Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ ở bệnh nhân viêm não herpes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 103 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm não là bệnh có tổn thương não bộ trong quá trình nhiễm khuẩn.
Trong viêm não thường có tổn thương màng não nên dùng thuật ngữ viêm não
– màng não. Có nhiều nguyên nhân gây viêm não như: Virus, vi khuẩn, ký
sinh trùng, vi nấm, bệnh chuyển hóa. Trong các nguyên nhân gây viêm não
cấp tính, hay gặp nhất là do virus có ái tính với tổ chức não như các virus
viêm não Nhật Bản, virus Herpessimplex, bên cạnh đó một số loài virus gây
tổn thương ở các cơ quan khác song có thể gây viêm não, theo phân loại của
tổ chức Y Tế Thế giới như: Virus sởi, virus cúm, virus quai bị, virus thủy đậu,
virus đường ruột (Polisvirus) [4], [9], [19].
Viêm não do virus Herpes (HSE) là một bệnh nhiễm trùng hệ thần kinh
nguyên phát hoặc thứ phát, xảy ra quanh năm không thành dịch. Trên lâm
sàng thường có biểu hiện rối loạn thần kinh ở nhiều mức độ khác nhau. Virus
Herpes là loại virus gây viêm não hoại tử vì vậy bệnh cảnh lâm sàng thường
cấp tính, diễn biến nặng và có tỷ lệ tử vong cao, để lại di chứng nặng nề ảnh
hưởng tới cuộc sống của người bệnh [4], [9]. Theo một số tác giả tỷ lệ tử vong
do HSE có thể lên đến 70% [9], [31]. Việc chẩn đoán và điều trị còn nhiều
hạn chế nên tỷ lệ phát hiện bệnh thấp, có nhiều bệnh nhân bị bỏ sót. Tuy
nhiên đây là một bệnh có thuốc điều trị đặc hiệu [4], [9], [24].
Theo thông báo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (2007), virus
Herpes Simplex type 1 (HSV1) có mặt hầu hết ở khắp nơi trên trái đất, người
mang HSV1 tiềm ẩn là nguồn lây trong cộng đồng. Virus Herpes có 2 type, trong
đó type 1 là nguyên nhân của hơn 95% các trường hợp viêm não Herpes (HSE) và
type 2 thường gây viêm não ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ [4], [9 ], [24], [41].
Theo ước tính, trên thế giới có tới 90% người đã từng bị nhiễm HSV và hầu
hết đã nhiễm HSV trước 40 tuổi [6], [31]. Ở các nước phát triển HSV được
xác định là nguyên nhân gây viêm não phổ biến nhất, chiếm 10 – 20% các
trường hợp viêm não do virus và ước tính có khoảng 2,3 triệu người/năm [9],



2
[24], [31]. Vì vậy điều quan trọng nhất đối với HSE là việc phát hiện sớm và
điều trị đặc hiệu kịp thời sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong và di chứng cho
người bệnh [9], [24], [57].
Hiện nay viêm não Herpes đã được phát hiện sớm và điều trị đặc hiệu kịp
thời nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật sinh học phân tử, cũng như các tiến bộ
trong chẩn đoán hình ảnh – đặc biệt là kỹ thuật chụp cộng hưởng từ [25], [26],
[64]. Chính vì vậy chẩn đoán, điều trị và tiên lượng của HSE được thay đổi
hẳn [6], [11], [17].
Ở Việt Nam do còn tồn tại một số khó khăn trong tiến hành các xét nghiệm
virus học, nên nghiên cứu về lâm sàng, cận lâm sàng cũng như điều trị về
bệnh này còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu viêm não Herpes ở người lớn cũng
chưa được đề cập nhiều [6], [9], [31]. Việc chẩn đoán nhanh, chính xác và
điều trị đặc hiệu sẽ làm giảm mức độ tổn thương não cũng như cải thiện tình
trạng tử vong và di chứng do bệnh gây ra. Để tìm hiểu rõ hơn về viêm não
Herpes chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình
ảnh cộng hưởng từ ở bệnh nhân viêm não Herpes” với hai mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng viêm não Herpes
2. Nhận xét về hình ảnh cộng hưởng từ ở bệnh nhân viêm não Herpes.


3
Chương 1

TỔNG QUAN
Viêm não là một tình trạng viêm của nhu mô não, biểu hiện bằng sự rối
loạn chức năng thần kinh khu trú hoặc lan tỏa. Có nhiều nguyên nhân gây
viêm não như: Virus, vi khuẩn, ký sinh trùng, vi nấm, bệnh chuyển hóa. Trong
các các nguyên nhân gây viêm não cấp tính, hay gặp nhất là do các virus có ái

tính với tổ chức não như virus nhóm Arbo (virus viêm não Nhật Bản), virus
đường ruột (Polivirus) các virus Herpes (Herpes simplex virus, Varicella
Zoster virus) [4], [5], [9], [18].
1.1. Đại cương về virus Herpes Simplex (HSV).
1.1.1. Tóm lược lịch sử nghiên cứu HSV.
Từ “Herpes” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là “Herpein” có nghĩa là
“rón rén, di chuyển chậm chạp”, đã được Hippocrates dùng để mô tả tổn
thương xuất hiện trên da của một người dân Xume từ thời cổ đại.
Năm 1873 Jone Astruc, một bác sỹ của vua nước Pháp, đã mô tả tổn
thương dạng mụn rộp ở bộ phận sinh dục của một người làm nghề mại dâm.
Năm 1883 Dr PG Unna mô tả tổn thương trên da một bệnh nhân nghi
nhiễm HSV.
Năm 1896 Alfred Foumier báo cáo về chẩn đoán và điều trị Herpes sinh dục.
Năm 1919 các nhà khoa học thực sự xác nhận HSV truyền từ người sang
người qua vết thương hở trên da và tiếp xúc dịch tiết [4], [5].
Năm 1920 đến 1930 các nhà khoa học đã xác nhận HSV không những
gây bệnh ở da và niêm mạc mà còn gây bệnh ở hệ thần kinh trung ương.
Từ năm 1950 đến nay, các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu các phân type
của HSV, phương pháp điều trị và vaccine phòng bệnh.
Đầu những năm 1970, dựa trên kết quả các thử nghiệm lâm sàng,
Acyclovir đã được khuyến cáo sử dụng trong điều trị HSE.


