Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Một số kinh nghiệm ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi văn chương trình lớp 11 đạt hiệu quả cho học sinh lớp 11 ở trường THPT ngọc lặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.45 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................................2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU....................................................................................................3
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.................................................................................................4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................................................................................4
4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết........................................................4
4.3. Phương pháp kiểm tra, khảo sát......................................................................................4
4.4. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu...............................................................................4
II. NỘI DUNG...............................................................................................................................5
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI..............................................................................................5
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.........................................................................................................5
1.1. Thuận lợi.........................................................................................................................5
1.2. Khó khăn.........................................................................................................................5
a) Về phía giáo viên:..........................................................................................................5
b) Về phía học sinh:...........................................................................................................6
3. GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH........................................................................................................6
3.1. Phát hiện nhân tố học sinh giỏi.......................................................................................6
3.2. Lên kế hoạch nội dung ôn tập.........................................................................................6
3.2.1. Dạy học theo chuyên đề...........................................................................................7
3.2.2. Đặt các đơn vị bài học trong hệ thống.....................................................................7
3.2.3. Dạy học chú trọng những giá trị riêng độc đáo.......................................................7
3.2.4. Đặt tác phẩm trong mối quan hệ mật thiết với tác giả.............................................8
3.2.5. So sánh các đơn vị kiến thức...................................................................................8
3.3. Cung cấp tài liệu tham khảo............................................................................................9
3.4. Rèn luyện hệ thống kĩ năng khi làm bài........................................................................10
3.4.1. Rèn luyện kĩ năng nhận diện, tìm hiểu đề.............................................................10
3.4.2. Rèn luyện kĩ năng mở bài và kết bài.....................................................................12
3.4.3. Rèn luyện kĩ năng lập dàn ý..................................................................................13
3.4.4. Rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn và liên kết đoạn........................................14
3.4.5. Rèn luyện kĩ năng kiểm tra, thực hành..................................................................14


3.5. Sửa bài, chấm bài cho học sinh.....................................................................................15
3.6. Quá trình nuôi dưỡng, truyền cảm hứng cho học trò....................................................15
4. THỰC NGHIỆM CHỨNG MINH GIẢI PHÁP................................................................15
4.1. Viết mở bài, kết bài:......................................................................................................15
4.2. Lập dàn ý:......................................................................................................................16
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...................................................................................................19
1. KẾT LUẬN..............................................................................................................................19
2. KIẾN NGHỊ..........................................................................................................................19

1


2


I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Bàn về vẻ đẹp và giá trị của văn chương từng có nhiều ý kiến đánh
giá xác đáng: “Văn học là nhân học” (Macxim Gorki), “Thơ ca làm cho tất cả
những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” (Shelly), “Trong tâm hồn con
người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được” (Nhêcơraxop)… Quả đúng
như vậy, từ muôn đời nay văn chương luôn có ý nghĩa lớn lao, có sức mạnh
mãnh liệt nâng đỡ đời sống tâm hồn con người, khiến tâm hồn trở nên giàu có và
mới mẻ.
Xét từ góc độ nghề nghiệp, nghề dạy học là một nghề cao quý, không chỉ
truyền đạt kiến thức mà còn dạy cách làm người. Trò thành đạt, nên người là
niềm vui của người thầy. Riêng với giáo viên dạy Văn có được những học sinh
yêu văn, đào tạo được những học sinh giỏi văn là niềm hạnh phúc khó có thể đo
đếm được. Bởi vậy, bồi dưỡng học sinh giỏi văn là điều hết sức quan trọng để
tình yêu văn không bị mai một, để môn Văn có chỗ đứng vững chắc trong nhà

trường, cũng là một cách khẳng định năng lực chuyên môn, nhiệt huyết của giáo
viên dạy Văn.
Về phía học sinh, nếu yêu văn, thích học văn sẽ có một tâm hồn nhạy
cảm, tinh tế; biết rung động trước cái đẹp, biết ngắm nhìn một giọt sương long
lanh trên cỏ; biết thương cảm trước những mảnh đời trắc trở, éo le; biết bất bình
và đấu tranh với những điều trái tai gai mắt…Những cái nắm tay xích lại gần
nhau sẽ làm thế giới trở nên đáng sống hơn, sẽ đẩy lùi căn bệnh vô cảm, để mặt
đất này nhân rộng yêu thương.
Học sinh học văn giỏi sẽ hỗ trợ nhiều cho việc giao tiếp, ứng xử, biết lựa
chọn từ ngữ phù hợp, cách nói đúng mực…giúp ích rất nhiều cho công việc
trong tương lai.
Như vậy có thể thấy học giỏi văn là một điều vô cùng ý nghĩa.
1.2. Trong thời đại cuộc sống công nghệ - cuộc sống phẳng hiện nay, mở
cửa ra là thấy nhà cao tầng, biển hiệu Internet tốc độ cao, khẽ lướt Ipad, điện
thoại thông minh là cả thế giới hiện ra trước mắt…thì việc giới trẻ nói chung,
học sinh phổ thông nói riêng ngại đọc sách, ngại học văn như là một hệ quả tất
yếu. Học sinh chịu học văn, thích học văn đã là một điều khó khăn, chứ chưa nói
đến yêu văn hay thắp cháy được ngọn lửa đam mê với môn văn. Vì lẽ đó để bồi
dưỡng được học sinh giỏi văn chưa bao giờ là điều dễ dàng.
Thêm nữa, do quan niệm và nhu cầu công việc nên việc phụ huynh hướng
con em đến các môn học tự nhiên là điều dễ hiểu. Cho dù có năng khiếu môn
văn nhưng có khả năng các môn Toán, Lý, Hóa, Sinh, Anh thì môn Văn đành
khiêm nhường lẫn ngậm ngùi dừng lại, thậm chí đành rớm lệ quay về. Hiện tại
môn Văn chưa bao giờ là lựa chọn ưu tiên, lựa chọn hàng đầu.
1.3. Đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi nhưng phần lớn còn chung chung, chưa đi sâu vào từng bước, từng kĩ
năng để trang bị kiến thức, dần nâng cao năng lực học trò, phát huy ưu điểm,
khắc phục nhược điểm để thi đạt kết quả cao. Đề thi học sinh giỏi tỉnh là đề
chung cho cả miền xuôi và miền núi, trường chuyên và không chuyên, mà với
2



đối tượng học sinh miền núi như trường THPT Ngọc Lặc (mấy năm liên tục
trắng bảng hoặc chỉ có một giải khuyến khích) thì rất cần cụ thể, chi tiết các
bước ôn luyện.
1.4. Từ nhiều năm nay, đối tượng thi học sinh giỏi của cấp học THPT tỉnh
Thanh Hóa là học sinh lớp 12, lớp cuối cấp đã gần như được hoàn thiện về nhận
thức, kiến thức, chuẩn bị hành trang bước vào cổng trường Đại học. Năm nay,
năm học 2017 – 2018 lần đầu tiên Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa tổ chức
thi học sinh giỏi lớp 11(lớp 10 cũng có thể tham gia). Thực tế giảng dạy cho
thấy học sinh lớp 11, đặc biệt là học sinh lớp 10 còn rất non nớt trong cảm thụ
văn học và xử lý văn bản. Dù vậy phát hiện thấy chất văn, năng khiếu văn
chương của học trò tôi đã mạnh dạn khích lệ, ôn luyện và thu được trái ngọt:
Học sinh Phạm Phương Ngân, lớp 10A4 trường THPT Ngọc Lặc do tôi giảng
dạy trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh đã được 13 điểm, đạt giải Ba. Giải Ba học
sinh giỏi chưa phải là cao, nhưng thiết nghĩ với một học sinh lớp 10, là người
dân tộc thiểu số, ở miền núi, điều kiện đi lại khó khăn (cách trường học hơn 10
cây số) là một kết quả đáng khích lệ.
Xuất phát từ tình yêu với những trang văn, sự trăn trở trước thực trạng
chỗ đứng của môn Văn đang bị lung lay, khát vọng thắp sáng lại ngọn lửa yêu
văn cho học trò và từ yêu cầu thực tế của công việc giảng dạy ở trường THPT,
chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm “MỘT SỐ KINH NGHIỆM ÔN
LUYỆN, BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VĂN CHƯƠNG TRÌNH LỚP 11
CHO HỌC SINH MIỀN NÚI Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
NGỌC LẶC” nhằm góp thêm một chút kinh nghiệm trong việc ôn luyện, bồi
dưỡng học sinh giỏi văn đạt kết quả cao.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với đề tài này chúng tôi có những mục đích nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất: Để đáp ứng yêu cầu của kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh được tổ
chức hàng năm, mang thành tích về cho nhà trường.

Thứ hai: Mong muốn khơi dậy tình yêu văn học trong học trò, dần tác
động học sinh quay trở về với văn hóa đọc đang dần bị lãng quên, cũng là cơ hội
nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho mỗi người giáo viên.
Thứ ba: Học sinh miền núi không được ôn luyện chuyên sâu, đặc biệt là
đối tượng lớp 10 nên chúng tôi dạy kĩ từng phần kiến thức và kĩ năng để biết
cách làm tốt một bài thi.
Thứ tư: Phần nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi sẽ giúp học sinh
có nhận thức sâu sắc về các vấn đề xã hội, tự rút ra các bài học ý nghĩa về các
tấm gương, cách ứng xử phù hợp, cách đối mặt với khó khăn, tình yêu thương,
khát vọng vươn tới…trong cuộc sống.
Thứ 5: Phần nghị luận văn học sẽ giúp học sinh hiểu sâu về nền văn học
dân tộc, một giai đoạn – trào lưu văn học cũng như những tên tuổi chói sáng,
những tác phẩm văn chương giàu giá trị nhân bản.

