Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua dạy học nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.46 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Tiêu mục
A. Mở đầu
B .Nội dung
I.Cơ sở lí luận về giáo dục kĩ năng sống
1. Quan niệm về kĩ năng sống
2. Phân loại kĩ năng sống
3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
4. Mục tiêu, nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
5. Quan điểm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn
Ngữ văn
II. Thực trạng việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua dạy- học nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí
1.Về phía giáo viên
2. Về phía học sinh
3. Nguyên nhân của thực trạng
III. Giải pháp thực hiện
1. Quan điểm, nguyên tắc
2. Chuẩn bị
3. Khả năng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy- học
nghị luận xã hội
4. Thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua
dạy- học nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí
5. Kết quả
6. Bài học kinh nghiệm
C. Kết luận và kiến nghị

Trang
2
4
4


4
4
5
5
6
8
8
9
9
10
10
10
10
11
15
15
17

1


A.MỞ ĐẦU
I.Lí do chọn đề tài :
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp;
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy mục tiêu giáo dục của Việt Nam
đã chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành những
năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển và sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục đang tích cực hướng con người phát triển toàn diện nhưng
công tác giáo dục đang đứng trước bao thử thách, khó khăn. Đó là tình trạng
học sinh phổ thông đã bỏ học, sống lang thang có xu hướng tăng.Theo thống
kê của cơ quan an ninh, hiện có khoảng 20.000 thanh thiếu niên bỏ học, sống
lang thang, bụi đời. Đặc biệt là hàng loạt những vụ học sinh tự tử vì những lí
do “ không đâu, những vụ án giết người, cố ý gây thương tích, bạo lực học
đường có xu hướng gia tăng. Hiện tượng học sinh hút thuốc lá, uống rượu,
tiêm chích ma tuý, quan hệ tình dục sớm … đã trở thành những vấn nạn gây
nhức nhối cho toàn xã hội.
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên nhưng theo
các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kĩ năng sống,
các em chưa được học cách đương đầu với khó khăn, thử thách, chưa biết
cách xử lý để đối phó với những thách thức trong cuộc sống.
Trong khi đó, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở nước ta còn rất
hạn chế, chưa đồng bộ, nhà trường vẫn quan tâm đến việc cung cấp kiến thức
“ dạy chữ” mà chưa quan tâm đúng mức tới việc “ dạy người” .
Môn ngữ văn ở trường phổ thông có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu giáo duc kĩ năng sống cho học sinh.Trong môn ngữ
văn, phân môn làm văn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với hai phân môn đọc
văn và Tiếng Việt. Ở tất cả các cấp học, phân môn làm văn luôn giữ vai trò
quan trọng trong việc rèn luyện, bồi dưỡng các kĩ năng sản sinh văn bản, kĩ
năng giao tiếpcho học sinh - một trong những mục tiêu cơ bản của môn học
Ngữ văn.
Trong quá trình thực hiện nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua môn học Ngữ văn, người viết sáng kiến kinh nghiệm nhận thấy, nghị luận
xã hội về một tư tưởng, đạo lí có khả năng đặc biệt trong việc khơi gợi tình
cảm, định hướng các giá trị sống cho học sinh phổ thông. Bởi đây là kiểu bài
làm văn chuyên bàn bạc các vấn đề xã hội như: chính trị, đạo đức, lối sống,
tính cách nhằm làm rõ đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề từ đó có thể hiểu một

cách thấu đáo để vận dụng vào thực tiễn. Đó cũng chính là mục đích giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh : kĩ năng tự nhận thức, đánh giá, xác định giá trị, kĩ
2


năng kiên định … giúp học sinh có nhận thức, tư tưởng đúng đắn, nuôi dưỡng
ước mơ, lí tưởng, biết sống, phấn đấu không chỉ cho bản thân mà còn biết sống
vì gia đình, dân tộc, quê hương.
Mặt khác, trong mấy năm gần đây theo cấu trúc đề thi THPT Quốc gia
công bố thì một phần bắt buộc chung cho tất cả thí sinh là viết đoạn văn nghị
luận xã hội trong giới hạn nhất định về đề tài và dung lượng. Qua tổng hợp các
bài kiểm tra và thi khảo sát chất lượng , chúng tôi nhận thấy kết quả bài làm
nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lí của trường THPT Lê Hoàn chưa cao.
Từ những lí do nêu trên tôi chọn đề tài “ Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh THPT qua dạy học nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí”
II. Mục đích nghiên cứu:
Góp phần giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
III. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh THPT
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- phương pháp nghiên cứu cơ sở lí thuyết
- Phương pháp điều tra thực tế
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
V.Những điểm mới:
- Thay đổi cấu trúc
- Sửa chữa một số phần mục

