Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quan điểm Hồ Chí Minh về động lực văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.37 KB, 14 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC VĂN HÓA VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
PRESIDENT HO CHI MINH’S POINT OF VIEW ON THE CULTURAL
DYNAMICS AND APPLICATION OF THE COMMUNIST PARTY OF
VIETNAM IN THE RENOVATION PERIOD
Lê Đức Thọ, Phạm Đức Thọ
(Tác giả: Lê Đức Thọ, Phạm Đức Thọ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tây Bắc,
ISSN 2354-1091. Số 15 (5/2019), tr.87-95. Năm 2019)

TÓM TẮT
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, toàn bộ di sản tư tưởng của
Người là một kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong đó tư tưởng của
Người về động lực văn hóa chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Những quan
điểm của Người là tiền đề, nền tảng để Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng vào
việc phát huy động lực văn hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước và hiện nay. Bài
viết góp phần nhận thức rõ hơn quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về động
lực văn hóa và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
phát triển đất nước từ 1986 đến nay.
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản Việt Nam; động lực văn
hóa.
ABSTRACT
President Ho Chi Minh is a great thinker, all his heritage is a cultural treasure
of the Vietnamese nation. Where his thought of cultural dynamics occupies a
very important position. His views are the premise, the basis for the Communist
Party of Vietnam applied to the promotion of cultural momentum in the
renovation period of the country and now. This article makes a clearer
understanding of President Ho Chi Minh's views on the cultural dynamics and
application of the Communist Party of Vietnam in the new era of national
1



development since 1986.
Keywords: Ho Chi Minh President; the Communist Party of Viet Nam;
cultural motivation.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí
quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của
Việt Nam, của Phương Đông và Phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của
dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác–Lênin với tinh hoa,
bản sắc văn hóa dân tộc. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đồng
thời, với sức sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá đã và đang
trở thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu các quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về động lực văn hóa và sự vận dụng trong
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là việc làm cần thiết.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về động lực văn hóa
Nhận thức được vai trò của văn hóa với tư cách là động lực đối với tiến trình
phát triển dân tộc, trong quá trình cách mạng, lĩnh vực văn hóa luôn được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm, phát huy thành một mặt trận đấu tranh cách mạng,
một lĩnh vực hoạt động hết sức quan trọng 1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về động lực văn hóa được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, theo Người, văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng
Văn hóa là kiến trúc thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội
cũ, xã hội thực dân phong kiến và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
1 Nguyễn Thị Ánh Đào (2017), “Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát huy động
lực văn hóa, khoa học, giáo dục trong thời kỳ đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay”, Tạp chí Giáo dục và xã
hội, 8(2017), tr.12.


2


nghĩa tốt đẹp là mục tiêu của văn hóa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và
thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một nước dốt
nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”2.
Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” 3, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh vai trò động lực của văn hóa. Theo Người: tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi
lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động
kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn
hóa.
Bác muốn đưa văn hóa vào cuộc sống của nhân dân như một động lực để sửa
đổi lối làm việc và những thói hư tật xấu trong xã hội như lười biếng, xa hoa,
gian xảo, tham ô, mê tín, dị đoan, tháng 11/1946, Người khẳng định: “Văn hóa
có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm cho văn hóa vào sâu trong tâm lý
quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù
hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại muốn lấy tự do, độc lập làm gốc. Đồng thời, văn
hóa phải làm cho người dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà
quên lợi ích riêng. Với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người Việt
Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng phải hiểu nhiệm vụ của mình
và biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên hưởng.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa là một mặt hợp thành toàn
bộ đời sống xã hội
Người nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý
đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”4. Vì thế,
văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược
lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi

với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia–Sự thật, Hà Nội, tr.493.
3 Hồ Chí Minh (1997), Về công tác văn hóa, văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.64.
4 Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.34.
3


kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy
hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được.
Ba là, Người khẳng định, văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn
hóa trước hết là văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc,
đó chính là bản sắc dân tộc của văn hóa. Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lấy
kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay trau dồi cho văn hóa Việt Nam
thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”5, “cần phải mở rộng kiến thức của mình về
văn hóa thế giới”6, “Phương Đông hay Phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta
phải học lấy”7; song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chước” 8, và
“đừng chịu vay mà không trả”, “cái gốc của văn hóa mới là dân tộc”.
Văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa
của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân
tộc của văn hóa.
Bốn là, văn hóa được huy động như một động lực thúc đẩy sự tiếp xúc và hiểu
biết lẫn nhau giữa các dân tộc
Thông qua các yếu tố và sức mạnh văn hóa, Người đã thúc đẩy dân tộc Việt
Nam mở mang đầu óc, từng bước hội nhập với thế giới bên ngoài, tức văn hóa
đã trở thành thước đo của sự phát triển dân tộc Việt Nam. Học tập văn hóa hiện
đại của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, kết hợp với văn hóa Việt
Nam tạo ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát triển văn hóa nhân loại.
Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực văn hóa là quan điểm khoa
học, hiện đại và mang tính thực tiễn cao, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế hiện nay.
Vì vậy, chúng ta cần đặc biệt chú trọng nâng cao tầm nhìn, tầm văn hóa trong
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tất cả các lĩnh vực khác
nhau.
5 Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, tr.350.
6 Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.517.
7 Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, tr.350.
8 Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.516.

4


2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về phát
huy động lực văn hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước
Tiếp thu những nhận thức quan trọng về vai trò của văn hóa trong kho tàng tri
thức nhân loại, lối sống đề cao văn hóa, đạo đức của dân tộc, Hồ Chí Minh đã
sớm khẳng định vị trí nền tảng tinh thần của văn hóa, là mục tiêu, là động lực
phát triển của đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xác định, văn hóa là nền tảng tinh thần quan trọng, là
sức mạnh nội sinh cần phải được phát huy trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đó
là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát huy vai trò
động lực của văn hóa ở nước ta hiện nay.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định mục đích của cuộc cách mạng là
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người gắn với xây dựng
một nền văn hóa của dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc làm hồi sinh các giá
trị văn hóa, thúc đẩy văn hóa dân tộc phát triển. Đó là văn hóa yêu nước, một
nền văn hóa tiến bộ và giàu giá trị nhân văn, văn hóa vì con người. Sự nghiệp
giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Bước đột phá trong quan điểm của Đảng về phát huy động lực văn hóa gắn
liền với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986). Đây là đại hội đánh dấu

mở đầu thời kỳ đổi mới, bởi vì, đổi mới theo quan điểm của Đảng ta là đổi mới
tư duy trên lĩnh vực kinh tế, chính trị; đồng thời, đổi mới trong tư duy về vai trò
của văn hóa với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội cũng khẳng định vị trí
quan trọng của văn hóa trong xây dựng nhân cách, xây dựng lối sống cho con
người. Yếu tố tinh thần của văn hóa một lần nữa được nhấn mạnh, hạt nhân của
văn hóa tinh thần chính là rèn luyện đạo đức cách mạng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và
đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là
mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ
5


nghĩa xã hội.
Đảng ta đã cụ thể hóa quan điểm trên bằng nhiều nghị quyết và chỉ thị mang
tính định hướng cho quá trình phát huy hơn nữa động lực văn hóa đối với sự
phát triển đất nước. Nghị quyết V của Bộ Chính trị khóa VI (1987), Đảng ta xác
định: “Văn hóa là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là
động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội”9.
Nghị quyết lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) về
tình hình văn hóa, văn nghệ hiện nay và nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ trong
những năm trước mắt. Về phương hướng và những quan điểm cần nắm vững,
Đảng ta xác định: “Văn hóa là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời là mục tiêu trong xây dựng xã hội mới” 10. Hội nghị đã xác định, văn
hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Xác định rõ vai trò
quan trọng ấy, hội nghị cũng đồng thời chỉ ra nhiệm vụ trung tâm của văn hóa,
văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức,

tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang
tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn
minh11. Nghị quyết cũng khẳng định, trong những năm trước mắt, các hoạt động
văn hoá, văn nghệ phải được phát triển lành mạnh, phong phú, đa dạng, đáp ứng
những nhu cầu thiết yếu về đời sống tinh thần của nhân dân; phấn đấu có nhiều
tác phẩm tốt về công cuộc đổi mới, phản ánh những hiện tượng, những nhân tố,
những xu hướng tích cực trong cuộc sống; lấy việc xây dựng và sáng tạo những
giá trị mới, việc bồi dưỡng, bảo vệ và phát huy mọi tài năng làm mục tiêu lớn
nhất. Mặt khác, kiên quyết phê phán những hiện tượng tiêu cực, những khuynh
9 Nguyễn Văn Linh (2001), Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Nxb. Chính trị
Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập, tập 52, Nxb. Chính trị Quốc gia-sự thật,
Hà Nội, tr.470.
11 Nguyễn Thị Ánh Đào (2017), “Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát huy động
lực văn hóa, khoa học, giáo dục trong thời kỳ đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay”, Tạp chí Giáo dục và xã
hội, 8(2017), tr.14.