3


3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu là một bộ phận học sinh có năng khiếu văn
chương ở trường trung học phổ thông, chủ yếu là học sinh khối lớp 11 và lớp 10.
- Đối tượng cụ thể được tiến hành thực nghiệm là học sinh lớp 10A4
trường THPT Ngọc Lặc.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Để bồi dưỡng học sinh giỏi văn bước đầu giáo viên cần hướng dẫn, cung
cấp kiến thức cơ bản cho học sinh về nghị luận xã hội, lí luận văn học, tri thức
văn học sử, kiến thức về tác gia văn học, giai đoạn văn học, các bài học cụ thể
trong chương trình để học sinh có “phông nền”, “vốn liếng” từ đó lĩnh hội, suy
nghĩ, đào sâu, tìm tòi, dần nâng cao kiến thức văn học của mình.
Học sinh là chủ thể trong quá trình học tập, nên cần thúc đẩy học sinh

vận động, giáo viên chỉ định hướng, gợi mở và truyền cảm hứng cho học trò.
4.2. Phương pháp thực hành
Song song với việc cung cấp kiến thức, trong quá trình học cho học sinh
thực hành làm quen với các dạng, các kiểu đề nghị luận xã hội và nghị
luận văn học. Từ đó hình thành kĩ năng làm văn, tạo sự tự tin cho học sinh
bước vào kì thi.
4.3. Phương pháp kiểm tra, khảo sát
Giáo viên yêu cầu học sinh thực hành làm bài với nhiều dạng đề, kèm
chặt thời gian để tạo lực đẩy (làm đúng 180 phút như khi thi), từng bước phát
huy khả năng của học sinh, nắm được ưu điểm – nhược điểm của từng em để có
thể điều chỉnh, uốn nắn kịp thời, giúp các em ngày càng tiến bộ.
4.4. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Chúng tôi tiến hành thống kê hai nhóm học sinh ôn thi học sinh giỏi trước
và sau khi áp dụng sáng kiến để đánh giá mức độ hiệu quả: một nhóm lớp 11 đã
được học trước 1 năm, học thời gian dài hơn, một nhóm lớp 10 vừa vào cấp III,
học thời gian ngắn hơn (6 tháng)

4


II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Môn Ngữ văn cũng như các môn học khác là một môn khoa học nhưng có
những nét đặc thù riêng. “Môn Ngữ văn giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp của
cuộc sống, xã hội, con người và thế giới khách quan, hình thành cho học sinh
những kĩ năng nghe – nói – đọc – viết và khả năng giao tiếp trong cuộc sống,
giúp học sinh hướng đến Chân – Thiện – Mỹ”[5]. Không như những môn học
Khoa học xã hội khác chủ yếu cần khả năng ghi nhớ môn Ngữ văn đòi hỏi khả
năng cảm thụ, phân tích, so sánh, tổng hợp…
“Ngữ văn là bộ môn khoa học xã hội mang tính nghệ thuật cao nên khi

nghiên cứu giảng dạy đòi hỏi người dạy phải có vốn kiến thức, vốn sống, sự
nhạy cảm và quá trình làm việc nghiêm túc, công phu”[4]. Người dạy cũng cần
cập nhật, bám sát thực tiễn, lấy mục đích dạy – học văn để phục vụ cuộc sống,
để chính cuộc sống kiểm nghiệm và khẳng định.
Với đối tượng học sinh thông thường khi học văn chỉ cần đáp ứng yêu cầu
nắm vững nét chính về tác giả, kiến thức cơ bản của tác phẩm, có kĩ năng làm
văn. Học sinh giỏi văn phải là học sinh có khả năng cảm thụ, nhạy cảm, biết
rung cảm trước một câu thơ hay, đồng cảm với số phận nhân vật, vốn từ phong
phú, có những từ “đắt”, có kĩ năng khái quát, tổng hợp vấn đề. Và cũng rất cần
sự chăm chỉ, miệt mài, có phương pháp học tập phù hợp, học bằng sự say mê.
Tất nhiên vai trò của người thầy cũng vô cùng quan trọng, là người định hướng,
cung cấp kiến thức và truyền lửa đam mê. Thiếu “lửa” thì không thể cháy, không
thể trở thành học sinh giỏi văn được.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1.1. Thuận lợi
Những năm gần đây nhà trường và địa phương rất quan tâm đến giáo dục,
BGH trường THPT Ngọc Lặc lên kế hoạch cụ thể để chỉ đạo chuyên môn và
quan tâm đến việc ôn luyện, bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi.
Tuy một số học sinh có thành tích tốt đã “đầu quân” vào trường THPT Lam
Sơn nhưng vẫn còn một số ít học sinh có tố chất văn chương, có khả năng bồi
dưỡng. Bản thân người giáo viên đã có sự đầu tư chuyên môn theo chiều sâu,
nâng cao năng lực, trình độ, tâm huyết trong công tác ôn luyện, bồi dưỡng học
sinh giỏi.
1.2. Khó khăn
a) Về phía giáo viên:
- Tài liệu hướng dẫn ôn luyện học sinh giỏi không phổ biến nên giáo viên
phải tự tìm tòi, tích lũy, tự tìm ra hướng đi, cách ôn luyện phù hợp.
- Giáo viên phải đảm bảo được công việc đứng lớp theo quy định, học
sinh thì lịch học khá dày nên phải sắp xếp, tận dụng thời gian cho hợp lí.
5



b) Về phía học sinh:
- Hiện nay học sinh tiếp xúc nhiều với công nghệ nên ngại đọc sách, ngại
học văn, khả năng cảm thụ văn chương còn hạn chế. Có những em thích đọc
sách thì lại “sa chân” vào thế giới ngôn tình, mơ mộng về những chàng hoàng
tử, soái ca trong đời thực mà ít khi chịu đọc nghiêm túc chứ đừng nói đến cảm
thụ, đào sâu, tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp của văn chương.
- Trường THPT Ngọc Lặc là một trường miền núi, nằm trên địa bàn thị
trấn Ngọc Lặc vừa lên đô thị loại 4, phân loại rõ các kiểu học sinh: một bộ phận
nhiễm lối sống thành thị ăn chơi đua đòi, một bộ phận học sinh dân tộc thiểu số
trình độ nhiều hạn chế, một bộ phận ham học thì điều kiện gia đình, địa lý nhiều
khó khăn… Vì lẽ đó để chọn được những học sinh có tố chất văn chương không
phải điều dễ dàng.
- Ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi bao giờ cũng cần cả một quá trình đầu
tư lâu dài về cả chất và lượng, nên tâm lý chung của cả phụ huynh và học sinh là
ngại áp lực, ngại sự kéo dài về thời gian mà sợ không có kết quả gì, muốn dồn
thời gian học các môn thi vào Đại học.
- Đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh là đề thi chung cho cả miền xuôi và miền
núi, trường chuyên và không chuyên, mà học sinh miền núi độ dày về kiến thức
và khả năng tiếp nhận văn chương có nhiều hạn chế hơn.
3. GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH
3.1. Phát hiện nhân tố học sinh giỏi
Bồi dưỡng học sinh giỏi không giống đối tượng học sinh thông thường,
nên việc phát hiện, chọn lọc được những học sinh có năng khiếu, có chất văn là
điều vô cùng quan trọng. Bởi lẽ văn chương rất cần khả năng cảm thụ, rung cảm
chứ không phải cứ gò ép, cứ đọc nhiều là được. Một học sinh học được môn
Văn nhưng nếu không có chất văn, không có năng khiếu thì khó có được sức bật
khi thi học sinh giỏi, cố gắng thì cũng chỉ có thể chạm ngưỡng. Và với bài viết
của những học sinh này người đọc dễ có cảm giác “làm văn”, mà chưa phải là sụ

thấu hiểu, đồng cảm, đau nỗi đau của nhân vật, vui sướng với hạnh phúc của chủ
thể trữ tình, cảm thương, trân trọng, đau đớn trước số phận riêng bất hạnh của
nhà văn, nhà thơ, khiến mỗi dòng văn như chảy ra từ trái tim thấu cảm, nhân ái.
Phát hiện được học sinh có năng khiếu văn chương, chỉ cần người giáo
viên có năng lực, có nhiệt huyết, biết thúc đẩy, phát huy điểm mạnh của học trò,
bồi đắp những phần non nớt thì chắc chắn sẽ có thu hoạch.
3.2. Lên kế hoạch nội dung ôn tập
Dân gian có câu “có bột mới gột nên hồ”, nên việc xây dựng kế hoạch ôn
tập, tạo nền tảng kiến thức cho học sinh là điều vô cùng quan trọng. Bởi nếu
không có kiến thức thì dù lời văn bay bổng vẫn chỉ tạo sự sáo rỗng, hoa mỹ,
không có chiều sâu.
Lượng kiến thức cần trang bị cho học sinh giỏi là vô cùng lớn, nên giáo
viên cần có kế hoạch cụ thể, chi tiết cho từng phần, phân bố thời gian hợp lý.
6


3.2.1. Dạy học theo chuyên đề
Chương trình ôn thi học sinh giỏi Ngữ Văn lớp 11 đã được giới hạn lượng
kiến thức trọng tâm, nhưng vẫn cần chia ra các chuyên đề để ôn theo chiều sâu,
cụ thể có thể chia thành các phần như sau:
Chuyên đề 1: Nguyễn Đình Chiểu và “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (đi sâu
vào vẻ đẹp bi tráng của tượng đài người nông dân – nghĩa sĩ bất tử lần đầu tiên
xuất hiện trong văn học dân tộc).
Chuyên đề 2: Hồ Xuân Hương và “Tự tình II” (lưu ý chùm ba bài thơ
“Tự tình”, số phận éo le, ngang trái của nữ sĩ).
Chuyên đề 3: Văn học sử từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945.
Chuyên đề 4: Thạch Lam và “Hai đứa trẻ” (văn học lãng mạn, chú ý
phong cách Thạch Lam trong tương quan với nhóm “Tự lực văn đoàn”).
Chuyên đề 5: Nguyễn Tuân và “Chữ người tử tù” (văn học lãng mạn, chú
ý tập truyện ngắn “Vang bóng một thời”, phong cách tài hoa – độc đáo của