4
Từ những năm 1980, sự phát triển của kỹ thuật sinh học phân tử: Kỹ
thuật khuếch đại chuỗi gen (PCR), mở ra cuộc cách mạng trong chẩn đoán
sớm HSV [9], [26].
Các virus thuộc nhóm Herpes có đặc điểm chung lây nhiễm một cách âm
thầm ở người, tiềm ẩn trong cơ thể người và sau đó phát triển thành các biểu
hiện của bệnh khi cơ thể bị suy giảm sức đề kháng. Virus Herpes bao gồm

nhiều nhóm gây bệnh cho người và các động vật khác. Tuy nhiên cho đến nay
chúng ta mới xác định được 8 type Herpes gây bệnh cho người chia thành 3
nhóm [20], [31].
Các virus Alpha - herpes: Virus Herpes simplex type 1 (HSV-1), Herpes
simplex type 2 (HSV-2), Virus Varicella-zoster (VZV).
HSV-1 gây bệnh ở miệng tạo thành các vết loét rất đau hoặc các mụn
rộp xung quanh miệng, HSV-1 gây viêm não phát tán.
HSV-2 thường gây bệnh ở cơ quan sinh dục.
Virus Varicella-zoster thường gây bệnh thủy đậu. Nổi mụn nước toàn
thân sau khi khỏi bệnh virus vẫn còn ẩn trong các hạch thần kinh, khi cơ thể
giảm sức đề kháng có thể gây viêm não tái phát.
Những thập kỷ cuối của thế kỉ XX, nhờ sự phát triển của kính hiển vi
điện tử, chúng ta đã quan sát được hình dạng của virus Herpes [15], [70].
Ngày nay, các nhà khoa học đang tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu thêm về
đặc điểm dịch tễ, sinh bệnh học, bệnh cảnh lâm sàng, chẩn đoán và điều trị
sớm bệnh do HSV, đặc biệt là viêm não do HSV, vì đây là bệnh nặng, để lại di
chứng nặng nề [9], [17], [27], [40].
1.1.2. Phân loại và cấu trúc phân tử của HSV.
Phân loại.
Theo hội nghị quốc tế về danh pháp virus (ICTV) năm 2002 tại New
York, virus HSV được xếp vào dòng họ Herpesvirida, nằm trong dòng phụ
alpha herspesvirinae, loại Human Herpes virus 1. Chủng type được đặt là:


5
“Human (α) Herpes virus type 1 (HSV1) hay Herpes simplex virus type 2
(HSV2), virus Varicella-Zoster (VZV)” [10], [15], [27], [30], [31].
HSV1 thường gây bệnh ở miệng tạo thành những vết loét hoặc các mụn
rộp, gây viêm não tản phát .
HSV2 thường gây bệnh ở cơ quan sinh dục, phụ nữ mang thai nhiễm

HSV đường sinh dục có thể truyền virus cho con lúc sinh, gây nên bệnh cảnh
viêm não sơ sinh nặng với tỷ lệ tử vong cao.
Virus Varicella-Zoster (VZV) gây bệnh thủy đậu, nổi mụn nước toàn
thân, sau khi khỏi bệnh virus còn ẩn trong các hạch thần kinh, khi giảm sức đề
kháng có thể gây viêm não sau thủy đậu.
Epstein-Barr virus(EBV) gây các bệnh: Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm
trùng,Burkitt lymphoma(u tế bào lympho B) và ung thư hầu họng.
Cytomegallovirus (CMV) có thể tồn tại trong máu và gây ra nhiều hình
thái lâm sàng ở các bệnh nhân suy giảm miễn dịch.

cấu trúc phân tử của HSV.
 Cấu trúc cơ bản của virus có hai thành phần:
Acid nucleic(AN): là AND hai sợi thẳng, capsid có đối
xứng hình khối bao gồm 162 capsomer. Có envelop{vỏ
ngoài), virus đã lấy từ màng nhân tế bào, có hình dạng cầu,
đường kính từ 120-200nm,.Lắp ráp trong nhân tế bào. Nhậy
cảm ether.Gây nhiễm ở người.
Thành phần Capsid: Là cấu trúc bao quanh acid nucleic.Bản chất hóa
học của capsid là protein.Capsid được tạo bởi nhiều đơn vị capsid bao gồm
các phân tử protein.Kích thước khoảng 125nm, đối xứng hình khối bao bọc
Nucleocapsid hình trụ, gồm 162 mặt.Có chức năng quan trọng :


6
Bao quanh AN của virus để bảo vệ khoongcho enzym nuclease và các
yếu tố phá hủy AN khác.
Protein capsid tham gia vào sự bám của virus vào các những vị trí đặc
hiệu của tế bào cảm thụ [30], [31].
Protein capsid mang tính kháng nguyên đặc hiệu.
Protein capsid giữ cho hình thái và kích thước của virus được ổn định

[30], [31].
 Cấu trúc riêng:
Lớp bao ngoài (Envelop): Là bên ngoài lớp capsid còn bao phủ một lớp
bao ngoài được gọi là envelop, bản chất hóa học của envelop là một phức hợp
:Protein ,lipid, carbohydrat ,nói chung là lipoprotein hoặc glycoprotein.Tham
gia vào sự bám virus trên các vị trí thích hợp của tế bào cảm thụ, tham gia vào
giai đoạn lắp ráp và giải phóng virus ra khỏi tế bào sau chu kỳ nhân
lên.Envelop tham gia vào hình thành tính ổn định kích thước và hình thái của
virus.Tạo lên kháng nguyên đặc hiệu trên bề mặt virus.Một số kháng nguyên
này có khả năng thay đổi cấu trúc [30], [31].
Enzym:Đó là những enzyme cấu trúc, chúng gắn với cấu trúc của hạt
virus hoàn chỉnh.

Hình 1.1.Cấu trúc phân tử của HSV


7
(Nguồn từ Marko Reschke “Herpes simplex encephalitis and other
neurological syndromes caused by HSVI”, Herpes simplex virus 19941997,New York).
1.1.3. Sự nhân lên của virus HSV.
Sự nhân lên trong tế bào: Hấp thụ vào bề mặt của tế bào cảm thụ nhờ
receptor của tế bào. Virion xâm nhập vào nguyên tương do sự hòa màng , sau
đó là sự cởi vỏ và phức hợp AND-protein di chuyển vào nhân tế bào .ADN
sao mã thành mARN trong nhân tế bào, còn protein tổng hợp ở nguyên
tương.Sự lắp ráp xảy ra trong nhân tế bào.Envelop được tạo thành do màng
nhân tế bào khi chui ra khỏi nhân [10], [15], [54].

Hình 1.2. Sơ đồ nhân lên của HSV.
(Nguồn


từ:

LawrenceR.Stanberry(2006)

“How

the

virus

cause

diseace”,Underestanding herpes , nd ed ;University press of Mississippi).
1.1.4. Thành phần hóa học HSV.