3



B . NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
1.Quan niệm về kĩ năng sống : Có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng
sống
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành
vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các
nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc(UNICEF), Kĩ năng sống là cách tiếp
cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ, kĩ năng.
Theo quan niệm của tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục Liên hợp
quốc ( UNESCO), kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là : học để
biết, học làm người, học để sống với người khác, học để làm
Từ những quan niệm trên ta thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ
năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân
tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng
sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp
với những người khác và xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống.
Như vậy, kĩ năng sống không phải tự nhiên có được mà phải hình thành
dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình
này diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục .
2.Phân loại kĩ năng sống
- Có nhiều cách phân loại kĩ năng sống tuỳ theo quan niệm về kĩ năng sống
song theo UNESCO,WHO, UNICEF có thể xem kĩ năng sống gồm các kĩ
năng cốt lõi sau :
+ Kĩ năng giải quyết vấn đề
+ kĩ năng suy nghĩ / tư duy phê phán
+ kĩ năng giao tiếp hiệu quả

+ Kĩ năng ra quyết định
+ Kĩ năng tư duy sáng tạo
+ Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân
+ Kĩ năng tự nhận thức / tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị
+ Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
+ Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc
- Trong giáo dục chính quy ở nước ta những năm vừa qua, kĩ năng sống được
phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau :
+ Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng
sống cụ thể như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm
kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin …
4


+ Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm các kĩ năng
sống cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ
chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác…
+ Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách có hiệu quả, bao gồm các kĩ năng
cụ thể như: tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra
quyết định, giải quyết vấn đề …
Cách phân loại chỉ là tương đối, trên thực tế, các kĩ năng sống thường
không hoàn toàn tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ đến nhau.
3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
- Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội
- Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Bởi vì các em
chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định
sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống
các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng
đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị
nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu

hiểu biết ssâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích
động …Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện
nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực
và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải
đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không
được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào
các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị
phát triển lệch lạc về nhân cách. Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi, có trách nhiệm đối với bản
thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích
cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia
đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành
mạnh.
- Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông
4. Mục tiêu, nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
a. Mục tiêu
- Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,
tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các
tình huống và hoạt động hàng ngày.
- Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
b. Nguyên tắc
- Tương tác: Kĩ năng sống không thể được hình thành qua việc nghe giảng và
tự đọc tài liệu mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác.
5


Thông qua các hoạt động có tính tương tác, học sinh có dịp thể hiện các ý
tưởng của mình, xem xét các ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem

xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận
khác.
- Trải nghiệm: Kĩ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải
nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kĩ năng khi các em tự làm
việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó.
- Tiến trình: Giáo dục kĩ năng sống không thể hình thành trong “ngày một,
ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình: nhận thức- hình thành thái độ - thay
đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một
chu trình mới. Do đó nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì mắt xích nào
trong chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức
và hành động hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
- Thay đổi hành vi: Mục đích cao nhất của giáo dục kĩ năng sống là giúp người
học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục kĩ năng sống thúc đẩy thay
đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ và hành động của mình.
- Thời gian- môi trường giáo dục: Giáo dục kĩ năng sống cần thực hiện ở mọi
nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Môi trường giáo
dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho học sinh áp dụng kiến thức và kĩ năng
vào các tình huống “ thực” trong cuộc sống.
5. Quan điểm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Ngữ văn
Chúng tôi cho rằng chủ trương giáo dục kĩ năng sống qua một số môn
học của Bộ giáo dục là cần thiết và cũng là nội dung đổi mới giáo dục hiện
nay. Vấn đề quan trọng là cần chọn phương pháp nào cho phù hợp, cho hiệu
quả ? Trước hết cần đổi mới phương pháp dạy của người thầy. Người thầy phải
kiên quyết đoạn tuyệt với phương pháp cũ và phải kiên định với phương pháp
dạy hiện đại, tích cực: Giáo viên là người thiết kế, tổ chức còn bản thân học
sinh tự tìm kiếm, giáo viên đối thoại với học sinh, trao đổi và khẳng định kiến
thức do học sinh tìm ra. Học sinh cần học kiến thức phương pháp chứ không
phải kiến thức cụ thể để học sinh có thể tự học, tự xác định được giá trị của
các kĩ năng sống.
a.Khả năng giáo dục kĩ năng sống trong môn học ngữ văn

- Với đặc trưng của môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm
vụ hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực
tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp
học sinh có những hiểu biết về xã hội, văn hoá,văn học, lịch sử, đời sống nội
tâm con người.
- Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực
ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người

