, thực nghiệm sư phạm, thống kê sử lí số
liệu.

2


B. NỘI DUNG
I. CỞ SỞ LÍ LUẬN:
Trong những năm gần đây Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã có những cải cách
lớn trong toàn nghành giáo dục nói chung và đặc biệt là trong việc dạy và học ở
trường phổ thông nói riêng; nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện về
đức, trí, thể, mĩ. Nội dung giáo dục, đặc biệt là nội dung, cơ cấu sách giáo khoa
được thay đổi một cách hợp lý vừa đảm bảo được chuẩn kiến thức phổ thông, cơ
bản, có hệ thống vừa tạo điều kiện để phát triển năng lực của mỗi học sinh, nâng
cao năng lực tư duy, kỹ năng thực hành, tăng tính thực tiễn. Xây dựng thái độ
học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham
học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
II. THỰC TRẠNG:
Ở cấp THCS, học sinh chủ yếu dành thời gian cho các môn Toán, Văn và

Tiếng Anh để thi lên cấp THPT nên môn Hóa Học thường bị coi nhẹ hơn, và ít
được học sinh đầu tư thời gian. Do đó khi lên cấp THPT, nhiều em học sinh có
tâm lý sợ học môn Hóa do rỗng kiến thức, kĩ năng vận dụng kiến thức vào việc
bảo vệ môi trường, giải thích các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên còn rất hạn
chế. Vì vậy, nếu giáo viên không có những bài giảng và phương pháp phù hợp
dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu. Giáo viên nên là người hướng
dẫn học sinh chủ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức và cần có liên hệ vận
dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng thực tiễn trong bài giảng nhằm khơi
dậy cho học sinh niềm yêu thích, đam mê với môn Hóa Học.
III. GIẢI PHÁP :
Với đặc điểm đa dạng và phong phú của bài tập thực tiễn, việc truyền đạt
cho học sinh những kiến thức thực tiễn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau, thông qua nhiều hình thức khác nhau, có thể đưa vào khi giảng bài mới
thông qua các câu hỏi, cách đặt vấn đề, hay một bài tập nhỏ, và cũng có thể giáo
viên thông tin cho học sinh; cũng có thể đưa vào trong các giờ luyện tập thông
qua các bài tập hay đưa vào đề kiểm tra với một dung lượng nhất định. Đặc biệt
là tổ chức các hoạt động ngoại khóa như các cuộc thi,các câu lạc bộ Hóa Học,....
1. Sử dụng trong giảng dạy bài mới
Trong các giờ giảng bài mới giáo viên có thể linh hoạt nhiều phương pháp
khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhất là hai
phương pháp tích hợp và lồng ghép.
1.1.Tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hóa học với kiến
thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành một thể thống nhất.
Ví dụ 1: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết?
Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC 2, khi tác dụng với nước
sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit.
CaC2 + 2H2O  C2H2 + Ca(OH)2
Axetilen có thể tác dụng với H2O tạo ra anđehit axetic.
C2H2 + H2O CH3CHO
3



Các chất này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể
làm cá chết.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa thông tin này vào phần điều chế ankin bài “Ankin”
Ví dụ 2: Vì sao cồn có khả năng sát khuẩn?
Cồn là dung dịch rượu etylic (C2H5OH) có khả năng
thẩm thấu cao, có thể xuyên qua màng tế bào đi sâu vào bên
trong gây đông tụ protein làm cho tế bào chết. Thực tế là cồn
750 có khả năng sát trùng là cao nhất. Nếu cồn lớn hơn 75 0
thì nồng độ cồn quá cao làm cho protein trên bề mặt vi
khuẩn đông cứng nhanh hình thành lớp vỏ cứng ngăn không
cho cồn thắm vào bên trong nên vi khuẩn không chết. Nếu
nồng độ nhỏ hơn 750 thì hiệu quả sát trùng kém.
Cồn y tế
Áp dụng: Trong y tế việc dùng cồn để sát khuẩn trước khi
tiêm và rửa vết thương trở nên thông dụng. Nhưng để giải thích được vì sao cồn
có khả năng sát khuẩn thì không phải ai cũng giải thích được. Trong bài giảng,
nếu học sinh được giáo viên giải thích thì sẽ rất hứng thú vì hóa học có những
ứng dụng rất thực tế và sẽ thêm yêu hóa học. Giáo viên có thể đề cập ở phần ứng
dụng trong bài “Ancol”.
Ví dụ 3: Xăng cải tiến như thế nào?
Những nhà nghiên cứu ở Viện Hoá hữu cơ thuộc Viện Hàn lâm khoa học
của Nga bảo đảm rằng thêm 10% rượu isopropylic vào xăng sẽ làm cho tính chất
của xăng tốt hơn Hỗn hợp 98% xăng AU- 93 và 10% rượu isopropylic tốt hơn
xăng nguyên chất: ít muội hơn trong buồng đốt, giảm tính độc của khí thải, tỉ lệ
nguyên liệu cháy không hết ít hơn, mà động cơ không bị giảm công suất.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa thông tin này vào phần ứng dụng của
ancol trong bài “Ancol” .
Ví dụ 4 : Formol có đặc tính làm thức ăn dai hơn, giòn hơn, bảo quản được lâu