8
Ước lượng HSV chứa đựng Protein 70%, phospholipid 22%,
hydratcacbon 1,5%, AND 6,5% [30], [54].
Acid deoxyribonucleic (AND), dòng đúp khối lượng phân tử 85-110
x106d. Hai type miễn dịch của HSV mà sự khác biệt về tỷ trọng cân bằng là
1,726g/cm3, đối với HSV1 và 1,728g/cm3 đối với HSV2 [30], [54].
Protein: Đã tìm được 33 polipeptit cấu trúc của HSV mà ít nhất 8 trong
đó protein đã biến đổi và 5 tìm thấy trên vỏ HSV và trên màng những tế bào
bị nhiễm virus này. Cũng thấy có 8 glyco protein trong capsid của virus mà 6
đã photphoryl hóa [10], [30], [54].
Lipid: Gồm phospholipid và glycolipid, hầu hết bắt nguồn từ màng sinh
chất với chức năng chính là ổn định cấu trúc của virus.
1.1.5. Thành phần kháng nguyên HSV.
Ta đã lần lượt phân lập được những kháng nguyên của màng và của

capsid nhưng đồng thời cả kháng nguyên do tế bào bị nhiễm thải ra. Đã phân
lập được từ những tế bào bị nhiễm một protein có trọng lượng phân tử
131.000 kiến tạo ra kháng thể phản ứng với HSV1 và HSV2, cả hai đều trung
hòa nhẹ type huyết thanh này [30], [40], [54].
Có hai Glycoprotein: Một có trọng lượng phân tử 123.000 gọi là VP 123
đối với HSV1. Một có trọng lượng phân tử 119.000 gọi là VP119 đối với
HSV2, giúp chuẩn độ được những kháng thể chống HSV1 và chống HSV2.
Bằng một phản ứng X Quang miễn dịch [22], [30].
1.1.6. Dịch tễ học nhiễm HSV.
1.1.6.1. Cơ chế lây truyền.
HSV lây truyền trực tiếp qua da hay niêm mạc có tổn thương hở, hay
chế tiết ra HSV trong khi không có tổn thương mà mắt nhìn thấy. Có khoảng
1/3 người nhiễm virus tiềm tàng chế tiết ra virus mà không có giữa những lần
hồi quy lâm sàng và chính họ là nguồn lây quan trọng. Sự bài tiết HSV2 kéo


9
dài ở lần mắc bệnh lần đầu hơn là ở những lần hồi quy. Trong trường hợp tổn
thương hở, trên những đồ vật HSV truyền từ da người này sang da người khác
tạo ra “Herpes đồ vật”. Tiếp xúc da-niêm mạc hay niêm mạc-da, khi hôn tay
cũng lây truyền virus HSV mà không có triệu chứng gì, phụ nữ mại dâm là
nguồn lây quan trọng và ở họ kháng thể chống virus HSV cao đến 70%, chỉ
3% ở phụ nữ thường, còn ở nam giới đồng tính lây truyền từ người này sang
người khác qua tổn thương hậu môn [10], [15], [27], [40].
Lây truyền gián tiếp hiếm vì HSV có sức đề kháng yếu ở môi trường
ngoài. HSV sống được 4 tiếng trên đồ vật bằng plastic, 3 tiếng trên quần áo, 2
tiếng ở da [27], [30], [40].
1.1.6.2. Đặc tính dịch tễ học HSV.
Nghiên cứu địa dư cho thấy HSV hiện diện khắp trái đất. Thổ dân
nước Brazil có kháng thể chống HSV mà không có kháng thể chống những

bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan như cúm và đậu mùa. Mọi người đều tiếp nhận
HSV ngang nhau nhưng khác biệt về mức độ thường xuyên nhiễm virus tùy
thuộc vào điều kiện sinh sống của các dân tộc. Bệnh viêm màng não và viêm
não-màng não do HSV thường thấy tại châu Âu, Bắc Mỹ, Thái Bình Dương.
Có những khác biệt về Herpes tái hồi quy trên 24% ở Nhật [ 48 ], 30% ở Mỹ
nhiễm HSV ở mọi lứa tuổi.
1.2. Bệnh cảnh lâm sàng do nhiễm HSV.
Triệu chứng lâm sàng do HSV gây ra rất khác nhau tùy thuộc lứa tuổi
và tình trạng miễn dịch, nhiễm tiên phát hoặc tái phát, lọai virus. Một số bệnh
cảnh lâm sàng thường hay gặp là:
Biểu hiện lâm sàng của nhiễm tiên phát:
Herpes miệng: Đa số là do HSV1, nhiễm tiên phát hay xảy ra ở trẻ nhỏ,
sau khi hết kháng thể thụ động mẹ truyền, thường trẻ không có biểu hiện lâm
sàng, nếu có là triệu chứng của Herpes miệng lợi với những bọng nước, loét


10
nhanh và rất đau, trẻ bị hạn chế ăn uống, nổi hạch dưới hàm, sốt. Cơ chế phân
tử của tái hoạt động và sự khác biệt về tần số tái phát vẫn chưa được biết đến
nhưng những yếu tố thuận lợi của Herpes miệng tái phát là trạng thái tâm lý
sầu cảm, tiếp xúc nhiều với tia cực tím, mệt mỏi, căng thẳng, gần đến chu kỳ
kinh nguyệt [4], [8], [41], [47].
Herpes sinh dục: Đa số là do HSV2, nhiễm tiên phát thường xảy ra ở lứa
tuổi có hoạt động tình dục và chỉ một phần ba các trường hợp có triệu chứng.
Tổn thương là những vết loét lan rộng nhanh, hay gặp ở bao quy đầu hoặc âm
hộ, âm đạo, cổ tử cung, kèm theo sốt, nổi hạch bẹn, rối loạn tiểu tiện, bí đái, đôi
khi có dấu hiệu viêm màng não nước trong lành tính [11], [17], [48].
Herpes mắt: Thường là do HSV1, lâm sàng chủ yếu là gây viêm kết mạc
ở một hoặc hai mắt, có thể gây biến chứng sừng hóa như viêm bề mặt giác mạc
điển hình sợi thần kinh với vết loét đặc trưng hình lá cây dương xỉ [6].