6


- Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi
dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành
mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Vì thế, Ngữ văn là môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh.
b. Quan điểm giáo dục kĩ năng sống trong môn học Ngữ văn
- Bám sát mục tiêu giáo dục kĩ năng sống, đồng thời đảm bảo chuẩn kiến thứckĩ năng của giờ dạy Ngữ văn.
- Tiếp cận giáo dục kĩ năng sống theo hai cách: nội dung và phương pháp dạy
học, trong đó nhấn mạnh đến cách tiếp cận phương pháp. Nghĩa là thông qua
nội dung và phương pháp dạy học để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chứ
không phải tích hợp vào nội dung bài dạy, rèn kĩ năng sống cho học sinh qua
giờ học bộ môn.
c. Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống qua môn học ngữ văn ở trường THPT
*. Về kiến thức
Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như các
giá trị tốt đẹp của nhân loại, góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung, khắc sâu
kiến thức đã học về quyền và trách nhiệm đối vơí bản thân, gia đình, nhà
trường và xã hội, định hướng tương lai và nghề nghiệp cho các em.
Nhận thức được sự cần thiết của các kĩ năng sống giúp cho bản thân

sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển thể chất và tinh thần của bản thân và người khác .
Nhận thức được những giá trị cốt lõi làm nền tảng cho kĩ năng sống .
*. Về kĩ năng
Có kĩ năng làm chủ bản thân, kĩ năng sống có trách nhiệm, kĩ năng ứng
xử linh hoạt, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hàng ngày.
Có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng
đắn trong cuộc sống .
Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác
trước những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống
( Bảo vệ bản thân trước các tệ nạn xã hội, trước bạo lực và các nguy cơ khác
trong xã hội hiện đại ); giúp học sinh phòng ngừa những hành vi, nguy cơ có
hại cho sự phát triển của cá nhân.
*. Về thái độ
Học sinh cảm thấy hứng thú và có nhu cầu được thể hiện các kĩ năng
sống mà bản thân đã rèn luyện được đồng thời biết động viên người khác cùng
thực hiện.
Hình thành và thay đổi hành vi theo hướng tích cực, nhất là các hành vi
liên quan đến lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia
đình và cộng đồng.
7


Có ý thức về quyền và trách nhiệm với các giá trị truyền thống, với gia
đình, quê hương và dân tộc mình, có ý thức định hướng cho tương lai, định
hướng cho nghề nghiệp.
II.THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH QUA DẠY- HỌC NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VỀ MỘT TƯ
TƯỞNG, ĐẠO LÍ
1.Về phía giáo viên

a. ưu điểm
Đa số giáo viên đã xác định được tầm quan trọng của kiểu bài nghị
luận về một tư tưởng, đạo lí nên đã đầu tư thời gian, công sức để soạn, dạy
-học chu đáo biến một phân môn dễ khô khan, rời rạc, khó tiếp thu thành phân
môn sinh động, thu hút học sinh .
Nghị luận xã hội đặc biệt cung cấp dẫn chứng xác thực các em vừa
hứng thú vừa tăng sự hiểu biết cho các em.
Một số tiết trả bài đã dạy ứng dụng công nghệ thông tin: các lỗi sai, bài
sai, cách sữa đều được thể hiện sinh động, kích thích hứng thú cho các em. Sở
dĩ tiết trả bài thành công như vậy là vì giáo viên đã quán triệt từ khâu chấm
bài, nhận xét bài làm của học sinh đầy đủ: ưu, nhược, khuyến khích học sinh,
soạn, trả đầy đủ.
Thực hiện mục tiêu đặt ra, giáo viên đã xây dựng kế hoạch dạy học ôn
tốt nghiệp cho học sinh để tập trung rèn kĩ năng vận dụng về kiểu bài nghị
luận về một tư tưởng, đạo lí qua đó giáo dục kĩ năng sống cho các em.
b. Nhựơc điểm
Bên cạnh những giáo viên có tâm huyết, năng lực dạy - học nghị luận xã
hội về một tư tưởng, đạo lí vẫn có một số giáo viên chưa thật chú trọng kiểu
bài này
Thực tế, giáo viên chưa hướng dẫn tỉ mĩ cho học sinh cách thức làm bài,
chưa giúp học sinh nắm vững lí thuyết để vận dụng thực hành vì vậy kĩ năng
vận dụng bị hạn chế và kết quả làm bài thấp.
Việc chấm, trả bài ở một số giáo viên chưa thật sự có tác dụng trong
việc rèn luyện, sữa chữa, nâng cao các kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho
học sinh.
Phần lớn các tiết dạy nghị luận xã hội còn khô khan, giờ học còn nặng
nề, giáo điều
Trong quá trình soạn giáo án đầu tư cho tiết dạy trên lớp, sách giáo viên,
chuẩn kiến thức, kĩ năng chỉ trình bày kiến thức cần đạt, một số thao tác,
phương pháp giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, không đưa ra nội dung, phương

pháp cụ thể để giáo dục kĩ năng sống. Vấn đề này, giáo viên phải tự xem xét
rồi giáo dục kĩ năng phù hợp nên đòi hỏi người thầy phải đầu tư, phải linh hoạt
thì giáo dục mới đạt hiệu quả.
8