hơn do formol dễ dàng kết hợp với các Protein (thường là thành phần các loại
thực phẩm) tạo thành những hợp chất bền, không thối rửa, không ôi thiu, nhưng
rất khó tiêu hóa. Chính tính chất này đã bị lợi dụng để kéo dài thời gian bảo
quản của các thực phẩm như bánh phở, hủ tiếu, bún, bánh ướt... Trong y học
Foocmon có tính sát trùng cao nên được áp dụng để diệt vi khuẩn và là dung
môi để bảo vệ các tổ chức, các vật phẩm, các mẫu thí nghiệm, các cơ quan trong
cơ thể con người. Vì vậy muốn giữ lại nguyên vẹn những xác chết không bị thối
rửa theo thời gian người ta đã ướp xác bằng formol. Cơ thể con người nếu tiếp
xúc với formol dù hàm lượng cao hay hàm lượng thấp mà kéo dài cũng gây ra
nhiều tác hại nghiêm trọng..
Tác hại của formol
- Gây những triệu chứng cấp tính:
+ Kích thích gây cai niêm mạc mắt, đỏ mắt

4


+ Kích thích đường hô hấp trên gây chảy mũi, viêm thanh quản, viêm đường hô
hấp, hen phế quản, viêm phổi. Gây ngạt thở nếu hấp thu ở nồng độ 1/20000
trong không khí.
+ Là tác nhân gây viêm da tiếp xúc, viêm da dị ứng, nổi mề đay.
+ Tác hại trên đường tiêu hóa: làm chậm tiêu, rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày,
viêm đại tràng...
+ Khi tiếp xúc, hoặc ăn phải với một hàm lượng cao có thể gây tử vong.
- Là tác nhân gây ung thư nhiều cơ quan trong cơ thể:
+ Gia tăng tỷ lệ ung thư xoang mũi, ung thư đường hô hấp đặc biệt là mũi, họng,
phổi, ung thư đường tiêu hóa...
+ Là một trong những yếu tố gây ra sai lệch, và biến dị các nhiễm sắc thể, phụ
nữ có thai sử dụng có thể bị ảnh hưởng lên sự phát triển của bào thai.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vào phần ứng dụng của anđehit trong bài

“Anđehit - Xeton”
Ví dụ 5: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit fomic HCOOH. Vôi là chất bazơ nên
trung hòa axit làm ta bớt đau
2HCOOH + Ca(OH)2 → (HCOO)2Ca + 2H2O
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa thông tin này vào phần tính chất hóa học
của axit cacboxylic.
1.2.Lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trúc để có
thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội dung liên quan
đến thực tiễn.
Ví dụ 6: Vì sao về mùa hè, trên mặt hồ ao thường nổi lên nhiều bóng khí? Có
phải là do cá đớp không khí không?
Bọt khí thoát ra có thành phần chính là metan do các vi khuẩn có mặt
trong nước đã phân huỷ các hợp chất mùn có ở đáy hồ ao. Khí metan là chất khí
không màu, không mùi và hầu như không tan trong nước, do đó thoát ra ngoài
tạo nên các bóng khí trên mặt hồ ao.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa thông tin này vào bài “Ankan”
Ví dụ 7: Đèn xì oxi - axetilen dùng để làm gì?
Khí axetilen sinh ra khi cho đất đèn tác dụng với nước được dùng làm
nhiên liệu trong đèn xì oxi - axetilen để hàn cắt kim loại do nhiệt độ ngọn lửa có
thể lên tới 30000C.
Để sản xuất được một chiếc xe đẹp người ta phải dùng tới 3 kg đất đèn.
Việc hàn, cắt kim loại bằng đèn xì oxi - axetilen được sử dụng khi đóng
mới hoặc sửa chữa các con tàu sông, biển hay xây dựng, sửa chữa các cây cầu,
các công trình xây dựng.
Khi cần cắt, phá các con tàu đã bị hư hỏng để tận dụng sắt, thép cũ phục
vụ cho ngành luyện cán thép người ta cũng dùng đèn xì oxi - axetilen.
Ví dụ 8: Giải thích hiện tượng: “Khi các cầu thủ đá bóng bị đau nằm lăn lộn
trên đất thì nhân viên y tế chỉ cần dùng bình thuốc phun vào chỗ bị thương,
sau đó cầu thủ bị thương đứng lên tiếp tục thi đấu”