Nguyễn Tuân).
Chuyên đề 6: Nam Cao với “Chí Phèo” và “Đời thừa” (văn học hiện thực
phê phán, chú ý đến hai mảng đề tài về người nông dân nghèo và người trí thức
nghèo, những khám phá mới mẻ của Nam Cao tạo nên phong cách riêng…).
Chuyên đề 7: Vũ Trọng Phụng và “Hạnh phúc của một tang gia” (lưu ý
mở rộng về tiểu thuyết “Số đỏ” và nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng
Phụng).
Chuyên đề 8: Tản Đà và “Hầu Trời” (chú ý Tản Đà là gạch nối giữa hai
thế kỉ, cái tôi lãng mạn, quan niệm văn chương mới mẻ…).
Chuyên đề 9: Xuân Diệu với “Vội vàng” và “Đây mùa thu tới”(chú ý làm
rõ cái mới của thơ Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” với
giọng thơ sôi nổi đắm say, quan niệm nghệ thuật mới mẻ…)
Chuyên đề 10: Huy Cận và “Tràng giang”(giọng thơ sầu “ảo não”)
Chuyên đề 11: Hàn Mặc Tử và “Đây thôn Vĩ Dạ” (chú ý cuộc đời bất
hạnh và sức sáng tạo mạnh mẽ của Hàn Mặc Tử).
Chuyên đề 12: Hồ Chí Minh (Nhật kí trong tù, chú ý bài “Chiều tối”).
3.2.2. Đặt các đơn vị bài học trong hệ thống
Khi ôn luyện không thể chỉ dạy những đơn vị kiến thức riêng lẻ mà cần
đặt các bài học trong hệ thống, trong một giai đoạn, trào lưu văn học để giúp học
sinh có cái nhìn khái quát, tổng hợp. Có thể hiểu đơn giản không thể chỉ dạy cho
học sinh một cái cây mà cần dạy về cả khu rừng, với những cái cây đứng cạnh,
che chở, bao bọc nhau. Chẳng hạn trong giới hạn thi học sinh giỏi văn khối 11
năm học 2017 – 2018 phần Thơ mới gồm các tác phẩm: “Vội vàng”, “Đây mùa
thu tới” (Xuân Diệu), “Tràng giang” (Huy Cận), “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc
Tử) nhưng không thể chỉ dạy những đơn vị kiến thức riêng lẻ của từng bài mà
cần dạy về cả phong trào Thơ mới, về “Một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh)
để có cái nhìn bao quát về một thời đại văn học.
3.2.3. Dạy học chú trọng những giá trị riêng độc đáo
Bên cạnh đó vẫn rất cần hướng dẫn cho học sinh thấy đặc tính riêng biệt
của từng cây, những giá trị riêng, nét đẹp độc đáo trong từng tác phẩm cũng như

7


phong cách sáng tác riêng, “giọng riêng biệt trong cổ họng” mỗi nhà văn, nhà
thơ. Với Huy Cận là cái buồn “ảo não” của một “chàng Huy Cận xưa nay hay
sầu lắm”, là “nỗi buồn thế hệ” của cả một thế hệ thanh niên trí thức chưa tìm
thấy lối ra vì sống trong cảnh nước mất nhà tan. Với Xuân Diệu là giọng thơ sôi
nổi, đắm say, cuống quýt, vồ vập, ham hố…Nam Cao bộc lộ “đôi mắt mới” khi
khám phá những số phận con người, phong cách tài hoa – độc đáo của Nguyễn
Tuân…
3.2.4. Đặt tác phẩm trong mối quan hệ mật thiết với tác giả
Đồng thời khi dạy về tác phẩm cũng không thể tách rời tác giả, đặc biệt là
những tác giả có cuộc đời, số phận đặc biệt. Chẳng hạn như khi dạy bài “Đây
thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử không chỉ đơn giản cung cấp kiến thức về bài thơ,
mà cần lưu ý về số phận bất hạnh của Hàn với những khắc khoải, đau đớn, sống
là chạy đua với từng phút từng giây vì lưỡi hái tử thần ngay trước mắt. Giáo viên
phải truyền được xúc cảm về một thi sĩ khao khát sống, khao khát sáng tạo
nhưng luôn bị nỗi đau dày vò đến ám ảnh, thấy được sức sáng tạo mãnh liệt của
Hàn trong phong trào Thơ mới với hai thế giới thơ đối lập: những bài thơ rùng
rợn, ma quái với hai hình tượng chính là hồn và trăng; những bài thơ trong trẻo,
sáng đẹp đến lạ thường như “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Mùa xuân chín”… Hai thế giới
thơ như sự hiện thân của sự giằng xé mãnh liệt trong nội tâm Hàn Mặc Tử, vừa
khao khát được sống, khao khát tình yêu và hạnh phúc; vừa đau đớn vì bị bệnh
tật dày vò, vì tử thần có thể đến gõ cửa bất cứ lúc nào. Sự dày vò đến đau đớn
trong tâm tưởng thi nhân bởi sự đối lập giữa hai thế giới “trong này” ảm đạm,
thiếu sinh khí và “ngoài kia” thắm sắc đượm hương: “Ngoài kia xuân đã thắm
hay chưa, Trời ở trong đây chẳng có mùa”…
3.2.5. So sánh các đơn vị kiến thức
Khả năng so sánh, đối chiếu những vấn đề có điểm gặp gỡ, giao thoa để
tìm ra nét chung – riêng cũng vô cùng quan trọng trong quá trình ôn luyện. Ví

dụ: Cảm giác sống vội vàng, phấp phỏng lo âu trong thơ Hàn (“Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?”) có thể liên tưởng đến thái độ
sống vội vàng trong thơ Xuân Diệu (“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ; Em,
em ơi tình non sắp già rồi” (Giục giã); “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm, Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn…”(Vội vàng)…). Tuy nhiên cần
định hướng cho học sinh thấy được thái độ, cảm giác sống vội vàng của hai nhà
thơ là khác nhau: Nếu với Hàn chỉ được sống không thôi đã là một điều hạnh
phúc rồi thì với Xuân Diệu sống là tận hiến, tận hưởng cuộc sống, là “cái ly tràn
đầy cuộc sống tôi dâng”, là sự ham hố, vồ vập, cuống quýt trước thiên đường
trên mặt đất. Từ đó phân định được phong cách sáng tác riêng của hai “đỉnh cao
Thơ mới” (Chu Văn Sơn).
Hay khi dạy “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam phải liên hệ với nhóm Tự lực
văn đoàn, dạy “Chí Phèo” phải liên hệ với “Tắt đèn”(Ngô Tất Tố), “Bước đường
cùng”(Nguyến Công Hoan)… để thấy mặc dù Nam Cao là người đến sau nhưng
vẫn chứng tỏ được trình độ bậc thầy của mình.

8


3.3. Cung cấp tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo đối với học sinh giỏi văn là rất quan trọng, cần cung
cấp cho học sinh danh mục tài liệu cần thiết, khuyến khích đọc nhiều để mở
rộng, nâng cao vốn từ, vốn kiến thức, học cách hành văn, có những trải nghiệm
cuộc sống… Học trò đọc nhiều sẽ thấm dần, ngấm dần và tiến bộ từng ngày mà
bản thân cũng không ngờ tới. Đó là sự trưởng thành trong suy nghĩ, cảm thụ, có
sự nhạy bén hơn khi tiếp cận các tác phẩm văn học. Trong quá trình ôn luyện,
chúng tôi chú trọng cho học sinh những tài liệu như: “Giảng văn văn học Việt
Nam”, “217 đề và bài văn”, “Những bài văn đạt giải quốc gia”, “Muốn viết được
bài văn hay”, “Thi nhân Việt Nam”, “Ba đỉnh cao Thơ mới”, “Tuyển tập đề thi
Olympic 30 tháng 4 Ngữ văn 11”, “Các bài văn nghị luận xã hội”…

Bên cạnh đó học sinh thời nay đa phần đều sử dụng tài khoản facebook,
thay vì sử dụng chỉ để giải trí chúng tôi hướng dẫn học sinh theo dõi các trang
cung cấp tài liệu môn văn, như “Học văn – văn học”, “Quà tặng văn học”,
“Nhóm học văn”, “Văn học và những cảm nhận”… cập nhật thường xuyên các
đề thi học sinh giỏi các tỉnh, các kiến thức bổ ích hình thành những kiến thức đa
chiều.
Học sinh giỏi văn đòi hỏi phải có vốn kiến thức rộng và sâu, nên cần cung
cấp đa dạng kiến thức cho học sinh, như những nhận định hay về văn học: “Văn
chương vượt ra ngoài những định luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa
nhận cái chết” (Sê-đrin).“Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong
cốt tủy” (Sê khốp),“Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại”.
(Banlzac).“Thi ca là một tôn giáo không kỳ vọng” (Jean Cocteau)…
Khi dạy về các tác giả, tác phẩm thì cung cấp những nhận định hay của
chính tác giả về văn chương hay những nhận định của các nhà nghiên cứu về họ,
chẳng hạn như mỗi tác giả trong phong trào Thơ mới có những nhận định khác
nhau: với Xuân Diệu (“Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” – Thế Lữ,
“Tôi mở đầu tuyển tập hàng trăm tác giả này bằng nhà thơ Nga Puskin và kết
thúc bằng nhà thơ Xuân Diệu – Việt Nam, Xuân Diệu là nhà thơ lớn của phương
Đông vậy” – nhà thơ nữ Bungari Bra – gri – a – ma, “Thơ Xuân Diệu còn là
một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, Xuân Diệu
say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận
hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình” – Hoài Thanh…), với Huy Cận (“Huy Cận
lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.
Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người
lại có thể đúc thành bao châu ngọc", “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của
Ðông Á,... đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi
đất này” - Hoài Thanh…). Dạy về Thạch Lam hay Nam Cao thì cần lưu ý quan
niệm nghệ thuật của chính tác giả (“Đối với tôi văn chương không phải là cách
đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại văn chương là một thứ

khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái
thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong
phú hơn” - Thạch Lam, “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không
9


nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than”, “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy những vang
động của đời”, tác phẩm văn học “phải chứa đựng một cái gì lớn lao, vừa đau
đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nam Cao).
Cung cấp khéo léo, có hệ thống những dạng kiến thức này sẽ tạo hứng thú
và mở rộng, nâng cao kiến thức cho học sinh.
3.4. Rèn luyện hệ thống kĩ năng khi làm bài
Trong quá trình bồi dưỡng, ôn luyện muốn đạt kết quả cao giáo viên cần
rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết để không lúng túng trong khi làm
bài, thi cử, càng cụ thể, chi tiết thì học sinh càng dễ tiếp thu, nhanh tiến bộ. Quá
trình rèn kĩ năng sẽ gồm các bước sau:
3.4.1. Rèn luyện kĩ năng nhận diện, tìm hiểu đề
Đây là kĩ năng quan trọng đầu tiên trong quá trình ôn luyện. Bởi lẽ đề thi học
sinh giỏi tuy chia thành hai phần rõ rệt: nghị luận xã hội và nghị luận văn học
nhưng dạng đề, kiểu đề vô cùng phong phú, nếu không biết cách nhận diện đề,
nắm được yêu cầu của đề để có hướng đi đúng thì bài viết sẽ lạc đề hoặc xa đề.
a. Dạng đề nghị luận xã hội
Hiện nay để đáp ứng việc đánh giá đúng năng lực của học sinh, đề nghị
luận xã hội được ra theo hướng mở, cho học sinh một không gian rộng rãi để
phát huy trí tưởng tượng, sức sáng tạo, thể hiện những cảm nhận, suy nghĩ cá
nhân trước những gì được quan sát, được tiếp nhận, được trải nghiệm trong cuộc
sống.
Tuy nhiên, mặc dù tâm lí rất hứng thú nhưng nhiều em không tránh khỏi
cảm giác lúng túng, hoang mang, không biết nên đi hướng nào cho đúng. Thêm

nữa, yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội đối với học sinh giỏi là rất cao, đòi hỏi
vốn sống phong phú, biết dùng lí lẽ, kiến thức xã hội để bình luận, chứng minh
bảo vệ cho quan điểm của mình. Để làm tốt thì việc đầu tiên vẫn là phải xác
định đúng, trúng vấn đề mà đề bài yêu cầu.
Ví dụ 1: Đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh năm học 2017 – 2018 vừa qua:
Thông điệp sâu sắc nhất mà anh(chị) nhận được trong bài thơ sau:
Mùa đông đang đến gần
Những bầy chim bắt đầu thấy lạnh
Rủ nhau về phương Nam lẩn tránh
Dù suốt mùa hè ca ngợi quê hương
Chỉ có đại bàng vẫn ngồi im
Lặng lẽ nhìn những hàng cây trút lá
Khi quê hương gặp những ngày băng giá
Đại bàng không bỏ bay đi
(Raxun Gamzatop)
Với đề bài này yêu cầu học sinh xác định được hướng đi: tìm ra một
thông điệp sâu sắc nhất và tập trung đi sâu bàn luận, chứng minh, sử dụng lí lẽ,
căn cứ xác đáng và có thái độ bàn luận nghiêm túc, thiện chí ( Thông điệp về
10


tình cảm, thái độ của con người đối với quê hương trong những khó khăn, thử
thách; Thông điệp về thái độ, hành vi ứng xử khác nhau của con người trong
cùng một hoàn cảnh (khi thuận lợi, gặp thời thì chen chân xu nịnh, khi gặp khó
khăn trở ngại thì thờ ơ, bỏ cuộc, né tránh, mưu lợi cá nhân…), thông điệp về lối
sống không phô trương, ồn ào, khi gặp khó khăn không nản lòng, chấp nhận đối
diện vượt qua thử thách, sống tình nghĩa, thủy chung, giàu trách nhiệm…). Nếu
học sinh không xác định được một thông điệp mà nêu ra các ý nghĩa, bài học
chung chung thì bài viết sẽ bị loãng, không đúng trọng tâm và tất nhiên kết quả
không cao.

Ví dụ 2: Đề bài: Con lật đật.
Với đề nghị luận xã hội chỉ gồm một câu, một hình ảnh sẽ rất khó để học
sinh xác định đúng hướng đi, làm thế nào để trình bày vấn đề không quá hẹp
cũng không quá rộng nên cần xác định trọng tâm: Tinh thần lạc quan, dũng cảm,
không lùi bước trước khó khăn; cho dù vấp ngã vẫn dũng cảm tiến lên phía
trước…
Ví dụ 3: Đề bài:
Ngạn ngữ có câu: “Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá
nhiều”. Nhà văn Nga M.Pris-vin lại cho rằng: “Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải
thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại”.
Suy nghĩ của anh(chị) về những quan điểm trên[2]
Dạng đề này nêu ra hai ý kiến có vẻ trái ngược nhau song đều là những lời
khuyên bổ ích, giúp con người có cách định hướng, lựa chọn hướng đi đúng đắn
cho cuộc sống. Vậy vấn đề đặt ra là không nên cực đoan theo một ý kiến, một
hướng đi mà cần có sự linh hoạt, mềm dẻo khi giải quyết vấn đề. Bài học rút ra
là: Phải có những hành động tích cực, những nỗ lực không ngừng để biến ước
mơ thành hiện thực, để đi tới thành công; lòng tự tin là rất cần thiết nhưng cũng
rất cần sự đánh giá đúng về năng lực bản thân, tránh việc chạy theo những ước
mơ viển vông, xa rời thực tế.
Qua ba ví dụ trên có thể thấy dạng đề nghị luận xã hội rất phong phú, nên
việc nhận diện, phát hiện đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, là bậc thang
đầu tiên để đi đến thành công.
b. Đề nghị luận văn học
Phần nghị luận văn học dành cho học sinh giỏi có cấu trúc điểm 12/20,
một số điểm cao. Yêu cầu của đề thường gồm 2 phần: phần lí luận trình bày hiểu
biết, sự kiến giải về một nhận định, ý kiến; phần vận dụng, chứng minh tác
phẩm văn học cụ thể bám sát vào nhận định, lí luận.
Đối với học sinh lớp 10, 11, kiến thức lí luận còn hạn chế nên việc xác
định đúng vấn đề lí luận không phải dễ dàng. Nếu xác định sai vấn đề lí luận bài
viết sẽ lệch hướng hoàn toàn. Vì vậy người giáo viên cần dạy kĩ các kiến thức lí

luận cơ bản, cần thiết (phong cách nghệ thuật, trào lưu văn học, tiếp nhận văn
học, các chức năng của văn học, nội dung và hình thức của văn bản văn học,
ngôn ngữ nghệ thuật, giá trị nghệ thuật… ) rồi tung ra các dạng đề để học sinh
làm quen, nhận diện, tránh việc các em lúng túng dẫn đến hướng đi sai khi làm
bài.
11


Ví dụ:
Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái
đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho
người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam).
Anh(chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Phân tích nhân vật viên quản ngục
trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân để thấy sự “phát hiện” cũng
như “bài học trông nhìn” mà tác giả đã gửi gắm[2]
Với đề bài này cần làm rõ trọng tâm vấn đề: sứ mệnh, trách nhiệm cao cả
của nhà văn là phải phát hiện được những cái đẹp khuất lấp để đem lại những
nhận thức mới mẻ cho người đọc. Đó cũng là thiên chức của người nghệ sĩ. Từ
đó bàn luận về ý kiến, chứng minh qua nhân vật viên quản ngục.
Đề bài 2: Người Trung Quốc xưa cho rằng: “Thơ hay như người con gái
đẹp, cái để làm quen là nhan sắc nhưng cái để sống với nhau lâu dài là đức hạnh;
chữ nghĩa là nhan sắc của thơ, tấm lòng mới là đức hạnh của thơ”[3]
Anh(chị) hiểu lời nhận định trên như thế nào? Hãy làm rõ vẻ đẹp của một
bài thơ hay đã được học trong chương trình Ngữ văn 11.
Cần làm rõ ý kiến: Từ việc giải thích các từ chìa khóa: “nhan sắc”: hình
thức (cái bên ngoài, phần xác), “đức hạnh”: nội dung (cái bên trong, phần hồn –
đời sống tình cảm), “chữ nghĩa”: ngôn ngữ, “tấm lòng”: tư tưởng tình cảm làm
rõ nội dung nhận định: Người Trung Quốc xưa đưa ra một quan niệm về phẩm
chất của thơ hay: Thơ hay là thơ có ngôn ngữ đẹp, hấp dẫn, có nội dung cảm xúc
phong phú, lắng đọng, sâu sắc, nhấn mạnh yếu tố nội dung, cảm xúc của thơ là

yếu tố lâu bền, tiêu chí quan trọng đánh giá giá trị của thơ.
Nhận định này nói đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ với cảm xúc thơ là
một chỉnh thể nghệ thuật có quan hệ mật thiết hữu cơ như phần hồn và phần xác
của cơ thể con người. Thơ hay là thơ có sự hài hòa giữa nội dung và hình thức.
Sau khi xác định được vấn đề tập trung chứng minh bằng một tác phẩm
văn học cụ thể.
3.4.2. Rèn luyện kĩ năng mở bài và kết bài
Viết mở bài và kết bài có vẻ như là điều dễ dàng, ai cũng làm được nhưng
thực tế để có mở bài hay, ấn tượng, mang dấu ấn độc đáo của cá nhân cũng cần
sự rèn luyện. Có thể gợi ý cho học trò tham khảo các mở bài – kết bài trong của
học sinh đạt giải quốc gia, hướng dẫn sử dụng các ý kiến, nhận định có liên quan
đến vấn đề nghị luận để viết cho phù hợp. Tất nhiên, trước khi viết cần hướng
dẫn các em định hình vấn đề, nuôi dưỡng cảm xúc để viết cho đúng, cho hay.
Chúng tôi dẫn ra đây một mở bài, kết bài của học trò sau quá trình rèn
luyện:
- Mở bài:
“Đã từ lâu, rất lâu tôi luôn tâm niệm câu nói của một nhà văn nước ngoài:
“Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa
nhận cái chết” (X. Sê-đrin). Văn chương trường tồn cùng thời gian bởi nó là
tiếng lòng, tâm tư của con người, là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua
lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Chính vì vậy nhà phê bình văn học người
Nga Biêlinxki từng viết: “Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó không phải là tiếng
12


thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hay
trả lời những câu hỏi đó”. Truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao có chỗ
đứng vững chắc trong lòng độc giả bởi đó là tác phẩm như thế!
- Kết bài:
“Năm tháng qua đi, bốn mùa luôn luân chuyển nhưng “Chí Phèo” của