Một số giáo viên, trong quá trình giảng dạy chưa cân đối thời gian cung
cấp quá nhiều kiến thức nên không có thời gian phát vấn hay thảo luận để giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh. Hoặc việc giáo dục kĩ năng sống thông qua câu
hỏi lặp lại ở nhiều đề khác nhau gây nhàm chán, đơn điệu cho học sinh.
2. Về phía học sinh
a. ưu điểm
Nhiều em xác định được tầm quan trọng của nghị luận xã hội đã có cách
học khá tích cực, các em nắm vững lí thuyết để vận dụng một cách có hiệu
quả.Nhiều em tự mình rèn luyện, trau dồi kiến thức, nhạy bén, có hiểu biết về
xã hội, biết vận dụng sáng tạo tài liệu tham khảo, có sở trường viết nghị luận
xã hội nên đạt kết quả cao.
b. Nhược điểm
Hiện nay, học sinh không chú trọng học môn Ngữ văn cho nên không
đầu tư thời gian cho môn học hoặc việc học văn của các em chủ yếu là đọc và
học thuộc văn bản, ghi nhớ lời dạy của thầy cô. Đặc biệt là học sinh lớp 12,
các em học lệch để chuẩn bị cho thi Đại học, cao đẳng khối A, B nên không
dành thời gian đầu tư môn văn dẫn đến các em không tự bồi dưỡng cho mình
kĩ năng sống.
Kĩ năng làm bài nghị luận xã hội của học sinh hạn chế, kết quả làm bài
chưa cao. Lỗi chủ yếu ở các em là chưa biết trình bày vấn đề, thiếu ý, bố cục
bài viết không rõ ràng, nghĩ gì viết nấy …
Một số HS do thói quen từ nhỏ nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các
em rất khó khăn, các em thay đổi rất chậm.
Trong cấu trúc đề thi THPT Quốc Gia có một câu nghị luận xã hội 2,0

điểm nhưng đa số học sinh bỏ qua, nhiều em còn không đọc đề
Vấn đề đạo đức học sinh xuống cấp trầm trọng, nhiều vấn nạn đang
xảy ra trong môi trường học đường: nghiện hút, hút thuốc lá, bạo lực…
3. Nguyên nhân của thực trạng
Các vấn đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường trừu tượng, vấn đề
nghị luận thường được nêu lên qua các ý kiến, các nhận định. Mặt khác các bài
nghị luận về một tư tưởng, đạo lí đòi hỏi người viết phải có phương pháp tư
duy hợp lý, yêu cầu người viết phải bày tỏ quan diểm cá nhân .
Học sinh thiếu kiến thức xã hội nên không có các dẫn chứng sinh động.
Các em chỉ được học kiến thức sách vở mà thiếu kiến thức thực tế .
Học sinh chưa nắm được cách thức làm bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân học sinh chưa nắm được cách làm
bài là cơ bản. Từ thực tiễn nghiên cứu, tôi chọn biện pháp tác động là giáo
viên hướng dẫn cho học sinh cách làm bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí để
nâng cao hiệu quả trong bài làm vận dụng của học sinh. Như thế chính là đã
đạt được kết quả cao trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
9


III.GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Quan điểm, nguyên tắc
- Học sinh là đối tượng, chủ thể của nhận thức. Việc lĩnh hội kiến thức đòi
hỏi bản thân mỗi học sinh phải tích cực, sáng tạo, phải tham gia vào quá trình
nhận thức thì kiến thức mới bền vững được.
- Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, nêu vấn đề để học sinh tự nhận thức,
tự lựa chọn cách ứng xử đúng, phù hợp.
- Phải đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng với học sinh lớp 12 khi các em đang
phải đối mặt với các kì thi quan trọng trước mắt.
- Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống nhất quán với mục tiêu bài học.
2. Chuẩn bị

- GV: Soạn giáo án kĩ, chuẩn bị chu đáo
- Xác định nội dung sẽ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
- Chuẩn bị các câu hỏi cho học sinh thảo luận nhóm hoặc phương án học tập
3. Khả năng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy - học nghị luận
xã hội
- Nghị luận xã hội là thể văn phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến
các mối quan hệ con người trong đời sống, xã hội, nhằm tạo ra những tác động
tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong xã
hội .Thực hiện đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế
hệ trẻ, trong đề thi học sinh giỏi, tốt nghiệp THPT, Đại học, cao đẳng, Bộ GDĐT đã đưa giáo dục kĩ năng sống vào phần thi chung ( bắt buộc) - đề nghị luận
xã hội.
- Các đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí trong chương trình Ngữ văn ở
phổ thông thường nêu lên những nhận định mang tính tích cực, tiến bộ. Vì thế
nó có giá trị tư tưởng , hiệu quả, tác động sâu sắc đối với xã hội, con người đặc
biệt là thế hệ trẻ. Hơn nữa qua bài nghị luận xã hội về tư tưởng, đạo lí các em
còn thể hiện được ý kiến riêng, những trải nghiệm thực tế của cá nhân. Từ đó
rút ra bài học và phương hướng rèn luyện của bản thân. Nghĩa là các em đã
được giáo dục và thể hiện kĩ năng sống của mình: kĩ năng ra quyết định, giải
quyết vấn đề một cách đúng đắn, phù hợp, kĩ năng tự nhận thức về vấn đề tư
tưởng, đạo lí, có ý thức tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phán
những quan niệm sai lầm.
- Theo quan điểm của Bộ GD-ĐT và thực tế cuộc sống không phải học sinh
nào học hết bậc THPT cũng đều có khả năng theo học Đại học – cao đẳng. Vì
rất nhiều lí do khác nhau của cuộc sống, các em có thể ra đời lập nghiệp hoặc
đi học các trường dạy nghề. Các kĩ năng sống mà các em tích luỹ được qua
chương trình học sẽ là hành trang giúp các em hoà nhập và sống tốt hơn trong
cuộc đời. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy -học Nghị luận xã hội
về một tư tướng, đạo lí là dễ dàng và cần thiết .
10



4. Thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy - học nghị luận
về một tư tưởng, đạo lí
a. Đề 1: Anh(chị) có suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa tài và đức trong xã
hội hiện nay ?
Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh thảo luận nhóm, từng bước giải quyết đề
văn
Tìm hiểu đề, lập dàn ý. Trong đó chú trọng phần giải quyết vấn đề :
- Theo em tài là gì? đức là gì? Mối quan hệ giữa tài và đức? Nêu ví dụ ?
HS sẽ tìm ra các đơn vị kiến thức:
- Tài: tài năng, trí tuệ, năng lực thực sự của con người trong một hoặc nhiều
phương diện
- Đức: là biểu hiện tốt đẹp của đạo lí trong tính nết, tư cách, hành động của
con người.
- Mối quan hệ : + Tài và đức được đặt ngang hàng nhau, có mối quan hệ mật
thiết với nhau. vì :
+ người có tài là người thông minh, tài hoa, thao lược, quyết đoán nên hoàn
thành mọi việc một cách nhanh chóng, xuất sắc.
+ Song có tài thì chưa đủ, người có tài mà không có đức thì làm điều thất
đức, trái đạo
Ví dụ: Là kỹ sư, bác sĩ, người sản xuất, kinh doanh giỏi… nếu chỉ chạy theo
cái lợi mà thiếu lương tâm sẽ để lại những hậu quả khôn lường. Hồ CHí
Minh nói :” Có tài mà không có đức là người vô dụng”
+ Nhưng nếu “ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” : vì nếu chỉ
có tấm lòng, không có năng lực, trí tuệ, không năng động, sáng tạo thì làm
việc gì cũng thấy khó và rất khó thành công .
Ví dụ : Kĩ sư năng lực kém có thể phá huỷ công trình. Thầy giáo dốt có thể
làm hỏng các thế hệ học trò, bác sĩ dốt có thể giết chết người bệnh ….
 Tài- đức là hai yếu tố vô cùng quan trọng, liên quan chặt chẽ, không thể
thiếu yếu tố nào. Tài giuý con người thành đạt, đức giuý con người trở nên

cao quý, được mọi người ngưỡng mộ, noi theo. Đó chính là những yếu tố làm
nên giá trị” Người”
Theo em tài- đức có ý nghĩa như thế nào trong thời kì hội nhập ngày nay?
Bài học đối với em?
- Thời kì hội nhập, trước nhiều thử thách, nhiều khó khăn, nhiều thuận lợi,
trước nhu cầu đổi mới của nền tri thức mới đòi hỏi con người phải có năng
lực, có trình độ để tiếp thu tri thức khoa học tiên tiến vừa phải có tâm, có đức
để tài năng được phát triển toàn diện.
- Là học sinh mỗi chúng ta cần luôn rèn luyện, phấn đấu để trở thành người
tài, đức góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Giáo viên cho học sinh thảo luận bằng phiếu học tập: Thanh niên học
sinh làm gì để tu đức, luyện tài? ( liên hệ bản thân , hạn chế ở điểm nào? )
11


+ Làm đựợc: Phấn đấu học tập, tham gia các hoạt động từ thiện, các phong
trào thanh niên tình nguyện
+ Hạn chế: nhiều thanh niên còn ăn chơi, lãng phí thời gian, sa vào các tệ
nạn, ích kỉ , sống thiếu lí tưởng, mục đích…
Như vậy các em đã nhận thức rõ tầm quan trọng của tài và đức và những
hạn chế của thanh niên.Từ đó các em sẽ phấn đấu học tập hơn nữa, rèn luyện,
tu dưỡng phẩm chất, đạo đức để góp phần xây dựng đất nước …
b. Đề 2: Anh / chị nghĩ như thế nào về câu nói:
"Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố"
( Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm)
Sau khi cho học sinh tìm hiểu đề, lập dàn ý: giáo viên tổ chức cho học sinh
hình thành đơn vị kiến thức ( tập trung ở phần giải quyết vấn đề )
- Giáo viên đặt câu hỏi: Em hiểu ý của câu nói này như thế nào ?
- HS sẽ tìm ra đơn vị kiến thức:
*. Giải thích câu nói