5


Khi cầu thủ bị thương, chỗ bị thương sẽ rất đau đớn. Người cán bộ y tế
dùng phương pháp làm lạnh cục bộ bằng cách phun chất làm lạnh tức thời trên
chỗ bị thương. Chất làm lạnh ở đây là etyl clorua C2H5Cl hay gọi là cloetan.
C2H5Cl là hợp chất hữu cơ có t 0s là 12,30C. Ở nhiệt độ thường khi tăng áp
suất sẽ biến thành chất lỏng. Khi phun C 2H5Cl lên chỗ bị thương, các giọt etyl
clorua tiếp xúc với da, nhiệt độ cơ thể sẽ làm etyl clorua sôi lên và bốc hơi rất
nhanh. Quá trình này thu nhiệt mạnh làm cho da bị lạnh đông cục bộ và tê cứng.
Vì vậy thần kinh cảm giác không truyền được đau lên đại não. Nhờ đó cầu thủ
không có cảm giác đau. Do sự đông cục bộ nên vết thương không bị chảy máu.
Chú ý là cloetan chỉ tạm thời không làm cho cầu thủ cảm giác đau mà
không có tác dụng chữa trị vết thương.
Áp dụng: Đây là cảnh tượng thường thấy trong các trận đá banh. Mọi
người cứ nghĩ đó là một loại “ thuốc tiên” nhưng xét về phương diện hóa học đó
chỉ là một chất có đặc tính “ thu nhiệt mạnh” ở điều kiện thường. Giáo viên có
thể kể cho học sinh nghe về phần ứng dụng của dẫn xuất halogen trong bài “Dẫn
xuất halogen” .
Ví dụ 9: Vì sao ngày nay không dùng xăng pha chì ?
Xăng pha chì có nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Tetraetyl chì
(C2H5)4Pb, có tác dụng làm tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu dẫn đến tiết
kiệm khoảng 30% lượng xăng sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì
oxit sinh ra sẽ bám vào các ống xả, thành xilanh, nên thực tế còn trộn vào xăng
chất 1,2 - đibrometan CH2Br – CH2Br để chì oxit chuyển thành muối PbBr2 dể
bay hơi thoát ra khỏi xilanh, ống xả và thải vào không khí gây ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người.
Từ những điều gây hại trên mà hiện nay ở nước ta không còn dùng xăng
pha chì nửa.
Áp dụng: Hiện nay nhà nước ta nghiêm cấm các doanh nghiệp kinh doanh

xăng dầu sử dụng xăng pha chì. Để hiểu được vì sao thì không ít người hiểu
được vấn đề này. Thông qua nội dung “Dầu mỏ”(Hóa học 11) hoặc bài “Dẫn
xuất halogen” giáo viên có thể đặt câu hỏi này cho học sinh thảo luận rồi giải
thích cho học sinh biết được tác hại của việc pha chì vào xăng nhằm nâng cao ý
thức bảo vệ môi trường.
Ancol
Ví dụ 10: Khi giảng bài ancol, giáo viên có thể liên hệ để hỏi học sinh “Rượu
là đồ uống không thể thiếu trong mỗi dịp liên hoan, cưới hỏi, lễ Tết. Ðặc biệt
trong những ngày Tết, lượng rượu bia được tiêu thụ nhiều hơn dẫn đến số
người nhập viện do ngộ độc rượu cũng tăng cao hơn so với bình thường.
Nguyên nhân nào gây ra hiện tượng ngộ độc rượu?”.
Sau đó giáo viên có thể giải thích thêm: “Ngộc độc rượu có hai trường hợp ngộ
độc etanol và ngộ độc metanol:
- Ngộ độc etanol: Trong rượu bình thường hay còn gọi là rượu bia thực phẩm là
rượu bia có chứa ethanol. Tuy được dùng để pha chế đồ uống giải khát nhưng
bản thân ethanol cũng là chất có thể gây độc hại cho con người. Ethanol ức chế
6


làm suy yếu hệ thần kinh trung ương, gây giảm hoạt tính các nơron thần kinh. Vì
thế nếu uống nhiều rượu sẽ dẫn đến say, nghiện và gây ra nhiều tác hại cho sức
khỏe. Ngộ độc ethanol có thể cấp tính hoặc mạn tính, phụ thuộc vào số lượng
rượu người đó thường xuyên uống.
- Ngộ độc metanol: Tuy nhiên nguy hiểm hơn và thường dẫn đến chết người là
khi uống rượu có chứa methanol, một chất cồn công nghiệp. Nhiều cơ sở sản
xuất, để hạ giá thành đã pha cồn công nghiệp vào rượu để bán cho người tiêu
dùng. Những người sử dụng thường bị nghiện rượu, ham rượu rẻ nên thường
mua phải rượu có lẫn tạp chất là methanol, uống nhiều có thể gây chết người.
Methanol sau khi được uống vào sẽ chuyển hoá thành formaldehyde nhờ men
alchoholdehydrogenase và sau đó thành formic acid nhờ men acetaldehyde