Nam Cao vẫn luôn là một đỉnh cao văn học được bạn đọc quan tâm và đón nhận,
vẫn mãi là bông hoa tỏa ngát hương thơm trong làng văn Việt Nam. Trái tim tôi
vang những nhịp đập thổn thức trước nỗi đau và khát khao sống của nhân vật,
còn bạn, bạn rung động bởi điều gì, đâu là lí do khiến bạn trăn trở, suy tư?”
3.4.3. Rèn luyện kĩ năng lập dàn ý
Lập dàn ý là khâu quan trọng để bài viết có một hệ thống ý mạch lạc, rõ
ràng, logic, tránh việc bỏ sót ý, lặp ý. Một bài văn muốn mạch lạc, logic thì phải
xác định được các luận điểm, từ đó triển khai thành các đoạn văn. Trường hợp
không xác định được luận điểm bài viết sẽ mơ màng, lan man, không điểm đầu,
không điểm cuối, thể hiện khả năng tư duy, phân tích vấn đề thiếu khoa học.
Tất nhiên không cần thiết phải lập các dàn ý chi tiết mà chủ yếu rèn cho
học sinh khả năng xác định luận điểm, nhiều khi chỉ cần sử dụng các gạch đầu
dòng để vạch ý.
a) Đề nghị luận xã hội
a.1. Có nhiều kiểu đề nghị luận xã hội nhưng các bước tiến hành về cơ
bản có nhiều điểm chung gặp gỡ nhau, cụ thể:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Bàn luận, mở rộng vấn đè.
- Chứng minh bằng dẫn chứng (phải có tính phổ quát, thuyết phục).
- Phê phán, bác bỏ những hiện tượng đi ngược lại chân lý.
- Liên hệ bản thân (phần này cần khéo léo, sáng tạo nếu không sẽ khiên
cưỡng, đi theo lối mòn cũ).
- Bài học nhận thức và hành động.
a.2. Với mỗi dạng đề khác nhau lại yêu cầu hướng tiếp cận, xử lý khác
nhau:
- Dạng đề từ một câu chuyện yêu cầu tìm ra bài học sâu sắc. Với kiểu đề
này cần giới thiệu câu chuyện theo định hướng bài học sẽ bàn luận, tóm tắt ngắn
gọn câu chuyện rồi bàn luận, chứng minh.
- Dạng đề nêu ra hai ý kiến rồi yêu cầu lí giải: Giải thích ý nghĩa từng ý
kiến (từ chìa khóa, vế câu (nếu có), ý nghĩa cả câu); nhận định xem hai ý kiến

đối lập hay bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa, từ đó có hướng bàn luận, chứng
minh, mở rộng vấn đề phù hợp.
- Dạng đề từ một bài thơ, đoạn thơ, ý thơ yêu cầu rút ra thông điệp ý
nghĩa: Dạng đề này đòi hỏi khả năng phát hiện vấn đề một cách nhạy bén, cần cả
khả năng cảm thụ.
- Dạng đề từ một ý kiến, nhận định (thường là chân lý) trình bày thông
điệp, bài học ý nghĩa rút ra được: Cần bám sát vào nội dung ý kiến để có hướng
bàn luận, kiến giải phù hợp.
b) Đề nghị luận văn học
13


Từ thực tế giảng dạy, ôn luyện cho học sinh, chúng tôi thấy khi học sinh
không xác định được luận điểm, không biết lập dàn ý thường bài viết sẽ rất lan
man, mơ màng, khi chấm bài đôi khi có cảm giác rối rắm như “lạc vào mê
cung”. Và trao đổi lại với học trò chính các e cũng thừa nhận mình rất lúng túng
khi viết nhưng không biết cách chia nhỏ vấn đề, và cũng không hài lòng với bài
viết của mình. Vì thế, trước khi yêu cầu học sinh viết bài văn hoàn chỉnh, chúng
tôi dành thời gian hướng dẫn các em vận dụng kiến thức, bám sát đề để lập dàn
ý cho bài văn. Thực tế cho thấy sau khi kĩ năng này được rèn luyện thuần thục,
bài viết trở nên rõ ràng, mạch lạc, tư duy “sáng” hơn, thuyết phục và thu hút
được người đọc.
Với đề nghị luận văn học cho đối tượng học sinh giỏi cũng có nhiều dạng
đề, nhưng những năm gần đây thường là dạng nêu một ý kiến, nhận định liên
quan đến kiến thức lí luận văn học rồi yêu cầu chứng minh ý kiến bằng một hoặc
hai tác phẩm văn học cụ thể. Nhìn chung dàn ý gồm các bước sau đây:
- Giải thích ý kiến (chú ý cắt nghĩa những từ trọng tâm làm nổi bật vấn
đề)
- Bàn luận về ý kiến, nhận định (phần này yêu cầu kiến thức lí luận vững
chắc để làm rõ, mở rộng, đi sâu các mặt ý kiến, nhận định).

- Chứng minh ý kiến, nhận định bằng tác phẩm văn học cụ thể:
+ Một tác phẩm: nếu đề bài yêu cầu chứng minh bằng một tác phẩm thì
cần đi sâu vào các góc cạnh của vấn đề để có những kiến giải, bàn luận phù hợp.
+ Hai tác phẩm: nếu đề yêu cầu chứng minh bằng hai tác phẩm thì cần
làm rõ từng vấn đề trọng tâm theo yêu cầu đề bài trong từng tác phẩm một, sau
đó so sánh điểm tương đồng và khác biệt để rút ra kết luận.
- Bình luận, đánh giá ý kiến: Sau khi chứng minh, cần quay trở lại ý kiến,
nhận định ban đầu để có những đánh giá khái quát, tổng hợp vấn đề.
3.4.4. Rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn và liên kết đoạn
Viết đoạn văn nghe qua thì có vẻ dễ dàng nhưng thực tế để viết được một
đoạn văn tập trung làm rõ một chủ đề, và có sự liên kết với các đoạn văn đứng
trước và sau nó để tạo thành một chỉnh thể cần có sự rèn luyện. Thực tế ôn luyện
cho học trò chúng tôi thấy nhiều khi các em còn lúng túng khi liên kết đoạn văn,
nội dung từng đoạn còn có sự trùng lặp hoặc không rõ ràng. Chúng tôi hướng
dẫn các em từ các luận điểm triển khai thành các đoạn văn diễn dịch để hệ thống
ý mạch lạc. Và cần có sự mềm dẻo, linh hoạt khi liên kết các đoạn văn bằng các
câu, các từ chuyển đoạn.
3.4.5. Rèn luyện kĩ năng kiểm tra, thực hành
Đây là khâu cuối cùng nhưng rất quan trọng. Bởi tâm lí tự tin trong phòng
thi sẽ quyết định một phần kết quả bài viết. Quá trình ôn luyện phải cho học sinh
thực hành làm bài trong đúng thời gian 180 phút với nhiều dạng đề để các em
làm quen.
Khả năng phân bố thời gian khi làm bài cũng cần được rèn luyện bởi khi
luyện đề nhiều học sinh không co duỗi được thời gian, hết 180 phút mà chỉ hoàn
thành được 2/3 bài viết, hoặc nếu xong thì phần cuối cũng viết vội vàng, kết cho
nhanh vì hết thời gian khiến bài viết “nông”, tạo cảm giác “hụt hẫng” khi chấm.
14