Herpes sơ sinh: Cũng là dạng hiếm gặp nhưng lâm sàng nặng nề,
thường do HSV2, tỷ lệ mắc bệnh khoảng 5/100000 trẻ sơ sinh, đa số do mẹ
nhiễm herpes sinh dục, 90% trẻ bị nhiễm trong lúc sinh, chỉ 10% nhiễm trong
tử cung và trẻ có thể mắc herpes sinh dục thể nặng [34], [41]. Khác với người
lớn, ở trẻ sơ sinh không có nhiễm Herpes không có triệu chứng. Dạng nhẹ
(10-15%) với tổn thương là những chùm bọng nước nông ở da, khoang miệng
hay mắt, không lan rộng [33]. Ở thể nặng chiếm đa số và có hai thể: Nhiễm
Herpes lan tỏa mọi tổ chức gồm hoại tử gan có vàng da, xuất huyết giảm tiểu
cầu, xuất huyết niêm mạc, viêm phổi kèm theo tổn thương chức năng hô hấp,
giảm trương lực cơ và co giật. Nhiễm Herpes hệ thống thần kinh trung ương.
Tỷ lệ tử vong ở thể nặng khoảng 50%, trong số 50% trẻ sống sót thì di chứng
thần kinh và tâm thần rất nặng nề [5], [6], [10], [34], [49].
1.3. Biểu hiện lâm sàng HSE của nhiễm tiên phát hoặc thứ phát.
1.3.1. Đặc điểm dịch tễ học HSE.


11
HSE thường xảy ra tản mát quanh năm, không theo mùa, bệnh có thể
gặp ở mọi lứa tuổi tuy nhiên gặp nhiều hơn ở nhóm tuổi dưới 20 và trên 40.
Tỷ lệ mắc ở hai giới được xem là như nhau thường diễn tiến nặng, gây tử
vong hoặc để lại nhiều di chứng. Theo các kết quả nghiên cứu dịch tễ học ở
các nước phát triển, HSV được xác định là nguyên nhân gây viêm não phổ
biến nhất, chiếm tỷ lệ 10–20% số các bệnh nhân viêm não, và tỷ lệ ước tính
khoảng 2–4 triệu người mỗi năm. Tỷ lệ cụ thể ở các nước được báo cáo là:
Pháp 19% [41], [59], Phần Lan 11%, Nhật Bản 20% [62], [55], Hoa Kỳ 20%.
HSV1 là nguyên nhân của hơn 95% các trường hợp HSE. Còn lại HSV2
thường gây viêm não ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ [4], [13]. Hiện nay chưa có báo
cáo HSV lây từ người sang người, chùm ca bệnh HSE hiếm xảy ra và khi
phân tích một số chùm ca bệnh thấy các chủng virus khác nhau. Chưa thấy có
yếu tố nào chứng minh làm tăng nguy cơ HSE, tuy nhiên một số nghiên cứu

chỉ ra rằng sự thiếu hụt interferon và sự rối loạn miễn dịch dịch thể làm giảm
lượng IL–10 làm tăng nguy cơ tái phát HSE [31], [82].
Tại những nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ viêm màng não do herpes
khoảng 10% đến 20%. Virus gây nên bệnh cảnh viêm não hoại tử và xuất
huyết, điển hình là tổn thương vùng thái dương hoặc thái dương – trán một
bên não. Tiến triển tự nhiên của bệnh rất nặng, tỷ lệ tử vong hơn 70%, di
chứng thần kinh nặng nề nhưng nếu được điều trị bằng Acyclovir sớm thì
bệnh cảnh lâm sàng có thể hồi phục nhanh chóng [35], [56], [65].
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu bước đầu thì HSE chiếm khoảng 5–7%
trong số các các căn nguyên nhiễm trùng thần kinh trung ương và bệnh được
xác định xảy ra quanh năm, nhiều hơn vào các tháng mùa đông–xuân, gặp ở
trẻ nam cao hơn trẻ nữ, thường gặp ở trẻ trên 2 tuổi và thường do HSV1. Trẻ
sơ sinh có thể mắc bệnh viêm não cấp do HSV2 [4], [6], [41].
1.3.2. Sinh bệnh học của HSE.


12
Cơ chế bệnh sinh của HSE còn nhiều điểm chưa thật rõ ràng, tuy nhiên
có hai giả thiết sinh bệnh học là:
Cơ chế nhiễm trùng tiên phát. Người bệnh bị nhiễm HSV1 khởi đầu từ
họng mũi, rồi xâm nhập đến vùng hành khứu, đến thùy thái dương trong, thùy
trán và ổ mắt. Xét nghiệm máu lúc đầu không có kháng thể kháng HSV1 [3],
[9], [27], [54].
Cơ chế nhiễm trùng thứ phát sau tái hoạt hóa: Người bệnh nhiễm HSV1
rồi từ hầu họng lan đến hạch sinh ba, hạch cổ hoặc hạch cạnh sống và tiềm ẩn
ở đó. Sau đó virus tái hoạt hóa lan ra mặt gây herpes môi, lan lên hố sọ giữa
và trước gây HSE. Xét nghiệm lúc đầu có kháng thể kháng HSV1, tuy nhiên
chỉ gợi ý được 25% các trường hợp [4], [6], [10], [53].
Những biểu hiện của viêm não, thường tìm thấy những gợi ý cho thấy chủ yếu
là nhiễm trùng thứ phát sau tái hoạt hóa [10], [27], [54].

Ngoài hai giả thiết trên, một số nghiên cứu của các tác giả trên thế giới còn
đề cập đến sự thiếu hụt của một số yếu tố có ảnh hưởng đến miễn dịch cơ bản
của các bệnh nhân HSE. Theo nghiên của Zhang S.Y. cho thấy bệnh nhân
HSE hay gặp ở trẻ có sự rối loạn tổng hợp của một gen lặn nằm trên nhiễm
sắc thể thường của tế bào nội mô, nó sản xuất ra protein UNC–93B, gây nên
rối loạn miễn dịch tự nhiên. Một nghiên cứu khác của Zhang S.Y và Jouanguy
E nhận thấy sự thiếu hụt Toll–like receptor-3 ở hệ thống thần kinh trung ương,
chất này có tác dụng kiểm soát nhiễm HSV, làm cho HSV lan truyền từ tế bào
biểu mô tới thần kinh trung ương qua các dây thần kinh sọ não [56], [59],
[67].
Khi xâm nhập vào cơ thể dù có biểu hiện lâm sàng hay không sau đó
virus vẫn tồn tại trong cơ thể ở dạng tiềm tàng, người nhiễm virus sẽ mang
virus suốt đời. Hệ thống miễn dịch của vật chủ được kích thích sẽ hạn chế sự
nhân lên và lan truyền của virus. Virus có thể lẩn tránh hệ thống miễn dịch