dehydrogenase. Chính những chất này gây độc cho gan, thận gây suy thận cấp,
viêm gan nhiễm độc, đặc biệt là gây toan hóa máu nặng nề. Triệu chứng đầu tiên
có thể bao gồm: chán nản, lú lẫn, ngủ li bì. Triệu chứng nhiễm độc có thể xuất
hiện chậm sau 18 - 24 giờ, bao gồm đau đầu, các triệu chứng về thị lực (nhìn
mờ, nhìn có màu trắng), buồn nôn, nôn, thở nhanh, suy hô hấp. Nhiễm độc
methanol nặng gây hôn mê, co giật, tụt huyết áp và tử vong nhanh chóng.
- Phân biệt ngộ độc ethanol và ngộ độc methanol: Khi bị ngộ độc ethanol và
methanol, từ 12 - 24 giờ sau khi uống, nạn nhân cảm thấy chóng mặt, lú lẫn, yếu
cơ, nhức đầu, buồn nôn, nôn và đau bụng. Tuy nhiên, nếu là cồn ethanol thì sẽ
gây ngộ độc rượu (say) rồi lại tỉnh nhưng nếu là cồn methanol thì nạn nhân uống
say dễ gây tử vong nhanh chóng.
- Xử trí ngộ độc rượu thế nào? Tuyệt đối không uống rượu khi đói. Khi say
rượu, tìm cách gây nôn hết, sau đó xát mạnh hai bên má. Cho nạn nhân uống
một cốc sữa nóng, trà đặc. Cởi khuy áo cổ, tháo thắt lưng và đặt nằm nơi thoáng
mát (tránh gió lùa). Tư thế nằm úp xuống giường, hai tay xuôi ra sau, mặt
nghiêng về bên trái. Nếu có biểu hiện co giật, thở không đều, ngã chảy máu tai,
mắt, loạn nhịp tim phải đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay.
Để phòng ngộ độc rượu, khi uống thì nên chọn loại rượu có thương hiệu, đảm
bảo an toàn thực phẩm và chỉ uống ít (khoảng 30ml). Ngoài ra, cũng cần lưu ý
trong khi uống rượu vẫn phải ăn cơm và thức ăn khác nhằm tránh tình trạng cảm
lạnh do đói, rét. Quan niệm uống rượu cho ấm người chỉ đúng khi người uống
uống một lượng rượu vừa đủ cho nhu cầu và đang ở nơi ấm, kín gió và mặc đủ
ấm. Vì thân nhiệt tăng do rượu nhanh nhưng rất chóng tàn. Do vậy, nếu không
ăn uống đầy đủ, người uống rượu sẽ cạn năng lượng, bị đói rét, dễ bị cảm lạnh
và nguy hiểm đến tính mạng”
Ví dụ 11: Vì sao dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện các lái xe đã uống
rượu?
Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là rượu etylic. Đặc tính
của rượu etylic là dễ bị oxi hóa. Có rất nhiều chất oxi hóa có thể tác dụng với
rượu nhưng người chọn một chất oxi hóa là crom(VI)oxit CrO 3. Đây là một chất

oxi hóa rất mạnh, là chất ở dạng kết tinh thành tinh thể màu vàng da cam. Bột

7


oxit CrO3 khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành oxit Cr 2O3 là một hợp chất có màu
xanh đen.
Các cảnh sát giao thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có
chứa CrO3. Khi tài xế hà hơi thở vào dụng cụ phân tích trên, nếu trong hơi thở
có chứa hơi rượu thì hơi rượu sẽ tác dụng với CrO 3 và biến thành Cr2O3 có màu
xanh đen. Dựa vào sự biến đổi màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ thông báo cho
cảnh sát biếtđược mức độ uống rượu của tài xế. Đây là biện pháp nhằm phát
hiện các tài xế đã uống rượu khi tham gia giao để ngăn chặn những tai nạn đáng
tiếc xảy ra.
Áp dụng: Tai nạn giao thông luôn là nỗi ám ảnh của mọi người. Một trong
những nguyên nhân chính xảy ra tai nạn giao thông chính là rượu. Nhằm giúp
cho học sinh thêm hiểu biết về cách nhận biết rượu trong cơ thể một cách nhanh
và chính xác của cảnh sát giao thông, giáo viên nên đưa nội dung này vào bài
“Ancol” . Cụ thể, sau khi dạy xong bài “ Ancol ” giáo viên có thể đặt câu hỏi
như trên để cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi hướng giải quyết vấn đề.
Ví dụ 12: Vì sao rượu lại làm mất mùi tanh của cá?
Cá tanh do trong cá có trimetylamin (CH 3)3N và đimetylamin (CH3)2NH
và metyl amin CH3NH2 là những chất có mùi khó ngửi.
Khi chiên cá ta cho thêm một ít rượu có thể phá hủy được mùi tanh cá. Vì
trimetylamin thường “lẫn trốn” trong cá nên người ta khó trục nó ra. Nhưng
trong rượu có cồn, cồn có thể hòa tan trimetylamin nên có thể lôi được
trimetylamin ra khỏi chổ ẩn. Khi chiên cá ở nhiệt độ cao cả trimetylamin và cồn
đều bay hơi hết, nên chỉ một lúc sau mùi tanh cá sẽ bay đi hết.
Ngoài ra trong rượu có một ít etylaxetat có mùi dễ chịu nên rượu có tác
dụng thêm mùi thơm rất tốt.

Áp dụng: Đây là một kinh nghiệm thường thấy khi chế biến thức ăn liên
quan đến cá. Giáo viên cần giải thích cho học sinh biết được cơ sở hóa học của
kinh nghiệm trên. Từ đó giúp các em thấy được những ứng dụng đời thường của
hóa học nhằm tăng thêm niềm yêu thích đối với môn hóa học. Giáo viên có thể
đưa vào phần ứng dụng của ancol trong bài “Ancol” hoặc phần tính chất chung
của amin trong bài “Amin”
Ví dụ 13 : 2,4-D, 2,4,5-T và Đioxin là những chất gì ?
Vào khoảng những năm 1940 - 1948 người ta phát hiện thấy rằng axit 2,4
- điclophenoxiaxetic (2,4-D) , axit 2,4,5 -triclophenoxiaxetic (2,4,5-T) ở nồng độ
cỡ phần triệu có tác dụng kích thích sự sinh trưởng thực vật nhưng ở nồng độ
cao hơn chúng có tác dụng tiêu diệt cây cỏ. Từ đó chúng được sản xuất ở quy
mô công nghiệp dùng làm chất diệt cỏ phát quang rừng rậm. Trong quá trình sản
xuất 2,4-D và 2,4,5-T luôn tạo ra một lượng nhỏ tạp chất là đioxin. Đó là một
chất cực độc, tác dụng ngay ở nồng độ cực nhỏ (cỡ phần tỉ) , gây ra những tai
hoạ cực kì nguy OCH
hiểm
(ung thư, quái thai, dị tật…).
2 COOH
OCH2COOH