+ Giông tố ở đây dùng để chỉ cảnh gian nan đầy thử thách hoặc việc xảy ra
dữ dội .
+ Câu nói khẳng định: cuộc đời có thể trải qua nhiều gian nan nhưng chớ cúi
đầu trước khó khăn, chớ đầu hàng thử thách, gian nan. ( Đây là vấn đề nghị
luận)
- Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Em hãy chứng minh điều đó
- HS tìm ra các ý:
+ Cuộc sống nhiều gian nan, thử thách nhưng con người không khuất phục.
+ Gian nan, thử thách chính là môi trường tôi luyện con người.
- Tiếp theo giáo viên cho học sinh tìm hiểu về ý nghĩa của câu nói, liên hệ
bản thân?
- Học sinh sẽ phát hiện ra:
+ Câu nói trên là tiếng nói của một lớp trẻ sinh ra và lớn lên trong thời đại
đầy bão táp, sống thật đẹp và hào hùng.
+ Câu nói thể hiện một quan niệm nhân sinh tích cực: sống không sợ gian
nan , thử thách, phải có nghị lực và bản lĩnh.
+ Câu nói gợi cho bản thân nhiều suy nghĩ: trong học tập, cuộc sống bản thân
phải luôn có ý thức phấn đấu vươn lên. Bởi cuộc đời không phải con đường
bằng phẳng mà đầy chông gai, mỗi lần vấp ngã không được chán nản bi quan
mà phải biết đứng dậy vươn lên.
Để có được điều này thì cần phải làm gì? Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện
=> Từ đề văn giáo dục cho HS: nhận thức được những khó khăn trong cuộc
sống là môi trường tôi luyện con người, xác định được gíá trị của lòng tự tin,
dũng cảm để vượt qua khó khăn và từ dó có những hành động tích tực ứng
phó trước khó khăn, có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống.
12


c. Đề 3: Người bi quan là người luôn tìm thấy khó khăn trong mọi cơ
hội. Người lạc quan là người luôn tìm thấy cơ hội trong mọi khó khăn”.

Hãy viết một bài văn ngắn( khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh(chị) về ý kiến trên.
Giáo viên hướng dẫn HS từng bước:
* Giải thích ý kiến:
- Người bi quan: Người có cách nhìn nặng nề, tiêu cực về một vấn đề nào
đó, không tin ở tương lai thậm chí không tin ở bản thân mình.
- Người lạc quan: người có cách nhìn, thái độ tin tưởng ở tương lai tốt đẹp
- Khó khăn: những trở ngại, thiếu thốn
- cơ hội: hoàn cảnh thuận lợi, thuận tiện để làm việc gì đó.
-> Ý kiến nói về hai nkiểu người đối lập: một kiểu lúc nào cũng có cái nhìn
vấn đề tiêu cưvj cho dù gặp hoàn cảnh thuận lợi, kiểu người kia lại lúc nào
cũng nhìn vấn đề tích cực cho dù gặp khó khăn.
* Bàn luận ý kiến
- Tại sao người bi quan lại luôn tìm thấy khó khăn trong mọi cơ hội ?
- Tại sao người lạc quan luôn tìm thấy cơ hội trong mọi khó khăn?
-> Từ đó giáo dục HS : Nên học cách sống của người lạc quan. Để trở thành
người lạc quan thì chúng ta phải nhìn cuộc sống ở khía cạnh đẹp nhất và hãy
tin tưởng vào điều đó chúng ta sẽ có mọi cơ hội. Thái độ lạc quan là bí quyết
để con người sống hạnh phúc.
d. Đề 4: Hãy viết một bài văn ngắn trình bày ý kiến của anh(chị) về câu
nói: “ Người tài ăn nói không bằng người giỏi lắng nghe”
* Giải thích câu nói
- Người tài ăn nói
- Người giỏi lắng nghe
-> ý cả câu
* Bàn luận về ý kiến
- >Từ đó giáo dục kĩ năng sống cho HS: Trong bất kì cuộc giao tiếp nào tài
ăn nói cũng là cần thiết song mỗi người cũng phải biết lắng nghe nữa và phải
luôn nhắc nhở bản thân phải biết kiên nhẫn chờ đợi, lắng nghe đối phương.
e. Đề 5: Nếu bạn đặt mình vào vị trí của ngươi khác điều đó sẽ thay đổi

cách bạn nhìn cuộc sống và cách sống của bạn . Trình bày suy nghĩ của
anh(chị) về ý kiến trên
Từ đề văn Giáo viên giaó dục kĩ năng sống cho Học sinh : Biết đặt mình
vào vị trí của người khác để có cái nhìn khác về cuộc sống và về người khác.
- Đặt vào vị trí của người khác mỗi người sẽ tránh được cái nhìn chủ quan,
phiến diện về sự vật, con người, có cái nhìn cảm thông, sẻ chia với những
người gặp khó khăn trong cuộc sống.
13