13
bằng cách theo các dây thần kinh liên quan đến các hạch thần kinh (HSV1) ẩn
nấp ở hạch thần kinh sinh ba và hạch cạnh sống cổ, HSV2 ẩn nấp ở hạch cạnh
sống cùng. Khi gặp điều kiện thuận lợi virus sẽ nhân lên, lan truyền và gây
bệnh ở hệ thống da, niêm mạc hoặc ở hệ thống thần kinh trung ương. Với một
số virus như VZV và CMV thì tình trạng suy giảm miễn dịch đóng vai trò
quan trọng trong sự phát bệnh [15], [26]. Thông thường thì virus nhân lên bên
ngoài hệ thần kinh trung ương và đi vào hệ thống này theo các dây thần kinh
sọ não như dây khứu giác. Một khi đã vượt qua được hàng rào máu não, virus
xâm nhập tế bào thần kinh gây nên rối loạn chức năng tế bào, xung huyết
quanh mao mạch, xuất huyết và đáp ứng viêm lan tỏa ảnh hưởng đến chất
trắng và chất xám. Tuy nhiên chất xám bị ảnh hưởng nặng nề hơn, bệnh lý
não khu trú là hậu quả của tổn thương một vùng não mà virus có ái tính cao
với vùng này. Virus Herpes simplex thường ảnh hưởng đến thùy thái dương

và thùy trán[9], [17], [63], [75].
1.3.3. Đặc điểm lâm sàng HSE.
Triệu chứng lâm sàng của HSE có thể diễn biến cấp tính hoặc bán cấp với
biểu hiện:
a. Giai đoạn khởi phát.
- Nhức đầu, kích thích, kém linh hoạt, chán ăn hoặc rối loạn giấc ngủ,
liệt thần kinh khu trú.
- Buồn nôn, nôn.
- Có thể có các triệu chứng gợi ý tổn thương phần dưới – trong của thùy
trán – thái dương như: Ảo giác, mất khứu giác, thay đổi vị giác, động kinh
cục bộ, rối loạn hành vi, nhân cách hoặc kích động loạn thần, mất ngôn ngữ
[4], [9], [14], [35], [67].
- Có thể có các triệu chứng thần kinh khu trú như: Rối loạn ý thức, liệt
các dây thần kinh sọ não, liệt tứ chi hoặc nửa người, các dấu hiệu màng não,


14
các dấu hiệu tiểu não – tiền đình, các dấu hiệu thần kinh khu trú khác [9],
[18], [35].
- Ở trẻ em có thể kèm các triệu chứng rối loạn tiêu hóa, viêm long đường
hô hấp [4], [18], [34].
b. Giai đoạn toàn phát.
Sau giai đoạn khởi phát, các biểu hiện thần kinh sẽ nhanh chóng xuất hiện.
- Rối loạn ý thức như: Lú lẫn, hôn mê nhẹ, hôn mê trung bình hoặc hôn
mê sâu.
- Bệnh nhân thường bị mất trí nhớ và mất ngôn ngữ.
- Thường có cơn động kinh cục bộ, cơn động kinh toàn thể hoặc cục bộ
toàn thể hóa.
- Có thể có các dấu hiệu thần kinh thực thể khu trú khác: dấu hiệu não –
màng não (cổ cứng, kernig, vạch màng não), liệt các dây thần kinh sọ

não,liệt nửa người, dấu hiệu tiểu não – tiền đình, thay đổi phản xạ gân
xương, tăng hoặc giảm trương lực cơ [4], [9], [18], [36], [37].
- Có thể có khó thở, suy hô hấp do hôn mê, ứ đọng đờm dãi [5], [9], [37].
c. Tiến triển của bệnh.

- Nếu bệnh nhân không được chẩn đoán và điều trị đặc hiệu sớm, bệnh sẽ
tiến triển nặng lên tiến tới hôn mê sâu và có thể tử vong. Một số ít trường hợp
qua được nhưng thời gian hồi phục kéo dài và thường để lại di chứng thần
kinh nặng nề [5], [9], [33].
- Nếu được điều trị kịp thời thì bệnh nhân sẽ phục hồi dần lại trí nhớ và
chức năng thần kinh [6], [9], [67].
1.3.4. Đặc điểm hình ảnh cộng hường từ sọ não trong HSE.
Chụp cộng hưởng từ hay MRI là một kỹ thuật chẩn đoán y khoa tạo ra
hình ảnh giải phẫu của cơ thể nhờ sử dụng từ trường và sóng radio, nguyên lý
cộng hưởng từ hạt nhân được Felix Block và Edward Puroel phát hiện vào


15
năm 1946. Cộng hưởng từ được sử dụng rộng rãi từ năm 1950, năm 1952 hai
nhà vật lý Felix Block và Edward Puroel được trao giải Nobel vật lý nhờ sự
phát hiện và ứng dụng cộng hưởng từ, chiếc máy cộng hưởng từ đầu tiên trên
thế giới được đưa vào hoạt động để tạo ảnh cơ thể người. Năm 1987 cộng
hưởng từ được ứng dụng trong chẩn đoán bệnh lý tim mạch bằng kỹ thuật
cardiac MRI. Năm 1993 ứng dụng cộng hưởng từ để chẩn đoán các bệnh lý
não thần kinh. Ngày nay cộng hưởng từ đã trở thành phổ biến trong y học
chẩn đoán hình ảnh trên thế giới cũng như nền y học Việt Nam [17], [58],
[80]. So với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác, như chụp cắt lớp vi
tính (CLVT), chụp cộng hưởng từ (CHT) sọ não có một số đặc điểm ưu việt
được ghi nhận. Chụp CHT cho phép tạo ảnh theo nhiều mặt phẳng khác nhau
trong không gian, có độ nhạy cao nên rất có ích trong tìm kiếm dấu hiệu tổn

thương sớm. Trong chẩn đoán bệnh lý viêm não Herpessimplex cũng vậy,
nên thực hiện ngay khi có nghi ngờ HSE giúp phát hiện các tổn thương sớm
do HSV trong não, ở giai đoạn sớm trong viêm não Herpes sau khởi phát triệu
chứng 2 đến 4 ngày [17], [39]. Hình ảnh tổn thương trên phim CHT gợi ý
chẩn đoán: Giảm tín hiệu trên T1w, tăng tín hiệu T2w và T2 Flair vị trí ở thùy
thái dương, thùy trán. Có thể có kèm hình ảnh chảy máu, cộng hưởng từ còn
cho thấy một số tổn thương ở một số vùng não mà các phương pháp khác khó
thực hiện như: Hố sau (thân não, cầu não) [17], [58], [75].
Hình ảnh điển hình của tổn thương: Thùy thái dương, thùy trán, hệ
thống viền (hệ limbic), thùy đảo, hồi hải mã, bờ trán của thung lũng Sylvius,
tổn thương một hoặc hai bên không đối xứng [58], [75]. Các tổn thương
không tuân thủ vùng tưới máu động mạch não và như thế có thể phân biệt
được nhồi máu với chẩn đoán nhồi máu não tĩnh mạch/ huyết khối tĩnh mạch
não có thể khó hơn trong trường hợp nghi ngờ cho bệnh nhân chụp CHT nãomạch máu não, hiệu ứng khối choán chỗ thay đổi mức độ trung bình. Các dấu