Cl

Cl

Cl

Cl

Cl
2,4-D


Cl

Cl

O

Cl

O

Cl

§ ioxin

2,4,5-T

8


Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam , Đế quốc Mĩ rải xuống Miền Nam
nước ta hàng vạn tấn chất độc màu da cam trong đó chứa 2,4-D, 2,4,5-T và
đioxin mà hậu quả của nó vẫn còn cho đến ngày ngay.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa thông tin này vào cuối bài phenol
Ví dụ 14: Nước nho và rượu vang diệt siêu vi trùng ?
“Nước nho, rượu vang làm giảm tuổi thọ của siêu vi trùng gây bệnh, thí
dụ siêu vi trùng poliomelit”. Những nhà sinh vật học Canada đã nuôi siêu vi
trùng trong các nước uống ấy, có điều chỉnh pH và đã nhận thấy rằng khả năng
gây bệnh của poliomelit trong nước nho (ở pH = 7.0 và nhiệt độ 4 0C) giảm hàng
nghìn lần sau 1 ngày. Rượu vang tác dụng kém hơn nước nho tươi. Người ta đã

giải thích rằng hiệu lực giết siêu vi trùng là của các hợp chất phenol có trong
nước nho nhiều hơn trong rượu vang.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa thông tin này vào cuối bài Phenol (Tiết 58
- SGK Hóa học 11) hoặc vào bài Ancol.
Ví dụ 15: Vì sao sau khi ăn trái cây thì không nên đánh răng ngay?
Các nhà khoa học khuyến cáo: ăn trái cây thì phải 1h sau mới được đánh
răng vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cấy sẽ kết hợp với những thành phần
trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công vào các kẽ răng và gây tổn
thương lợi. Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung hòa axit trong trí cây
nhất là táo, cam, nho, chanh
Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1-2h. Nếu sau bữa ăn, ta
ăn ngay trái cây sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày
Ví dụ 16: Vì sao quả chưa chín vừa cứng, vừa chua lại vừa chát nhưng quả
chín vừa ngọt, vừa mềm vừa thơm
Trong quả xanh, hàm lượng các axit hữu cơ rất cao như axit tactric, axit
xitric, axit axetic, ... Khi quả chín, các axit bị các chất kiềm trung hòa dần hoặc
tác dụng với các loại rượu để tạo este nên nồng độ các axit giảm. Đồng thời hàm
lượng đường trong quả cũng tăng dần. Do đó quả chuyển từ chua sang ngọt.
Quả xanh hơi cứng do có nhiều nhựa, phần lớn chúng không tan trong
nước. Trong quả chín, các loại nhựa chuyển hòa dần dần hòa tan trong nước làm
cho quả cây trở nên mềm
Quả xanh có vị chát chủ yếu do có nhiều axit tannic. Khi quả chín, axit
này bị oxi hóa nên quả hết vị chát
Quả xanh thường có màu xanh do có chứa diệp lục. Khi quả chín, chất
diệp lục bị phân hủy và xuất hiện các sắc tố khác
Quả chín có chứa nhiều đường có khả năng lên men thành rượu. Rượu
gặp các axit hữu cơ tạo thành các este làm cho quả chín có mùi hấp dẫn
Ví dụ 17: “Viên sủi”cho vào nước lại sủi bọt! vì trong viên sủi có một ít bột
NaHCO3 và bột axit hữu cơ như axit citric. Khi viên sủi găp nước tạo ra dd axit,
dd axit tác dụng với NaHCO3 sinh ra khí CO2. Khí này thoát ra khỏi cốc nước

dưới dạng bọt khí.
2. Sử dụng trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá
9


Trong các giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thực
tiễn mà học sinh có thể vận dụng được những kiến thức trong nội dung luyện tập
để giải quyết hoặc thông qua một bài tập có nội dung lý thuyết, sau khi giải
quyết xong giáo viên thông tin thêm những kiến thức thực tiễn có liên quan.
Một số câu hỏi hoặc bài tập mang tính thực tiễn nhưng nội dung trả lời ngắn
gọn và chỉ vận dụng thuần túy các kiến thức lý thuyết trong các chương, bài mà
học sinh đã được cung cấp có thể đưa vào các đề kiểm tra 15phút, 1 tiết, kiểm
tra học kỳ....