3.5. Sửa bài, chấm bài cho học sinh

Chấm, sửa bài cho học sinh, đặc biệt là học sinh giỏi đòi hỏi trình độ
chuyên môn vững vàng của giáo viên. Phải sửa ý, câu, từ cho học trò một cách
kĩ lưỡng để các em thấy được chỗ sai và phải sửa cụ thể để không lặp lại hai lần
cùng một lỗi. Nhiều khi giáo viên phải dùng chính ngôn ngữ văn chương của
mình để thay vào những từ, câu, đoạn văn chưa được giúp các em nhận thức vấn
đề và học tập.
3.6. Quá trình nuôi dưỡng, truyền cảm hứng cho học trò
Đối với học sinh giỏi, sự yêu thích, niềm say mê khi đọc và học văn là
điều vô cùng ý nghĩa. Muốn vậy người giáo viên phải truyền cảm hứng cho học
trò, khiến học trò tin phục. Vậy phải làm gì để truyền cảm hứng? Trước tiên đòi
hỏi người dạy phải có trình độ, vững về chuyên môn, có đam mê và nhiệt huyết,
bởi chân lý đơn giản là anh có lửa thì mới truyền lửa cho người khác được. Khi
trò đã yêu thích, say mê học văn thì thầy chỉ cần nhen nhóm, định hướng còn
việc “cháy” và tỏa sáng thế nào hãy để cho trò tự bộc lộ.
Quá trình này cần luôn được củng cố, duy trì lâu dài, kịp thời tháo gỡ khó
khăn, thắc mắc cho học trò, nhưng cần nhớ thầy chỉ là người hỗ trợ, còn đi được
bao xa là do đôi chân của trò. Vì thế quá trình ôn luyện đòi hỏi người thầy phải
luôn sát sao, khích lệ, động viên kịp thời, và nhiều khi phải là người chạy tiếp
sức, nhưng chính yếu vẫn phải là sự nỗ lực của trò để đạt được thành quả cao.
Thực tế ôn luyện cho học sinh lớp 10 để đi thi 11 có nhiều trở ngại: trò
chưa đủ tự tin và kiến thức, khả năng lí luận còn rất hạn chế. Vì vậy cần dạy tỉ
mỉ, chi tiết, luôn phải đồng hành cùng trò trên con đường chinh phục tri thức,
tạo tâm thế thoải mái, rèn giũa sự tự tin và lòng quyết tâm cho học trò.
4. THỰC NGHIỆM CHỨNG MINH GIẢI PHÁP
Năm học 2017 – 2018 chúng tôi tiến hành ôn luyện cho đối tượng học sinh
lớp 10 và 11 để tham gia kì thi học sinh giỏi cấp Tỉnh. Vì học sinh lớp 11
đã được ôn luyện trước trong cả năm học lớp 10 nên chúng tôi vẫn dạy theo
cách truyền thống (bám sát đơn vị kiến thức của từng bài học rồi cho luyện
đề), còn học sinh lớp 10 học sau, học trong thời gian ngắn (học trong vòng
6 tháng) và nhận thức còn “non nớt” hơn nên tổ chức dạy riêng, đi sâu từng

phần như giải pháp đã nêu. Sau quá trình ôn luyện, khi đã đuổi kịp kiến
thức lớp 11 thì chọn lại đội tuyển, cho làm đề và điều bất ngờ là: nhóm lớp
10 vượt trội hơn, nhạy bén hơn học sinh 11 trong nhận diện đề, viết mở bài
kết bài độc đáo hơn, bài viết mạch lạc, rõ ý, khoa học, đi sâu vào trọng tâm
của đề.
Minh chứng rõ nhất là khi cùng tham gia kì thi học sinh giỏi cấp Tỉnh năm
học 2017 – 2018 vừa qua 2 học sinh lớp 11 được học trước cả năm trời nhưng
không đạt giải (Nguyễn Thị Huệ 11 điểm, Trương Công Việt 10 điểm). Còn học
sinh lớp 10 lại đạt giải Ba (Phạm Phương Ngân 13 điểm).
VÍ DỤ MINH HỌA:

15


4.1. Viết mở bài, kết bài:
Với dung lượng 20 trang sáng kiến kinh nghiệm không đủ để chúng tôi
nêu cụ thể kết quả từng phần sau rèn luyện của hai nhóm học sinh, chỉ xin dẫn ra
đây ví dụ nhỏ về việc viết mở bài, kết bài cho cùng một đề bài.
Đề bài: Bàn về thơ, nhà thơ Pháp Lamactin từng tâm sự: “Thế nào là thơ?
Đó không phải chỉ là một nghệ thuật, đó là sự giải thoát của lòng tôi”.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua bài thơ “Vội
vàng” của Xuân Diệu.
- Mở bài:
+ Học sinh lớp 11: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới,
nổi tiếng với bài thơ “Vội vàng”. “Vội vàng” của Xuân Diệu là một minh chứng
cho câu nói của Lamactin: “Thế nào là thơ? Đó không phải chỉ là một nghệ
thuật, đó là sự giải thoát của lòng tôi”.
+ Học sinh lớp 10: “Thơ ca – hai từ thật giản đơn mà chứa đựng bao điều
kì diệu. Thơ là “chỗ dừng chân của tâm hồn” hay nó là “ngọn lửa thần”(Dec –
gia – vin)? Có rất nhiều định nghĩa về thơ nhưng nguồn gốc của nó từ đâu mà

Xuân Diệu lại gọi nó “là tiếng gọi đàn”? Thơ là sự bắt nguồn của những tâm hồn
đồng điệu, đa cảm. Vì thế mà nhà thơ Pháp Lamactin đã tâm sự: “Thế nào là
thơ? Đó không phải chỉ là một nghệ thuật, đó là sự giải thoát của lòng tôi”. Lời
tâm sự ấy sao giống với lời tâm sự của Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” quá
vậy! Phải chăng “Vội vàng” cũng là một sự giải thoát nỗi lòng của Xuân Diệu?”
- Kết bài:
+ Học sinh lớp 11: “Bài thơ “Vội vàng” là minh chứng cho nhận định
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình” với những vồ vập, đắm say, ham hố, mãnh
liệt. Gấp trang sách lại, bài thơ vẫn để lại những dư âm trong lòng ngưởi đọc,
cho thấy sự tác động mạnh mẽ của thơ ca đối với con người và cuộc đời”.
+ Học sinh lớp 10: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, “là lối thoát của cảm
xúc” (T.S.Iliot). Thơ ca đẹp bởi những điều nó chứa đựng với bao điều kì diệu
và sâu sắc. Bạn có như tôi, đắm say trong những ngân vang diệu kỳ của thế giới
thi ca? “Vội vàng” của Xuân Diệu đánh thức trong tôi những rung cảm mãnh
liệt, để tôi thấy mỗi giọt sương ban mai thêm long lanh, và được sống là điều
tuyệt diệu nhất trên đời!”.
Rõ ràng khi học sinh được ôn luyện cụ thể, chi tiết theo các bước, được
cung cấp tài liệu tham khảo thì cách viết mềm mại và sâu sắc hơn.
4.2. Lập dàn ý:
Trong quá trình ôn luyện, học sinh 11 không được dạy chi tiết các kĩ năng
khi làm bài (từ việc lập dàn ý, xây dựng đoạn văn…) nên bài viết thường thiếu
khoa học, mạch lạc, lặp ý, sót ý. Còn học sinh lớp 10 được rèn kĩ quá trình này
nên không gặp lúng túng khi giải quyết vấn đề. Chúng tôi dẫn ra đây một dàn ý
được sử dụng để rèn kĩ năng cho học trò lớp 10:
Đề bài: “Là người không nên có cái tôi… Nhưng làm thơ thì không thể
không có cái tôi” (Tùy viên thi thoại – Viên Mai – Trung Quốc).
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận và làm sáng tỏ cái
tôi của Xuân Diệu trong “Vội vàng” và của Huy Cận trong “Tràng giang”.
16



Dàn ý:
a) Giải thích:
+ “Làm người không nên có cái tôi”: “cái tôi” có thể hiểu là ý thức cá
nhân, cũng như cá tính riêng của mỗi người. Trong cách nghĩ của người xưa là
hiện thân của một tư tưởng cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ bé, tầm thường.
+ “Làm thơ”: sáng tác văn chương, đặt ra yêu cầu bức thiết, sinh tử đối
với thơ ca là “không thể không có cái tôi”. Cái tôi trong thơ ca được hiểu là cái
tôi cảm xúc, cá tính sáng tạo của nhà thơ.
=> Viên Mai đặt ra yêu cầu quan trọng đối với nhà thơ là phải thể hiện cái
tôi cá nhân, phong cách riêng vào trong sáng tạo nghệ thuật của mình.
b) Bàn luận về ý kiến:
+ “Làm thơ không thể không có cái tôi”: điều này bắt nguồn từ đặc trưng
của thơ ca. Thơ là sự tự thể hiện mình một cách chân thực nhất. Nguyễn Đình
Thi từng nói: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn con
người”, thơ là “tiếng lòng của nhà thơ” (Diệp Tiếp). Nhà thơ tìm đến thơ để giãi
bày những cảm xúc dâng trào không nói ra không được. Thơ in đậm dấu ấn cá
nhân của người viết. Xúc cảm trong thơ là những trăn trở, tình cảm, suy nghĩ
của chính nhà thơ, nên “làm thơ không thể không có cái tôi” là vì vậy.
+ Do quy luật, bản chất của sáng tạo nghệ thuật là luôn sáng tạo, “khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao) đòi hỏi nhà
thơ phải có phong cách nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn.
c) Chứng minh ý kiến, nhận định:
Ý kiến của Viên Mai đã được kiểm nghiệm trong thực tế sáng tác thơ ca
của phong trào Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 với những cây bút tiêu
biểu và những thi phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi họ:
Xuân Diệu và bài “Vội vàng”:
- Cái tôi của Xuân Diệu:
+ Là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” với hồn thơ nồng nàn,
đắm say: “… ta đắm say cùng Xuân Diệu”, “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say

đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, khi vui cũng như khi buồn đều nồng
nàn tha thiết” (Hoài Thanh).
+ Lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, say mê, mãnh liệt với niềm
khát khao giao cảm với đời khiến thơ Xuân Diệu có một nguồn sống dào dạt
chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.
- “Vội vàng” tiêu biểu cho hồn thơ ấy của thi sĩ:
+ Ham muốn kì lạ, khác thường: cầm giữ mùa xuân.
+ Cảm nhận mùa xuân đẹp mới lạ, đầy sức sống, sức quyến rũ như một
nguời tình rạo rực, say mê, đắm đuối; niềm khát khao tận hưởng vẻ đẹp của mùa
xuân nơi trần thế tuyệt đẹp như hưởng thụ tình yêu (dẫn chứng).
+ Ở quan niệm thời đẹp nhất của con người là tuổi trẻ và điều đáng giá
nhất của tuổi trẻ là tình yêu (dẫn chứng).
+ Ở lòng ham sống đến ham hố, vồ vập, muốn hưởng thụ đến tuyệt đích,
vô biên mọi cái đẹp cái vui của cuộc sống này, giữa lúc tuổi trẻ, như trạng thái
yêu đương mỗi lúc một mãnh liệt (dẫn chứng).
17


Huy Cận và bài “Tràng giang”:
- Cái tôi Huy Cận: là cái tôi sầu buồn, ảo não bậc nhất của Thơ mới.
“Người đã gọi dậy cái hồn buồn Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy
nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này. Để rồi “ta ngẩn ngơ buồn trở về
hồn ta cùng Huy Cận” (Hoài Thanh).
- “Tràng giang” tiêu biểu cho hồn thơ ấy:
+ Nỗi buồn sầu vũ trụ trải dài, vươn rộng đến vô cùng vô tận của sóng
nước “Tràng giang”.
+ Nối niềm cô tịch trước không gian hoang vắng, hun hút với ba chiều.
+ Niềm khát khao giao cảm với đời.
+ “Nỗi buồn thế hệ” của một thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam chưa tìm
thấy lối ra trước cảnh nước mất nhà tan.