16
hiệu viêm của màng não: Liềm đại não, lều tiểu não, thung lũng Sylvius,
màng não vùng vòm não [17], [28], [80].
Giai đoạn sớm ít thấy tăng tín hiệu cũng như xuất huyết trên xung T2 và
xung T2 Flair ở thùy trán, thùy thái dương, thùy đảo. Sau 1 – 2 tuần cho thấy
diễn tiến bệnh nặng tổn thương lan rộng vào thùy thái dương, thùy trán, thùy
đảo hai bên. Hậu quả của viêm não thường gặp là nhồi máu, teo não, vôi hóa
vùng não bị tổn thương [17], [28], [52], [86].
Ngoài ra có các biểu hiện của viêm màng não, liềm đại não, lều tiểu não,
cuống não.
T1 gadolium: có bắt thuốc đối quang từ nhưng chủ yếu ở chất xám.
 Tiêu chuẩn phân biệt giữa viêm não Herpes và nhồi máu não.
+ Tổn thương herpes không tuân theo khu vực tưới máu của động mạch não.
+ Diffusion giảm tín hiệu ít, tăng tín hiệu trên b1000, và giảm tín hiệu

vừa phải trên bản đồ ADC.
CHT bình thường trong khoảng 10% bệnh nhân có HSV–PCR (+), nhưng
số còn lại đều có tổn thương thùy thái dương (90%) [17], [25], [58].


17

a Xét nghiệm dịch não tủy.
Chọc dò dịch não tủy rất có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán, cần được
chỉ định sớm khi nghi ngờ hội chứng não cấp. Nên được thực hiện sau hình ảnh
học (chụp cắt lớp vi tính sọ não) để loại trừ khả năng phù não có thể gây thoát vị
tụt kẹt não [9], [24], [67], [65].
DNT thường có màu trong, áp lực bình thường hoặc tăng, tế bào bạch
cầu bình thường hoặc tăng từ vài chục đến vài trăm tế bào/mm 3 (thường từ 10
đến 200 BC/mm3, hiếm khi trên 500BC/mm3), đa số là lymphocyte. Trong
giai đoạn sớm có thể bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế. Có 3–5%
trường hợp DNT bình thường trong ngày đầu của bệnh, khi đó cần thực hiện
lần 2 để xác định chẩn đoán [9], [32], [76].
Có thể gặp hồng cầu, kèm theo tăng nồng độ billirubin trong DNT do
tiến triển xuất huyết của tổn thương não. Tuy nhiên ít có giá trị để chẩn đoán
phân biệt với các loại viêm não khác. Protein bình thường hoặc tăng (thường
từ 0,6 – 0,8 g/l, đặc biệt có trường hợp tăng tới 6g/l), đường và muối bình
thường. Đôi khi đường trong DNT giảm <40 mg%, dễ nhầm với viêm màng
não do lao và vi nấm [9], [26], [32].
a. Xác định trực tiếp HSV.

- Sinh thiết não: Trước những năm 90, sinh thiết não là tiêu chuẩn vàng
cho chẩn đoán vì độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao, lần lượt là 95 và 99%.
Tuy nhiên, hiện ít được sử dụng vì là kĩ thuật xâm nhập, bên cạnh đó có
sự phát triển của kĩ thuật PCR [9], [26], [32].

- Xác định sự có mặt của HSV trong DNT bằng kỹ thuật PCR: Hiện
được xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán HSE.Nhưng cũng có thể
âm tính nếu ở giai đoạn sớm(24-48h) hoặc quá muộn (10-14 ngày), sau


18
điều trị acyclovir. Theo Behzad-Behbahani A và cộng sự (2003), xét
nghiệm dịch não tủy trong 10 ngày đầu của bệnh PCR dương tính với
HSV là (100%), 11 -20 ngày PCR dương tính (18,7%), 21-40 ngày PCR
dương tính rất thấp.Vì vậy PCR âm tính cũng chưa loại trừ chẩn đoán
HSE [32]. Do đó cần tìm kháng thể đặc hiệu HSV trong dịch não tủy.
PCR dịch não tủy không có sự khác nhau giữa các nhóm viêm não do
HSV tiên phát hay thứ phát [26], [32].
PCR dịch não tủy dương tính với HSV không có liên quan đến mức độ
nặng ,nhẹ của các triệu chứng lâm sàng. Mức độ PCR dương tính giảm dần ở
cả bệnh nhân được điều trị và bệnh nhân không điều trị [26], [32].
HSV - PCR định lượng: Có ý nghĩa tiên lượng cho HSE, các nghiên cứu
chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong cao hơn ở nhóm có HSV-ADN lớn hơn 100
copies/mm3 trong dịch não tủy [26], [32], [64], [65].
b. Xác định kháng thể đặc hiệu HSV.
Đây là xét nghiệm cần làm ngay cùng lúc với kỹ thuật PCR.
Huyết thanh chẩn đoán xác định kháng thể đặc hiệu HSV (IgG ,IgM)
bằng phương pháp Elisa (kỹ thuật miễn dịch Enzym hấp thụ trên giá
gắn),Elisa là kỹ thuật được sử dụng phổ biến phát hiện kháng nguyên hoặc
kháng thể đặc hiệu. Kỹ thuật cho phép xác định kháng thể ở nồng độ thấp
(khoảng 0,1ng/ml). Nguyên lý của phương pháp này là kháng thể được đánh
dấu bằng cách gắn với Enzym. Có hai kỹ thuật Elisa được dùng nhiều là kỹ
thuật trực tiếp và kỹ thuật gián tiếp. Kỹ thuật gián tiếp dùng để xác định và đo
nồng độ kháng nguyên, còn Elisa trực tiếp được dùng để đo nồng độ kháng
thể. Thường sau khởi bệnh hơn một tuần mới định lượng được, do đó không

có ý nghĩa trong chẩn đoán sớm HSE mà chỉ có ý nghĩa chẩn đoán hồi cứu
hoặc trường hợp bệnh nhân đến giai đoạn muộn (giai đoạn toàn phát) hoặc
HSV-PCR âm tính [12], [32]. Chẩn đoán xác định khi IgM dương tính trong