Đại cương về hóa học hữu cơ
Bài 1. Từ thời thượng cổ con người đã biết sơ chế các hợp chất hữu cơ như:
1. Giã lá cây chàm, cho vào nước, lọc lấy dung dịch màu để nhuộm sợi, vải.
2. Nấu rượu uống.
3. Làm đường cát, đường phèn từ nước mía.
Các cách làm trên lần lượt thuộc các phương pháp tách biệt và tinh chế nào ?
A. Chiết, chưng cất, kết tinh.
C. Kết tinh, chiết, chưng cất.
B. Chưng cất, chiết, kết tinh.
D. Chiết, kết tinh, chưng cất.
Hướng dẫn: Đáp án A
Bài 2. Năm 2008 tại Trung Quốc đã phát hiện trong một số loại sữa có nhiễm
melamin. Đưa melamin vào thực phẩm thì khi kiểm nghiệm sẽ cho chỉ số nitơ
toàn phần cao làm cho hiểu lầm là lượng đạm cao nhưng đây chỉ là lượng đạm
"giả" vì nitơ trong melamin không có tính dinh dưỡng như nitơ trong protein
thật và nếu tích tụ nhiều lượng melamin trong cơ thể sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe

con người. Khi phân tích melamin thu được các số liệu sau: 28,57% C; 4,76% H
và 66,67% N.
a) Hãy xác định công thức đơn giản nhất của melamin.
b) Xác định CTPT của melamin, biết có 6 nguyên tử N trong phân tử.
Hướng dẫn:
a) Công thức đơn giản nhất của melamin là: CH2N2.
b) CTPT của melamin là C3H6N6.
Bài 3. Trên thịt rường hiện nay, một số loại nước tương (xì dầu) đã bị cấm sử
dụng do chứa lượng 3-MCPD vượt quá tiêu chuẩn cho phép. 3-MCPD là chất
có nguy cơ gây ung thư. 3-MCPD có chứa C, H, O, Cl với % khối lượng tương
ứng là: 32,579%; 6,335%; 28,959% ; 32,127%. Xác định CTPT của 3-CPD biết
CTPT trùng với công thức đơn giản nhất.
Hướng dẫn:
Công thức đơn giản nhất của 3-MCPD là C3H7O2Cl.
Công thức phân tử: C3H7O2Cl.
Hiđrocacbon
Bài 4. Etilen được dùng để kích thích trái cây mau chín. Nó cũng là một trong
các sản phẩm sinh ra khi trái cây chín. Điều gì xảy ra khi để những trái cây
chín bên cạnh trái cây xanh?
Hướng dẫn: Khi để những trái cây chín cạnh những trái cây xanh thì C 2H4
sinh ra từ trái cây chín sẽ kích thích những trái cây xanh nhanh chín hơn.
10


Bài 5. Ở các cây xăng ta thường nhìn thấy ghi A83, A90, A92. Các con số 83,
90, 92 có ý nghĩa gì vậy? Tại sao ở các cây xăng người ta cấm sử dụng lửa và
điện thoại di động?
Hướng dẫn:
Các con số 83, 90, 92 chính là chỉ số octan của các loại xăng bán. Xăng có
thành phần chính là các ankan lỏng. Do các ankan lỏng dễ bay hơi nên ở các

điểm bán xăng luôn có hơi xăng , khi sử dụng điện thoại di động thì khi điện
thoại reo sẽ phát ra tia lửa điện có thể kích thích hơi xăng trong không khí
cháy, cũng như vậy đối với việc sử dụng bật lửa. Vì vậy những điều này đều
bị cấm
Bài 6. Cà rốt là loại củ có chứa đường và có hàm lượng vitamin A rất cao. Nhiều
người thích ăn cà rốt sống và làm nộm cà rốt vì cho rằng sẽ hấp thụ hết lượng
vitamin A trong đó. Quan điểm đó có đúng không? Tại sao?
Hướng dẫn:
- Caroten trong cà rốt là nguồn sinh ra vitamin A. Tuy nhiên đây là chất khó
hấp thụ đối với cơ thể. Vì vậy, nếu ăn sống hay làm nộm thì 90% caroten
không bị hấp thụ
- Bản chất caroten chỉ tan trong dầu mỡ nên việc ninh, nấu chín cà rốt với
dầu mỡ hay thịt là cách tốt nhất để dử dụng triệt để lượng vitamin dồi dào
trong loại củ này
CH3

CH3

CH3
CH3

H3C

CH3

CH3

CH3

CH3


CH3

-caroten

Dẫn xuất halogen - Ancol – Phenol
Bài 7. Vì sao rượu càng để lâu càng ngon?
Hướng dẫn:Quá trình lên men rượu từ đường là một quá trình phức tạp, diễn ra
theo nhiều giai đoạn, trong đó có qua các giai đoạn trung gian tạo anđehit.
Anđehit làm giảm chất lượng, mùi vị của rượu, vì vậy nếu hàm lượng anđehit
càng thấp thì rượu càng ngon.
Rượu càng để lâu thì quá trình lên men rượu càng xảy ra hoàn toàn, các
sản phẩm anđehit trung gian cũng sẽ chuyển thành rượu, do đó rượu càng để
lâu càng ngon.
Bài 8. Một số người cho rằng chỉ cần ngâm rau quả vào nước muối loãng là đã
có thể loại bỏ được dư lượng thuốc trừ sâu trên rau quả.Theo em suy nghĩ trên
có đúng không?
Hướng dẫn: Việc ngâm rau quả vào nước muối loãng chỉ có tác dụng góp phần
loại trừ trứng giun sán nhưng không thể loại trừ hoàn toàn.
Các loại thuốc trừ sâu có đặc tính khó tan trong nước nên việc ngâm rau quả
vào nước muối loãng không thể loại bỏ hết được dư lượng các chất này.