- Đặt mình vào vị trí của người khác mỗi người sẽ có dũng khí tiếp nhận
cho mình thêm những chi tiết mới, nhiều tình huống mới dù tình huống đó
khó khăn đến đâu ta cũng sẽ trưởng thành hơn sau những trải nghiệm của
chính mình.
- Đặt vào vị trí của người khác chúng ta sẽ trở thành người có kinh nghiệm
sống phong phú, sẵn sang đương đầu với thử thách trong cuộc sống và ta sẽ
có cái nhìn lạc quan hơn, tốt đẹp về thế giới.
g. Đề 6 : Suy nghĩ của anh( Chị ) về ý kiến : “ Chỉ có vào đại học thì
cuộc đời mới có tương lai”
GV hướng dẫn HS các bước làm bài, để HS thảo luận từ đó hình thành kiến
thức và kĩ năng sống :
Giúp Hs nhận thức được: - Xu hướng chung của tuổi trẻ hiện nay là lựa chọn
cho mình con đường vào đại học. Vì xã hội trân trọng và tôn vinh những
người học cao, hiểu rộng, coi họ là hiền tài, nguyên khí của quốc gia
- Tầm quan trọng của học đại học:
+ Nơi đào tạo các bậc hiền tài nổi tiếng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ đất nước .
+ Nơi cung cấp các kĩ sư, bác sĩ, các nhà khoa học, giáo viên
+ Nguồn cung cấp lực lượng cán bộ, chuyên gia nòng cốt trong mọi lĩnh vực
- Vào đại học - cuộc sống có tương lai: Có việc làm ổn định, thu nhập cao,

phù hợp năng lực, sở trường,phát huy được năng lực sáng tạo, có cơ hội
thăng tiến, có điều kiện phấn đấu …
=> Từ đó khuyến khích các em cố gắng nỗ lực để có tương lai tốt đẹp
- Song cũng cần giúp các em nhận thức được : Không phải ai cũng nhất thiết
phải vào đại học thì mới thành danh, thành tài, thành công trong sự
nghiệp.Có nhiều con đường khác nhau để thực hiện ước mơ tạo dựng tương
lai của bản thân:
+ Xã hội đang cần một đội ngũ lao động đông đảo, đa nghề, đa trình độ
+ Mỗi cá nhân có thể thực hiện ước mơ vào đại học bằng nhiều con đường :
Vừa học vừa làm, học qua trung cấp, cao đẳng lên đại học …
+ Không phải ai tốt nghiệp đại học cũng có tương lai rực rỡ. Mỗi người phải
thường xuyên tự học để trau rồi kiến thức, ngoài học sách vỡ, phải học trong
cuộc sống
=>Từ đó giúp HS nhận thức được : muốn có tương lai tươi sáng phải luôn tự
học, rèn luyện để nắm vững chuyên môn, nghành nghề của mình và phải có
quyết tâm, có nghị lực vươn lên làm chủ cuộc sống.
Từ nhận thức đúng đắn HS sẽ có khả năng ra quyết định và ứng phó trước
hoàn cảnh của bản thân, trước mọi người và cuộc sống.

14


h. Đề 7: Anh( chị) có suy nghĩ gì về ý kiến sau :“Một người đã đánh mất
niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý
giá khác nữa” ( Theo sách Dám thành công- nhiều tác giả, NXB trẻ,
2008)
*. Giải thích
- câu nói nói về hậu quả của việc đánh mất niềm tin vào bản thân
- Vấn đề cần nghị luận: Vai trò quyết định của niềm tin: có niềm tin là có tất
cả, đánh mất niềm tin là đánh mất tất cả.

*. Phân tích, chứng minh vấn đề
- Người có lòng tự tin luôn khẳng định được năng lực, phẩm chất của mình
- Có niềm tin sẽ giúp con người vững vàng, lạc quan và thành công trong
cuộc sống
-> Tự tin là nguồn sức mạnh, là đức tính quý báu của mỗi con người
- Ngược lại, khi con người mất niếm tin sẽ đánh mất những điều kiện cơ bản
và cần thiết giúp đạt được những giá trị của cuộc sống: ý chí, nghị lực, hy
vọng, lạc quan…
- Mất niềm tin, con người không thể đương đầu với khó khăn, thử thách, nên
dễ dàng buông xuôi, bỏ mất những cơ hội của cuộc sống ..
*. Bình luận, mở rộng
- Trong mọi hoàn cảnh sống, đặc biệt khi gặp những khó khăn, thử thách, con
người cần luôn tin tưởng vào bản thân, có nghị lực, bản lĩnh để vượt qua.
- Luôn sống tự tin nhưng tránh chủ quan, tránh tin một cách mù quáng, phải
biết lắng nghe, học hỏi, biết trau dồi năng lực bản thân.
=> Qua đề văn, Giáo viên giúp HS nhận thức được giá trị của niềm tin đối
với mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ. Từ đó hướng các em rút ra bài học cho
bản thân, giáo dục các em xây dựng niềm tin - một trong những yếu tố quan
trọng trên con đường thành công. Chính là đã giúp các em vững tin ở tương
lai của mình
5. Kết quả
Khi thực hiện từ tháng 8/ 2018 đến nay, bản thân đã giúp học sinh có hành vi
ứng xử đúng đắn, tích cực. So sánh kết quả từ đầu học kì I đến cuối tháng 4
học kì II bản thân thấy học sinh có sự chuyển biến rõ rệt. Kết quả như sau :
Lớp- sĩ số
A1- 45
A2- 42
A5- 44