19
dịch não tủy [4], [73], Hoặc tỷ số IgG dịch não tủy/tỷ số IgG huyết thanh lớn
hơn 20 hoặc hiệu giá kháng thể IgG đặc hiệu trong dịch não tủy tăng trên
hoặc bằng 3 lần sau 2 tuần và không có sự hiện diện của các kháng thể khác
[4], [32].
d. Xét nghiệm máu.
- Công thức máu: Số lượng bạch cầu tăng nhẹ hoặc bình thường.
- Điện giải đồ và đường huyết thường trong giới hạn bình thường.
- Xét nghiệm đánh giá đáp ứng viêm: Procalcitonin thường không tăng,
CPR thường tăng nhẹ, máu lắng bình thường.
1.3.5. Chẩn đoán HSE.
a. Chẩn đoán xác định.
Chẩn đoán xác định HSE dựa vào các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Lâm sàng.
- Có triệu chứng lâm sàng: Biểu hiện của tổn thương não nhiều vị trí biểu
hiện bằng sự phối hợp triệu chứng về thần kinh và tâm thần.
Cận lâm sàng.
- Đặc biệt là có PCR DNT dương tính với HSV.
- Hoặc huyết thanh chẩn đoán (+) HSV với hai loại kháng thể đặc hiệu:
 IgG (+) với Herpes.
 IgM (+) với Herpes.
- Có thể hỗ trợ chẩn đoán bằng hình ảnh CHT sọ não [9], [26], [32].
b. Chẩn đoán phân biệt.
Cần chẩn đoán phân biệt HSE với các viêm não do các virus khác, với các
căn nguyên gây viêm màng não nước trong và các tổn thương thần kinh trung

ương không nhiễm trùng khác.
- Các virus khác gây viêm não:


20
 Các virus nhóm Arbo: Viêm não Nhật Bản, viêm não ngựa miền
Đông, viêm não St.Louis, viêm La Crosse, viêm não Tây sông Nile.
 Các virus đường ruột (Poliovirus).
Viêm não do một số virus khác: Virus dại, sởi, quai bị, Dengue, HIV.
- Viêm màng não nước trong.
 Viêm màng lão do lao.
- Các tổn thương thần kinh trung ương do không nhiễm trùng : Co giật do
sốt cao, ngộ độc cấp, sốt rét thể não, chảy máu não – màng não, động kinh.
1.3.6. Điều trị HSE.
HSE là một bệnh nặng, có tỷ lệ tử vong và di chứng thần kinh cao. Theo
kết quả một số nghiên cứu, nếu không được điều trị đặc hiệu sớm thì tỷ lệ tử
vong do HSE có thể lên tới 70% và chỉ có 2,5% bệnh nhân sống phục hồi
được chức năng thần kinh [18], [24], [77]. Nếu được điều trị đặc hiệu sớm tỷ
lệ tử vong giảm xuống còn 19% và tỷ lệ phục hồi chức năng thần kinh lên tới
38%. Vì vậy, các Y văn khuyến cáo nên tiến hành điều trị đặc hiệu sớm bằng
Acyclovir ngay khi có biểu hiện nghi ngờ HSE [6], [48], [56], [66].
a. Điều trị đặc hiệu bằng Acyclovir.
- Acyclovir là một dẫn xuất guanosin không vòng có tác dụng kháng
HSV1, HSV2 và VZV. Thuốc đã được nghiên cứu và đưa vào sử dụng
từ những năm 1980 cho tới nay.
- Cơ chế tác dụng: Sau khi vào trong cơ thể để có hoạt tính, Acyclovir
cần phải được phosphoryl hóa 3 lần để hoàn thành hoạt chất có hoạt
tính. Acyclovir ức chế tổng hợp ADN của virus theo 2 cơ chế:
 Tranh chấp với Deoxyguanosin triphosphate (dGTP) nội sinh dùng
cho ADN polymerase của virus nên ức chế ADN polymerase của virus



21
 Gắn chặt vào ADN của virus như chất kết thúc chuỗi ADN.
- Liều dùng: Acyclovir truyền tĩnh mạch với liều 10mg/kg trong mỗi 8
giờ, điều trị trong thời gian 14 - 21 ngày. Trong những trường hợp bệnh
nặng, suy giảm miễn dịch, thời gian điều trị có thể dài hơn 21 ngày [6],
[9], [48], [65], [84].
- Lưu ý: Acyclovir có tác dụng độc với thận, do đó cần bù đủ dịch khi
truyền thuốc và không nên truyền quá nhanh dưới 1 giờ. Ở những bệnh
nhân suy thận, cần chỉnh liều theo mức lọc cầu thận [6], [9], [56], [66].
Trong trường hợp nghi ngờ HSE mà kết quả HSV-PCR DNT âm tính,
nhưng có huyết thanh chẩn đoán ( IgG và IgM) dương tính với HSV. Thì vẫn
tiếp tục dùng Acyclovir và làm lại PCR DNT lần 2 trong vòng 5 ngày. Việc
ngừng Acyclovir được xem xét khi HSV-PCR DNT lấy sau khởi bệnh ≥ 72
giờ âm tính và các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng không phù hợp [9],
[66], [77].
b. Điều trị hỗ trợ.
Theo « hướng dẫn chẩn đoán và xử trí bệnh viêm não cấp do virus ở
trẻ em » (Ban hành kèm theo quyết định số: 2322/QD-BYT ngày 30/6/2006
của bộ trưởng Bộ Y tế) [2].
1.3.7. Phòng bệnh HSE.
Mục tiêu của phòng bệnh HSE là khống chế nhiễm HSV.
a.Phòng bệnh không đặc hiệu.
- Nhân viên Y tế mà bị Herpes thể mặt hay Herpes ở kẽ móng tay cần phải
đeo khẩu trang và chuyển khỏi khoa chăm sóc trẻ sơ sinh để tránh nguy cơ nhiễm
Herpes sơ sinh vì găng tay trong trường hợp này có thể không có tác dụng.