11


Bài 9: Phương pháp cấp cứu sơ bộ khi bị bỏng phenol: “Rửa nhiều lần bằng
glixerol cho tới khi màu da trở lại bình thường rồi bằng nước, sau đó băng
chỗ bỏng bằng bông tẩm glixerol”. Hãy giải thích tại sao lại làm như vậy?
Hướng dẫn: Do sự tan của phenol trong glixerol lớn hơn rất nhiều trong da
nên glixerol sẽ kéo/chiết dần phenol ra


Anđehit – Xeton – Axit cacboxylic
Bài 10 . Ở nông thôn nước ta nhiều gia đình vẫn đun bếp
rơm, bếp rạ, bếp củi. Khi mua rổ, rá, nong, nia … (được
đan bởi tre, nứa, giang…) họ thường đem gác lên gác bếp
trước khi sử dụng để độ bền của chúng được lâu hơn.
Giải thích tại sao?
Hướng dẫn: Do trong khối bếp có chứa HCHO, chất này
có khả năng diệt trùng, chống mối mọt nên rổ, rá, nong,
nia, … bền hơn
Bài 11. Vì sao khi dùng axeton để lau sơn móng tay lại cảm thấy móng tay rất
mát?
Hướng dẫn: Axeton rất dễ bay hơi, quá trình bay hơi thu nhiệt của móng tay
làm móng tay cảm thấy mát
Bài 12. Vitamin C (axit ascobic) được tìm thấy nhiều nhất trong trái cây (cam,
chanh…) và là chất dinh dưỡng rất cần thiết cho sự sinh sống của sinh vật. Công
thức cấu tạo của axit ascobic:
Dù công thức cấu tạo không có nhóm -COOH nhưng phân tử vẫn có tính axit.
Hãy giải thích?

OH
HO

O
HO

OH

Cam chứa nhiều Vitamin C
rất tốt cho sức khoẻ


Hướng dẫn: Dù phân tử không có nhóm -COOH nhưng nó vẫn có tính axit là do
phân tử có hệ liên hợp p-π, π-π từ O của nhóm -OH đến O của C=O làm cho
hidro của nhóm -OH gắn trến C có nối đôi trở nên linh động, có khả năng tách
ra H+
3. Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa
Giáo viên hóa học nên tổ chức cho học sinh các câu lạc bộ hóa học, các
buổi ngoại khóa về hóa học, các cuộc thi hóa học vui,.... nhằm tạo điều kiện cho
học sinh vận dụng những kiến thức hóa học vào cuộc sống, tạo niềm hứng thú
và say mê hóa học, đồng thời kích thích học sinh lòng ham hiểu biết, hình
thànhcho học sinh thói quen luôn thắc mắc, đặt vấn đề đối với những hiện tượng
12


trong cuộc sống và phải tìm cách giả quyết cho được các vấn đề đó. Ví dụ, khi
tham gia câu lạc bộ nhiều, học sinh sẽ tự mình đưa ra thắc mắc: “Vì sao nước
rau muống đang xanh, khi vắt chanh vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ?”;
“Vì sao khi bị ong đốt hoặc kiến đốt lại dùng vôi bôi vào đó?”; …Từ đó, học
sinh tự tìm cách để giải quyết vấn đề, dần dần hình thành phương pháp nghiên
cứu khoa học.
Kiến thức hóa học luôn luôn gắn liền với thực tiễn không chỉ có phần vô
cơ 11 mà xuyên suốt chương trình hóa học phổ thông từ lớp 8 đến lớp 12 đều có
cả một hệ thống vấn đề thực tiễn liên quan đến mỗi bài học. Chúng ta cần phải
luôn kết hợp được kiến thức thực tiễn vào trong bài học thì mới đạt được mục
đích cao nhất trong dạy học. Đặc biệt là các vấn đề liên quan đến môi trường và
sản xuất công nghiệp. Chúng ta cần tích cực hơn nữa trong việc đưa các kiến
thức về môi trường và các quy trình sản xuất trong công nghiệp vào trong các
bài học cho học sinh phổ thông. Đặc biệt là môn hóa học, kiến thức môi trường
phải được đưa thường xuyên, liên tục, xuyên suốt chương trình từ lớp 8 đến lớp
12.