+ Nỗi nhớ quê da diết.
- Đánh giá về hai tác giả:
+ Hai nhà thơ góp phần làm nên một thời đại rực rỡ chưa từng thấy trong
thi ca Việt Nam, cùng với “một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, trong sáng như
Huy Thông, mơ màng như Lưu Trọng Lư, kì dị như Chế Lan Viên, quê mùa như
Nguyễn Bính…”.
+ Mỗi nhà thơ là một tiếng thơ riêng độc đáo, với cái Tôi riêng, cá tính
riêng trong phong trào Thơ mới.
d) Đánh giá về ý kiến của Viên Mai: Ý kiến có ý nghĩa đúng đắn trong
mọi thời đại, bởi lẽ cái Tôi là dấu ấn cá nhân mỗi nhà thơ để lại trên con đường
sáng tạo nghệ thuật, không phải là “người lạ mặt quen biết”, không phải in lại
dấu chân trên lối đi cũ mòn. Khi đó, anh đích thực là thi sĩ.
Quá trình ôn luyện giúp chúng tôi rút ra kết luận: Khi tiến hành ôn kĩ từng
nội dung kiến thức, rèn kĩ từng kĩ năng sẽ giúp học sinh có kiến thức hệ
thống, biết vận dụng các vùng kiến thức khác nhau khi làm bài.

18


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Thực tế giảng dạy cho thấy năng khiếu văn chương “thiên bẩm” của học
trò là rất quan trọng, song không có một tài năng thiên bẩm nào tự nó đi đến
thành công. Vì vậy vai trò của người thầy là không thể thiếu. Hệ thống tri thức
trên con đường tiếp nhận văn chương và truyền cảm hứng là công việc không ai
có thể làm thay được người thầy. Tri thức và gợi mở của người thầy sẽ được cụ
thể hóa bằng những trang văn của học trò. Vì thế mỗi người giáo viên hãy lao
động và sáng tạo mỗi ngày để có thêm ngày càng nhiều học sinh giỏi văn.
Sau thời gian ôn luyện, bồi dưỡng và tham gia kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh
lớp 11 vừa qua, nhóm học sinh lớp 10 đạt kết quả cao hơn (trong đó học sinh

Phạm Phương Ngân đạt 13 điểm, giải Ba), lớp 11 không có giải. Chúng tôi thấy
áp dụng những kinh nghiệm ôn luyện như trên đã đem lại hiệu quả đáng khích
lệ, học trò “lên tay”, tiến bộ rõ rệt nên muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp,
đặc biệt khi ôn luyện cho đối tượng học sinh miền núi.
2. KIẾN NGHỊ
Học sinh giỏi là đối tượng học sinh đặc biệt, giàu cảm xúc, tình cảm, nên
nếu chương trình học có những buổi chuyên đề sâu về văn chương sẽ phát triển,
nhân rộng hơn tình yêu văn trong học trò.
Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi văn trong nhà trường còn hạn chế, nên
giáo viên khá vất vả trong việc tìm nguồn tài liệu cho học trò. Cơ sở vật chất
trường THPT Ngọc Lặc còn nhiều thiếu thốn, không có thư viện, phòng học
riêng cho học sinh giỏi nên phần nào bất tiện cho công tác ôn luyện. Chúng tôi
mong có sự quan tâm sát sao hơn của lãnh đạo cấp trên về cả vật chất và tinh
thần để thu được thành quả cao hơn trong những năm học tiếp theo.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Trịnh Thị Hương.

19


TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên THPT kỹ năng xây dựng ma trận, biên soạn câu
hỏi, bài tập đề kiểm tra, đề thi học sinh giỏi THPT năm học 2017 – 2018.

2. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên THPT, bộ đề thi học sinh giỏi THPT năm học
2017 – 2018 môn Ngữ văn (Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa, tài liệu lưu hành
nội bộ)
3. Tổng tập đề thi Olympic 30 tháng 4 Ngữ văn 11 (Nxb. Đại học quốc gia Hà
Nội, 2015).
4. Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh giỏi văn đạt giải, Gv Phạm Quang
Đức, trường THPT Phú Ngọc, Đồng Nai.
5. Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn THPT có hiệu quả, Gv Lê Văn Hồng,
trường THPT Tháp Mười, Đồng Tháp.
6. Một số kinh nghiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi Ngữ văn trung học phổ
thông, Gv Hoàng Thị Chiên trường THPT Triệu Sơn II, 2013.

20


PHỤ LỤC.
(Hai bài làm của học sinh Phạm Phương Ngân lớp 10A4
trong quá trình ôn luyện).
ĐỀ 1:
Câu 1(8 điểm):
“Con người sinh ra không phải để tan biến như một hạt cát vô danh. Họ
sinh ra để in dấu lại trên mặt đất và in dấu ấn trong trái tim người khác”
(Xu-khum-lin-ski)
Suy nghĩ của anh(chị) về câu nói trên.
Câu 2 (12 điểm):
Bàn về lao động nghệ thuật của nhà văn, Mac-xen Pruxt cho rằng: “Một
cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi
mắt mới”.
Anh(chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết về truyện ngắn
“Đời thừa” và Chí Phèo” của Nam Cao, hãy làm sáng tỏ quan niệm nghệ thuật

trên.
BÀI LÀM:
Câu 1:
Vào một buổi sáng mùa đông rét mướt, khi đang soạn lại đống vở cũ, tôi
chợt nhìn thấy mấy dòng thơ của Tagore:
“Ngày tử thần gõ cửa nhà anh
Anh sẽ có món chi làm tặng vật?
Trước vị khách đến thăm tôi sẽ tặng
Cái li tràn đầy của cuộc sống tôi dâng”
Khoảnh khắc của thời gian vào lúc ngày tàn nắng nhạt, cái âm thầm lặng
lẽ của những ngày đông chí mang đến cho tôi bao cảm xúc lạ kì về cuộc đời của
con người. Rồi có một ngày, “tử thần” sẽ đến, sẽ “gõ cửa” và đem chúng ta đến
một thế giới mới. Ta sẽ tan biến đi nhưng những gì ta cống hiến sẽ tiếp tục ở lại.
Thế đấy! Và câu nói của Xu-khum-lin-ski đã mang đến cho chúng ta bao điều
cần suy ngẫm: “Con người sinh ra không phải để tan biến như một hạt cát vô
danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất và in dấu ấn trong trái tim người
khác”.
Câu nói của Xu-khum-lin-ski ẩn chứa bao điều sâu sắc. “Hạt cát vô danh”
là một phần tử nhỏ bé trong một bãi cát rộng lớn, mênh mông. Nó không tên,
không tuổi, có thể có nhưng không được ai biết đến. Sinh mệnh của nó bình
thường như bao nhiêu hạt cát khác, cả đời nó chỉ nằm im hay khẽ reo lên khi
những làn gió thổi đến. Khi nó tan biến đi sẽ chẳng ai biết vì nó “vô danh”. Con
người sinh ra không phải như những hạt cát ấy – tầm thường và bé nhỏ. Chúng
ta được sinh ra để “in dấu ấn lại trên mặt đất” và “in dấu ấn lại trong trái tim
người khác”. Điều đó có nghĩa: khi ta ra đi vẫn còn một cái gì đó ở lại, đó là
những cống hiến, thành quả lao động, là tình yêu thương, sự san sẻ với mọi
người. Câu nói mang đến cho ta một bài học sâu sắc: Hãy sống một cuộc sống
21



có ý nghĩa, sống bằng sự nỗ lực hết mình, cho đi thật nhiều để đạt được thành
quả như mình mong muốn. Hơn nữa hãy mở rộng vòng tay, nhân rộng yêu
thương đến tất cả mọi người.
Ai cũng một lần được sinh ra rồi tan biến và cõi hư vô, vĩnh hằng. Nếu
muốn để lại một thứ gì đó thì trong cuộc sống đừng là một “hạt cát vô danh”.
Phải biết khẳng định mình, thể hiện cái tôi giữa bao người. Như khi nói đến
Xuân Diệu ta nghĩ ngay đến một “ông hoàng thơ tình”, nói đến Hàn Mặc Tử ta
nhớ đến những vần thơ Điên điên loạn, ma quái với hai hình tượng “hồn” và
“trăng”, hay như nói về Kim Lân người đọc thấy hiện ra những người nông dân
chân chất trong văn ông. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một lối đi riêng để rồi tìm
tòi, sáng tạo thể hiện một cái “tôi” cá thể, khác biệt.
Cuộc sống của mỗi người không được đo bằng thời gian, bằng năm tháng
mà bằng những gì họ đạt được. Khi đã đến cái dốc bên kia của đời mà bạn vẫn
chưa làm được gì thì chứng tỏ cuộc đời bạn hoàn toàn vô nghĩa. Hãy sống sao
cho thật ý nghĩa với cuộc đời và với chính bản thân bạn. Bạn có biết về anh
chàng Nich Vuijic không? Sinh ra không bình thường như bao bạn bè cùng trang
lứa, tất cả những gì Thượng đế ban cho anh là một thân hình với một bàn chân
và hai ngón chân. Và anh đã làm được gì? Chàng trai phi thường ấy có thể bơi
lội, đánh gofl, diễn thuyết, truyền cảm hứng đến mọi người và kết bạn với hơn
bốn mươi bảy nước trên thế giới. Con người ấy không “vô danh” mà đã tỏa sáng
diệu kì. Hay như Betthoven, ông đã cống hiến hết sức mình cho nền âm nhạc và
trở thành người soạn nhạc vĩ đại của toàn thế giới. Ông ra đi nhưng những thành
tựu của ông vẫn còn đó, cho hôm nay và cho mai sau.
Con người ta sinh ra là để “in dấu ấn lại trên mặt đất” với những cống
hiến hết mình của bản thân. Quãng đời tuổi trẻ chính là để chúng ta hiến dâng
thanh xuân, sức lao động, lòng nhiệt huyết của mình. Như lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí
Minh đã dành trọn một đời để đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta khỏi
ách nô lệ. Cả cuộc đời, Người bôn ba khắp năm châu, đấu tranh không ngừng
nghỉ để dân tộc Việt Nam có được ngày hôm nay.
Nhắc đến cái tên Bill Gates, người ta nghĩ ngay đến một tỷ phú nước Mỹ,