Lần 1(HS có


năng
sống)
16
18
15

tỉ lệ
trăm
36
43
34

phần

Lần 2(HS có

năng
sống)
42
42
41

Tỉ lệ phần
trăm
93
100
93,2

15



6. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Việc dạy kĩ năng sống cho HS trong nhà trường THPT đang trở thành nhu
cầu cấp thiết. Bắt đầu từ năm học 2010-2011, Bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa
nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học và các hoạt động
ngoài giờ lên lớp. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn.Tuy nhiên để
giáo dục kĩ năng sống đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều phương pháp đa dạng chứ
không chỉ đơn thuần từ các bài giảng.
Người giáo viên cần chú ý một số điểm sau :
- Đầu tư thời gian để soạn giáo án, chuẩn bị kiến thức, chuẩn bị câu hỏi để
kiểm tra kĩ năng ứng xử, giải quyết vấn đề … của học sinh và phải tạo được
sức lôi cuốn, hấp dẫn để HS dễ tiếp nhận.
- Giáo viên ngữ văn cần phối hợp với nhiều giáo viên bộ môn khác, giáo viên
chủ nhiệm, đoàn trường để giáo dục kĩ năng sống một cách hiệu quả
- Cần khắc phục giờ dạy kiến thức đơn thuần
- Cần kiên trì và linh hoạt với nhiều đối tượng HS khác nhau để đảm bảo
đươc cả kiến thức lẫn kĩ năng sống .
- Chọn đề văn thích hợp với đối tượng học sinh, tìm hiểu học sinh thiếu kĩ
năng sống nào thì giúp các em bổ khuyết kĩ năng ấy

16


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- KẾT LUẬN : Theo yêu cầu của Bộ giáo dục và đào tạo, giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: giúp học sinh ý thức được giá trị
của bản thân trong mối quan hệ xã hội, giúp học sinh hiểu biết về thể chất,
tinh thần của bản thân mình, có hành vi, có thói quen ứng xử có văn hoá,
hiểu biết và chấp hành pháp luật …Tuy nhiên giáo dục kĩ năng sống để đạt

hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không phải chỉ từ các bài giảng. Song cũng
không thể phủ nhận được bộ môn văn là bộ môn có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh . “ Văn học là nhân
học”- học văn là học nhân cách làm người . Vì vậy để giáo dục thế hệ tương
lai của đất nước mỗi giáo viên cần phải tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho
các em một cách đồng bộ . Người giáo viên cần trang bị và thực hành thành
thạo các phương pháp giảng dạy kĩ năng sống, đồng thời phải gần gũi, thân
thiện với học sinh và gia đình các em, và bằng kinh nghiệm sống của mình
mới có thể giúp học sinh vận dụng tốt những kĩ năng học được vào cuộc sống
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng với từng đối tượng cụ thể ở lớp
dạy và đã kiểm nghiệm qua hai lần kiểm tra ,đã thu được kết quả tốt . Đó là
các em đã có sự thay đổi ứng xử trong các mối quan hệ, tự tin hơn trong
cuộc sống … Tôi nghĩ kết quả nghiên cứu này có thể áp dụng cho tất cả học
sinh THPT. Con đường dạy - học văn là con đường “ Mưa dầm thấm lâu”,
mỗi giáo viên cần luôn kiên trì và tin tưỏng ở các em để đạt kết quả cao
trong giáo dục, để ngày càng yêu nghề “Trồng người” của mình.
Tôi mong rằng đề tài này sẽ được các đồng nghiệp quan tâm và góp ý, tôi
cũng mong rằng chất lượng giáo dục thế hệ trẻ ngày càng được nâng cao để
các em có thể vững tin bước vào tương lai một cách năng động, sáng tạo.
- KIẾN NGHỊ: - Sở GD- ĐT Thanh hoá Cần đưa chương trình giáo dục kĩ
năng sống vào bồi dưỡng hè cho giáo viên để giáo viên các trường trong
tỉnh được học tập kinh nghiệm lẫn nhau .
- Cần soạn sách hướng dẫn cụ thể hơn cho giáo viên trong vấn đê giáo dục kĩ
năng sống ở từng bài cụ thể .
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh Hóa , ngày 25 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Ngọc

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn ngữ văn ở trường THPT –
NXB Giáo dục Việt Nam , 2010
2. Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn Văn - Nghị luận xã hội – NXB Đại
học sư phạm, 2010
3. Báo Giáo dục và thời đại
4.Chuyên đề kĩ năng sống

18


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ HOÀN
------------------***-----------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT
QUA DẠY- HỌC NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ

Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn


THANH HÓA NĂM 2019
19


20



×