Ví dụ, khi giảng bài “ancol” ở lớp 11, song song với việc giảng dạy về
tính chất lí hóa, giáo viên phải biết khai thác và kết hợp thêm về hiện tượng ngộ
độc rượu ....
Ví dụ, khi soạn bài “Anđehit” , giáo viên có thể đưa thêm một số câu hỏi
như “Vì sao lại cấm sử dụng formol trong thực phẩm”. Đôi khi chỉ một vài câu
liên hệ của thầy cũng gây được ảnh hưởng nhất định đối với học sinh.
Nếu chúng ta thực hiện tốt điều đó sẽ cung cấp cho người học nhận thức,
sự nhạy cảm, kiến thức về môi trường cũng như các vấn đề khác trong xã hội
đồng thời cả những kĩ năng thực hành, từ đó tạo điều kiện cho người học có một
vai trò quan trọng trong việc hoạch định kinh nghiệm học tập của mình, cho họ
cơ hội ra quyết định và chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Giúp người
học phát hiện những dấu hiệu và nguyên nhân thực sự của các sự cố môi trường,
từ đó hình thành lối suy nghĩ phân tích, phán xét và kĩ năng giả quyết vấn đề,
góp phần hiệu quả vào việc giải quyết các vấn đề môi trường
Không phải nói bài tập thực tiễn nghĩa là lúc nào cũng cứng nhắc, nhất
thiết phải đưa vào dưới dạng bài tập. Cũng bài tập đó, giáo viên có thể đưa vào
theo kiểu hỏi đáp, hoặc ghi thành bài tập trên bảng, trong phiếu học tập...và cũng
có thể biến đổi bài tập này thành một tư liệu, một câu chuyện để kể, giảng giải
cho học sinh....kết hợp một cách hợp lí vào bài giảng. Việc xây dựng bài tập
thực tiễn cũng với mục đích hệ thống hóa theo chương, bài để thuận lợi cho
việc sử dụng, còn khi sử dụng trong giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy bài mới
giáo viên cần chủ động, linh hoạt.
IV. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
Qua một năm nghiên cứu áp dụng và rút kinh nghiệm đề tài trên, tôi nhận
thấy chất lượng dạy và học hóa học khối 11 năm học 2017 – 2018 được nâng
cao rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy
mình vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng
13



người. Đối với các em học sinh, sau khi tôi áp dụng phương pháp dạy học tích
cực lồng ghép các BTHH thực tiễn vào bài giảng thì tỉ lệ học sinh thích học bộ
môn tăng lên rõ rệt thông qua chất lượng học tập bộ môn này được nâng cao. Cụ
thể, thống kê điểm trung bình môn Hóa ở những lớp được áp dụng phương pháp
này và lớp 11, so sánh như sau:
Thành phần % học sinh đạt trung bình bộ
môn trở lên
Lớp
Học kì I
Học kì II
11B2
68,89 %
85,56 %
11B5
69,32%
83,33%
C. Kết luận
I. Kết luận
Dạy học tích cực là quan điểm dạy học bao gồm các phương pháp dạy học
hóa học theo hướng giáo tổ chức để học sinh tích cực chủ động tìm tòi, phát hiện
xây dựng kiến thức mới. Lĩnh hội mục tiêu đổi mới giáo dục qua nhiều năm
giảng dạy tôi nhận thấy cách xây dựng giáo án theo hướng tích cực hóa lồng
ghép các BTHH thực tiễn sẽ phát huy được tính tư duy sáng tạo và ham thích
học bộ môn hơn, nhất là đối với học sinh người dân tộc tiểu số, các em cảm thấy
không còn xa lạ với những biến đổi vật chất, hiện tượng hóa học xảy ra hằng
ngày... từ đó giúp các em tự tin hơn trong học tập bộ môn. Cùng với việc đổi
mới trong giảng dạy và những trải nghiệm của bản thân trong quá trình giảng
dạy tôi nhận thấy rằng: “Không có phương pháp nào là vạn năng trong giảng
dạy, không có chiếc chìa khóa nào có thể mở được kho tàng trí thức nếu như
người giáo viên không biết sáng tạo trong cách truyền đạt của mình”.

II. Kiến nghị
1. Đề tài được áp dụng cho học sinh khối lớp: 11
2. Giáo viên cần phải nghiên cứu soạn thảo thêm nhiều bài tập thực tiễn để áp
dụng cho từng đối tượng học sinh, hướng dẫn và tạo cho học sinh thói quen đọc
sách, đọc tư liệu.
3. Từng đơn vị tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tiếp tục phát triển đề tài trên
qui mô rộng hơn. (Áp dụng đối với chương trình lóp 10, chương trình hóa vô cơ
lớp 11 và chương trình lớp 12)
4. Sở GD-ĐT cần tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn hóa học
trong từng năm để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện
pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn hóa học

14


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nghĩa
Nguyễn Trọng Nghĩa

Trên đây là toàn bộ đề tài tôi đã xây dựng và nghiên cứu trong một năm qua. Rất
mong sự tham gia đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và hội đồng khoa học
để đề tài được hoàn thiện hơn và được ứng dụng rộng rãi trong quá trình dạy và
học bộ môn hóa học.


15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Ái, Đào Hữu Vinh (2009), Tài liệu giáo khoa chuyên hóa học
Trung học phổ thông. Bài tập Đại cương và Vô cơ. Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Đới Thị Bình, Cát Lợi Bình (2003), 800 mẹo vặt trong cuộc sống hàng ngày.
Nhà xuất bản Thanh Niên.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Sách giáo khoa Hóa học 11. Nhà xuất bản
Giáo dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Sách giáo khoa Hóa học 11 nâng cao. Nhà
xuất bản Giáo dục.
5. Nguyên Văn Sang (dịch) (2002), Hóa học và đời sống – Tập 4 – Nguồn thực
phẩm. Nhà xuất bản trẻ.

16



×