chủ tịch của tập đoàn Microsoft. Khi chỉ mới ở độ tuổi hai mươi, ông cùng
người bạn đã thành lập công ty Microsoft cho riêng mình. Thành công của Bill
hiện tại là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ, của niềm đam mê, khát
khao cháy bỏng.
Cuộc sống của bạn sẽ vô cùng ý nghĩa nếu bạn biết cho đi – cho đi tình
yêu, san sẻ với người khác. Bởi khi bạn cho đi bạn sẽ thấy lòng mình thanh thản
và người nhận ghi nhận tấm lòng bạn vào trái tim họ. Có những người làm thiện
nguyện cả đời, họ thực lòng chia sẻ với những người khốn khó hơn họ, bởi họ
hiểu tình thương là thứ tình cảm cốt yếu của con người. Giống như tu nữ
Thesera, công nương Diana… cả đời họ làm việc thiện, tình nguyện giúp đỡ
những mảnh đời thiếu thốn và họ nhận được chữ “thiện” trong tim và chữ “tâm”
trong trái tim mọi người.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong một bài hát của ông: “Sống trong
đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…”. Gió
22


sẽ cuốn đi ngọn lửa tình thương trong bạn và sưởi ấm trái tim của mọi người. Và
rồi từ đó, tình cảm chân thành của bạn sẽ “in dấu ấn lại trong trái tim người
khác”. Đó mới là một cuộc sống lý tưởng. Một cuộc sống giống của anh thanh
niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long, anh
sống âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình cho Tổ quốc mà không đòi hỏi đền
đáp. Anh cô đơn giữa chốn cỏ hoa, mây núi Sa Pa, trên đỉnh Yên Sơn cao hai
nghìn sáu trăm mét nhưng lại thấy “sống thật hạnh phúc”. Chính tấm lòng và sự
chân thật trong con người anh khiến ông họa sỹ già, bác lái xe, cô kỹ sư và tất cả
những ai đã tiếp xúc với anh đều cảm thấy thật sự mến phục.
Ai sinh ra rối cũng đến lúc phải giã từ cuộc sống, chấp nhận cái chết. Hãy
sống sao cho xứng đáng với cuộc đời, với những người yêu thương bạn. Hãy
cống hiến hết những gì mình có thể để mai này nhìn lại không phải nuối tiếc,
phải âm thầm ước “giá như…”, đúng như nhà thơ Tố Hữu từng nói:

“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
(Một khúc ca xuân).
Nếu không muốn làm một “hạt cát vô danh”, tầm thường giữa cuộc đời thì
ta phải trải qua cả một quá trình rèn luyện và phấn đấu hết sức mình. Tuy đó sẽ
là một con đường gian nan và vất vả nhưng chúng ta phải vượt qua bằng chính
lòng quyết tâm của bản thân mình. Giống như loài cây to lớn kia, rễ của nó tuy
đắng nhưng những bông hoa, những thứ quả của chúng lại thật ngọt ngào. Đúng
như câu hát trong “Đường đến vinh quang” của nhạc sĩ Trần Lập: “Chặng đường
nào trải bước trên hoa hồng, bàn chân cũng thấm đau vì những mũi gai”. Không
phải tự nhiên mà Marie Curie lại là người phụ nữ đầu tiên đạt được hai lần giải
Nobel. Bà đã nghiên cứu, thử nghiệm vô cùng tỉ mỉ, chặng đường của bà vô
cùng khó khăn nhưng bà đã nỗ lực vượt qua. Hay những cống hiến của Ac – si –
met, Hun, Pi - ta – go, Ơ – clit…đều phải bỏ ra công sức, mồ hôi và cả nước
mắt.
Tuy nhiên, trong cuộc sống sôi động ngoài kia tồn tại không ít những “hạt
cát vô danh” – một bộ phận giới trẻ hiện nay. Họ là những người trẻ chỉ biết
hưởng thụ, ngại khó ngại khổ để rồi cuối cùng sống một cuộc đời vô nghĩa. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng cần phê phán lối sống thờ ơ, vị kỉ đối với những người
xung quanh mình – lối sống vô cảm đang bén rễ trong đời sống xã hội hiện nay.
Thật đúng đắn khi Xu - khum - lin - ski khẳng định rằng: “Con người sinh
ra không phải để tan biến như một hạt cát vô danh”. Chúng ta phải biết mình là
ai để sau này thiết lập chỗ đứng vững chắc, cống hiến tuổi thanh xuân, sức lao
động góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Không những vậy, hãy biết
quan tâm đến mọi người, hãy “in dấu ấn lại trong trái tim người khác” bằng một
lối sống đẹp, ý nghĩa.
Câu nói của Xu – khum – lin – ski gợi mở cho tôi nhiều suy nghĩ, tôi đã
xác định được con đường đi chinh phục ước mơ. Còn bạn, bạn nghĩ sao?

Câu 2(12 điểm):
23


Có ai đó đã ví sáng tác nghệ thuật như việc thả diều, con diều dù có bay
bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Người có
bản lĩnh đưa cánh diều bay cao, bay xa trên bầu trời văn học là những nhà văn
tài năng. Những nghệ sĩ chân chính như những con ong cần mẫn hút thứ nhụy
tinh tế được chưng cất từ những nỗi đời. Song cuộc hành trình ấy không hề đơn
giản bởi “Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới
mà cần một đôi mắt mới” (Mac-xen Pruxt). Và Nam Cao đã chứng tỏ trình độ
nghệ thuật bậc thầy của mình qua tác phẩm hai tác phẩm “Đời thừa” và “Chí
Phèo”.
Có lẽ Mac-xen Pruxt đã đúng khi ông khẳng định: “Một cuộc thám hiểm
thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”.
“Cuộc thám hiểm thực sự” là quá trình tìm tòi, sáng tạo đích thực, quá trình lao
động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ và đầy bản lĩnh của nhà văn để tạo nên
những tác phẩm có giá trị. “Vùng đất mới” là những vấn đề nhân sinh mới mẻ,
những khía cạnh của đời thực chưa được khám phá. “Đôi mắt mới” là cái nhìn
mới mẻ, độc đáo của nhà văn về vấn đề, khía cạnh đã từng có người nhìn nhận.
Nhận định của Mac-xen Pruxt xứng đáng cho ta suy ngẫm: Trong quá trình lao
động sáng tạo thực sự của người nghệ sĩ điều cốt yếu không phải là tìm ra những
điều mới mẻ mà là “đôi mắt mới”, cách cảm thụ độc đáo giàu tính phát hiện về
con người và cuộc sống.
Để có thể tạo nên tác phẩm nghệ thuật đích thực, mỗi nhà văn phải có tài
năng, tâm huyết, bản lĩnh, phải lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ như
một cuộc thám hiểm thực sự. Nếu dấn thân vào “vùng đất mới” mà nhà văn đi
theo cách nhìn cũ mòn thì cũng không thể tạo nên tác phẩm có giá trị. Bên cạnh
đó, nếu nhà văn có “đôi mắt mới” lại khám phá được “vùng đất mới” thì sức
sáng tạo của tác giả càng được khẳng định và giá trị tác phẩm càng được nâng

lên một tầm cao mới. Bởi vậy trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ cần coi
trọng vai trò quyết định của “đôi mắt mới” nhưng không nên phủ nhận vai trò
của “vùng đất mới” trong sáng tác.
Một tác phẩm có giá trị không phải ở chỗ vấn đề đặt ra trong đó có mới
mẻ không, có khác lạ với mọi người không mà là cách người nghệ sĩ ấy suy nghĩ
như thế nào, nhìn nhận vấn đề ấy ra sao. Độc giả tìm đến sáng tác của nghệ sĩ để
tìm thấy sự đồng cảm và cảm nhận những tâm tư, nỗi niềm của họ, từ đó thấy
được giá trị của tác phẩm. Cùng một đề tài viết về người nông dân mà mỗi nhà
văn có cách khai thác khác nhau: Ngô Tất Tố khắc họa thực trạng cuộc sống
nghèo khổ của người nông dân với sự ngột ngạt của gánh nặng sưu thuế trong
tiểu thuyết “Tắt đèn”; Kim Lân thể hiện tình yêu làng, yêu quê hương, đất nước
qua truyện ngắn “Làng”; Nguyễn Công Hoan tập trung tái hiện tình cảnh bị chèn
ép, bị đẩy vào đường cùng, uất ức quá dẫn đến vùng lên đấu tranh tự phát…
Nhà văn sáng tạo ra thế giới nghệ thuật để thể hiện cái nhìn mới mẻ, độc
đáo không lẫn với ai, “không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì người nào
khác”. Đó là cái nhìn hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của
người nghệ sĩ, cái nhìn lấp lánh ánh sáng đời thực bởi “văn học thực chất là cuộc
24


×