6


hướng lệch lạc, đấu tranh chống mọi hành động và luận điệu thù địch với Tổ
quốc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội đang phá hoại thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Cùng với việc phấn đấu đạt được những mục tiêu nói trên,
cần tích cực chuẩn bị điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ nền văn hoá Việt
Nam vào cuối thập kỷ 90, bước vào thế kỷ XXI.
Tại Đại hội lần thứ VIII (1998), Đảng ta khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội vì thế chúng ta cần phải nỗ lực xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là điều kiện cho sự thực hiện lý tưởng cao đẹp của dân tộc ta là xây dựng
một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, con người được ấm no, hạnh phúc.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V khóa VIII (1998) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, … xây dựng và phát triển kinh
tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát
triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của phát
triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn bó chặt chẽ với đời sống và hoạt
động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương,
… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”12. Nghị quyết ra
đời trở thành văn bản mang tính pháp lý, việc thể chế hóa Nghị quyết tạo điều
kiện thuận lợi cho văn hóa phát triển sâu rộng, hiệu quả trên tất cả các mặt đời
sống xã hội, đóng góp vai trò nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước ổn định. Văn hóa trở thành nhân tố quyết định để nâng cao chất
lượng cuộc sống, để xây dựng đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Hay nói cách khác, văn hóa trở thành nhân tố không thể thiếu
trong mục tiêu phát triển đất nước bền vững, toàn diện.
Tại Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2004) Đảng ta đã kết luận: bảo đảm sự
12 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.
Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, tr.55.

7


gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng
là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội,
tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên là điều kiện quyết định cho sự
phát triển toàn diện và bền vững đất nước.
Trong Đại hội X của Đảng (2006), vai trò của văn hóa – nền tảng tinh thần
của xã hội trở thành một mục tiêu riêng, “độc lập” với giáo dục, đào tạo, khoa
học công nghệ. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vì văn hóa có chức

năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội mà vai trò cốt tủy là
hệ tư tưởng. Vai trò này của văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ
phát huy hiệu quả hơn nữa trong nhận thức cũng như trong hành động của các tổ
chức, cá nhân vì mục tiêu tiến bộ xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), nhận thức về vai
trò của văn hóa được đúc kết cô đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào các nội
dung cụ thể. Văn hóa góp phần củng cố và tiếp tục xây dựng mội trường văn hóa
lành mạnh, phong phú, đa dạng; tiếp tục định hướng việc xây dựng nếp sống văn
minh trong cưới, việc tang, lễ hội,…; cổ vũ việc triển khai cuộc vận động xây
dựng gia đình Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thể hệ trẻ.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (2014) đã kế thừa và phát huy
những tinh hoa lý luận về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà
nước khi chủ trương “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển
toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”13, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội. Như vậy cùng với các nguồn lực kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, quốc
phòng - an ninh,... nguồn lực văn hóa cũng đang ngày càng đóng vai trò quan
trọng, chi phối, ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến sự phát triển của đất nước.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn
phòng Trung ương Đảng, tr.46-47.

8


Đại hội XII của Đảng (2016) đã có sự phát triển, làm sâu sắc và nâng tầm
quan trọng động lực văn hóa trong phát triển, “Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự

phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”14.
Vì vậy, để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò động lực của văn hóa đối với
các mục tiêu của Đảng ta đề ra cũng như đối với sự phát triển đất nước, đòi hỏi
Đảng và Nhà nước phải kiên trì chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa
theo triết lý phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để thực hiện được nhiệm vụ
trên, Đảng phải không ngừng nâng cao văn hóa lãnh đạo, phải rèn luyện trí tuệ,
bản lĩnh, phẩm chất đạo đức của mình.
2.3. Ý nghĩa quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực văn hóa trong giai
đoạn hiện nay
Hồ Chí Minh coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp
phát triển, bởi vì nó mang tính nhân văn, hướng tới những giá trị tốt đẹp của
con người trong hành trình vươn tới chân, thiện, mỹ. Văn hóa đồng nghĩa
với cái tốt, cái đẹp; mọi giá trị ngược hoặc trái với nó là những giá trị phản
văn hóa. Hồ Chí Minh coi trọng chân, thiện, mỹ và khích lệ mọi người vươn
tới chúng, khuyên con người đấu tranh loại bỏ những điều phản văn hóa.
Mỗi người có thể quan niệm vai trò, chức năng của văn hóa khác nhau
nhưng cách quan niệm của Hồ Chí Minh là đi thẳng vào cái bản chất nhất
của văn hóa là chủ nghĩa nhân văn. Cốt lõi của nhân văn là thái độ đối với
con người. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội
Việt Nam, bởi vì nó luôn luôn hướng tới giải phóng con người, đó là mục
tiêu cuối cùng trong sự nghiệp ba giải phóng của Hồ Chí Minh: giải phóng
dân tộc; giải phóng xã hội - giai cấp; giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh lấy con người làm trung tâm, mọi công việc nhằm
đi đến giải phóng con người, do vậy, đều là công việc của văn hóa. Hồ Chí
14 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia-sự
thật, Hà Nội, tr.126.

9



Minh là con người văn hóa trong hành động. Chính điều này càng làm đậm
thêm, ngời sáng thêm những quan điểm về văn hóa của Người. Những quan
điểm về văn hóa của Hồ Chí Minh là những quan điểm có giá trị dẫn đường.
Vấn đề là vận dụng và phát triển những quan điểm đó vào trong cuộc sống.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa từ lâu đã trở thành kim chỉ nam của Đảng
trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày
nay, toàn cầu hóa không còn là hiện tượng mới mẽ; nó là một xu thế khách quan
mà mọi dân tộc, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của nó. Toàn cầu
hóa đang đưa lối sống Phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác động
tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn
có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu
trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại.
Trong xu thế đối thoại giữa các nền văn hóa trên thế giới hiện nay, tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa mãi mãi là ánh sáng soi đường cho dân tộc ta trong quá
trình xây dựng “nền tảng tinh thần của xã hội”. Trước những biến động của tình
hình thế giới và khu vực đang tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân
tộc, một mặt, chúng ta tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá tiên tiến, khoa
học, đại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư,
những sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài. Đặc biệt, để văn hoá tăng thêm
sức mạnh dân tộc, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì mỗi người dân chúng ta
cần phải giữ gìn nền văn hoá Việt Nam luôn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển, văn hóa không chỉ là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội mà còn là nguồn lực hợp thành sức mạnh tổng hợp
quốc gia, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh và chủ quyền quốc gia, chống lại mọi mưu toan áp đặt và lợi dụng
“sức mạnh mềm của văn hóa” từ bên ngoài để gây tổn hại đến lợi ích của đất
nước và dân tộc. Vì vậy, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp từ
ngàn đời của dân tộc, bổ sung và sáng tạo các giá trị văn hóa mới, xây dựng và
phát triển các nguồn lực nội sinh của văn hóa Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc,

10


sáng tạo các giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại, nâng cao tinh thần độc lập, tự
chủ trong giao lưu và hội nhập quốc tế là những vấn đề cấp thiết cần phải giải
quyết tốt trong thời gian tới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa Việt
Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung
đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền
văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa
nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp
với tinh thần dân chủ”15. Như vậy, ở nhà văn hóa Hồ Chí Minh có sự thống nhất
giữa lý luận, tư tưởng với hành động, thể hiện rõ trong cuộc sống hàng ngày của
một con người, một lãnh tụ. Chúng ta dễ dàng tìm được truyền thống dân tộc,
quê hương, nhưng cũng thấy cả những gì là mới mẻ, hiện đại trong nhà văn hóa
Hồ Chí Minh. Ở Người, những giá trị truyền thống gắn chặt với hiện đại và
hướng về tương lai. Ở Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh, hiện đại nhưng
không bị tan biến vào người khác; tiên tiến nhưng vẫn rất cốt cách Việt Nam.
Trong hơn 30 năm qua, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã giành được nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có nhiều thành tựu về phát triển
văn hóa. Văn hóa là sự kết tinh và phản ánh sinh động mọi mặt của cuộc sống, là
sự kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn hóa là linh hồn, là động lực sáng
tạo vô bờ của dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội. Tìm hiểu, xây dựng và
phát triển văn hóa có vai trò thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển của đất nước.
Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh sức mạnh kinh tế cần có sức
mạnh văn hóa.
Nhận thức rõ vai trò, vị trí của văn hóa, Đảng ta đã khẳng định: văn hóa là
nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
đồng thời, cũng đặt ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Thế giới ngày nay đang vận động rất nhanh, khoa học - kỹ
thuật phát triển rất mạnh mẽ, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế luôn đặt ra

những vấn đề mới, yêu cầu mới cho xây dựng văn hóa, tạo ra nhiều cơ hội
15 Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, tr.20.

11


nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức cho phát triển văn hóa. Cùng với
kinh tế phát triển, vị trí, vai trò của văn hóa ngày càng nổi trội hơn, đòi hỏi
chúng ta cần phải có cái nhìn sâu sắc, am tường về bản chất của văn hóa, vai trò
động lực của văn hóa, để từ đó xây dựng một mô hình phát triển hoàn chỉnh,
khắc phục những mô hình phát triển thiên lệch, chỉ chú trọng kinh tế, tuyệt đối
hóa kỹ thuật, phá vỡ sự cân bằng sinh thái và cạn kiệt tài nguyên. Tiến tới xây
dựng mô hình phát triển hài hòa và bền vững.
Nhất quán trong quan điểm của Đảng là xác định văn hóa như là động lực của
sự phát triển, nghĩa là sự phát triển đất nước không chỉ dựa vào nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên, vốn, … mà cần làm cho văn hóa thấm sâu vào trong các lĩnh
vực và hoạt động xã hội, trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát
triển. Văn hóa chỉ đạo, định hướng hoạt động sống của con người Việt Nam. Sức
mạnh văn hóa thông qua các giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân
tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, bao
gồm: Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng, sự tôn trọng tình
nghĩa, cần cù trong lao động, tinh tế trong ứng xử,… là động lực thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới và hội nhập.
Như vậy, có thể khẳng định, Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là Nhà
văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một
nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn là vì những đóng góp mới của Người vào
lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại. Thực tiễn chứng minh
rằng, những luận điểm đó không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà còn có ý nghĩa
quốc tế rất sâu sắc. Đánh giá cao tư tưởng và những đóng góp của Hồ Chí Minh,
Nghị quyết của UNESCO tôn vinh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc và

nhà văn hóa lớn có đoạn: Những tư tưởng của Người là hiện thân của những
khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hoá của mình và
tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong một
thời đại mà khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã đem đến những biến đổi cực kỳ
lớn lao cho cuộc sống của con người, trở thành động lực vô cùng quan trọng đối
12


với sự phát triển của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Nhưng cũng chính ở thời điểm
này, nhiều vấn đề tiêu cực và khủng hoảng về xã hội đã nảy sinh trong đời sống,
buộc chúng ta phải nhìn nhận lại yêu cầu phát triển bền vững với vai trò, vị trí
đặc biệt về văn hóa. Vì lẽ đó, trở lại với quan điểm văn hóa trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển đất nước là một vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược vừa
mang ý nghĩa thời sự quan trọng.
3. KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng thực tiễn lãnh đạo và tư duy của mình đã đưa ra
những quan điểm xác định rõ vai trò với tư cách là động lực của văn hóa. Những
quan điểm của Người có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp đổi
mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nó không chỉ là mục tiêu
phấn đấu vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống mà còn có vai trò nền
tảng và sức mạnh động lực hết sức to lớn trong phát triển các bình diện đời sống
xã hội. Văn hóa là động lực tinh thần, sức mạnh nội sinh cần được phát huy tối
đa trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Quán triệt tư tưởng của Người,
Đảng ta luôn quan tâm phát huy động lực văn hóa trong sự nghiệp đổi mới đất
nước.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập, tập
52, Nxb. Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Thị Ánh Đào (2017), “Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào phát huy động lực văn hóa, khoa học, giáo dục trong
thời kỳ đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội,
8(2017).
[6]. Nguyễn Văn Linh (2001), Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong
công cuộc đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội.
[7]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
[8]. Hồ Chí Minh (1997), Về công tác văn hóa, văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà
Nội.
[9]. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
[10]. Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà
Nội.



×