22

- Đề phòng Herpes sinh dục, phương pháp có hiệu quả là những biện
pháp phòng các bệnh lây qua đường tình dục nói chung.
- Bất kỳ một tác nhân viêm não nào cũng đều có tính lây nhiễm, do đó
trẻ em nghi ngờ HSE cần được cách ly [23], [24], [61].
b. Phòng bệnh đặc hiệu.
- Mặc dù có được vaccine phòng bệnh là điều mong muốn của mọi quốc
gia tuy nhiên sản xuất vaccine Herpes vẫn đang dừng ở mức thử nghiệm và
phòng nhiễm Herpes vẫn là vấn đề khó khăn do virus có mặt rộng khắp ở mọi
nơi trên thế giới và bệnh vẫn tái phát cả khi có mặt kháng thể.
- Thế giới đã có nhiều nỗ lực trong nghiên cứu vaccine phòng Herpes.
Có hai loại vaccine được xem là có triển vọng hơn cả qua đánh giá lâm sàng
và khảo sát trên quy mô rộng lớn là: Sản xuất gB và gD tái tổ hợp đơn giản
hoặc kết hợp nhờ tổ chức vi sinh vật, cắt bỏ gen quy định độc lực nhằm sản
xuất HSV sống giảm tái tổ hợp, kết hợp giữa bộ gen của HSV1 và bộ gen của
HSV2 [ 23], [24], [61].
1.4.Tình hình nghiên cứu về HSE.
1.4.1. Tình hình nghiên cứu HSE trên thế giới.
HSV và bệnh cảnh do HSV gây ra đã được biết từ thời Hippocrates. Tuy
nhiên những hiểu biết về bệnh HSE còn nhiều hạn chế do những khó khăn
trong việc khẳng định chẩn đoán. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XIX nhờ
sự phát triển của kỹ thuật sinh học phân tử và kỹ thuật vi sinh, chúng ta đã có
thể chẩn đoán xác định được các trường hợp HSE. Do đó ngày càng có nhiều
các nghiên cứu về HSE trên thế giới được thực hiện là :
 Nghiên cứu của Wen Ben Hsieh và Nan Chang Chiu,Hu K.C (2007).
Đã nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng, hình ảnh CLVT, điện não đồ và kết quả
điều trị trên 40 bệnh nhân HSE tại khoa nhi bệnh viện Mackay Memorial và


23
khoa nhi bệnh viện Ten Chen, Đài Loan từ 1984 đến năm 2003. Các tác giả

thấy bệnh HSE gặp nhiều ở trẻ 1 – 6 tuổi (63%). Diễn biến nặng tuy không có
tử vong nhưng để lại di chứng 25%[34].
 Theo kết quả nghiên cứu của Jorina M.Elbers và cộng sự nghiên cứu
viêm não cấp ở trẻ em trong 12 năm (1994 – 2005) có 16/322 (5%) bệnh nhân
bị HSE. Tác giả thấy bệnh HSE gặp ở trẻ em mắc bệnh phân bố đều cho các
lứa tuổi (từ <1tuổi đến 14 tuổi), diễn biến bệnh nặng, không có trường hợp
nào tử vong nhưng để lại di chứng thần kinh (63%), co giật gặp 44% [42].
 Nghiên cứu hồi cứu về HSE ở người lớn tại Hồng Kông, AC Hui và
cộng sự nhận thấy: Trong số 16 bệnh nhân HSE, trung bình 51 tuổi, tỷ lệ nam/nữ
là 1/1. Các trường hợp xảy ra rải rác trong năm không theo mùa rõ rệt, tử vong
(13%), di chứng nặng (25%) [47].
 Nghiên cứu 68 bệnh nhân HSE ở Karachi, Pakistan của MekanSF và
các cộng sự thấy: Bệnh gặp ở nam giới 62%, tuổi từ 1 đến 82 tuổi. Không có
bệnh nhân tử vong [59].
 Nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và các yếu tố tiên lượng HSE ở
người lớn trong thời gian 15 năm ở Tây Ban Nha của Riera-Mestre, Antoni và
cộng sự, các tác giả nhận thấy trong 35 bệnh nhân được chẩn đoán HSE có 24
bệnh nhân có HSV – PCR DNT dương tính. 11 bệnh nhân được khẳng định
chẩn đoán bằng hình ảnh học sọ não, gặp ở nam nhiều hơn nữ, biểu hiện lâm
sàng: Sốt (100%), nhức đầu (69%). Có 32 bệnh nhân khỏi ra viện và 3 bệnh
nhân tử vong [51].
 Nghiên cứu về các căn nguyên gây viêm não cấp tại Saint – Etienne
cedex ở Pháp. Từ tháng 1 năm 1991 đến tháng 12 năm 2002 Vial C, Pozzetto B
và các cộng sự nhận thấy: Trong 32 bệnh nhân viêm não cấp có 26 trường hợp
(81%) xác định được nguyên nhân trong đó VZV (31%), HSV (19%),


24
Enterovirus (13%). Trong giai đoạn cấp hầu hết các trường hợp đều có biến loạn
DNT và có ĐNĐ bất thường. Hình ảnh CHT có giá trị loại trừ thương tổn não do

các căn nguyên khác và tiên lượng mức độ hoại tử nhu mô não [62].
 Nghiên cứu đa trung tâm ở Pháp của Raschilas E và cộng sự năm
2002 về kết quả điều trị và các yếu tố tiên lượng trong HSE ở người lớn cho
thấy: Trong số 93 bệnh nhân được chẩn đoán xác định HSE từ 36 bệnh viện
(34 trong khu vực Paris và 2 ở Nancy) thì 92 trường hợp HSE là do HSV1
(98,92%) và 1 trường hợp là do HSV. Đặc điểm lâm sàng: Nam giới gặp
nhiều hơn nữ (nam/nữ là 56/37). Bệnh diễn biến nặng, trong 85 bệnh nhân
được theo dõi trong thời gian 6 tháng sau khởi phát HSE thì có 13 bệnh nhân
tử vong (15%), di chứng liệt nửa người (68%).
1.4.2. Tình hình nghiên cứu HSE ở Việt Nam.
Ở nước ta do điều kiện tiến hành các xét nghiệm khẳng định chẩn đoán
còn hạn chế nên chưa có nhiều công trình nghiên cứu về HSE. Một số nghiên
cứu đã được tiến hành:
 Nghiên cứu khảo sát của Đoàn chuyên gia về viêm não cấp của tổ
chức Y tế thế giới tại bệnh viện Nhi Trung ương, bệnh viện Nhi Đồng 1 thành
phố Hồ Chí Minh và 3 bệnh viện tỉnh (An Giang, Cần Thơ, Long An) xét
nghiệm 197 mẫu dịch não tủy có 5,1% dương tính với HSV [87].
 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hường (2008) về tác nhân gây viêm
não - màng não virus HSE (HSV1 và HSV2) tại Việt Nam, trên 12 tỉnh thành
miền Bắc và các bệnh viện Trung ương đã xác định sự có mặt của HSV trong
DNT của những trường hợp được chẩn đoán lâm sàng viêm não cấp với tỷ lệ
9/162 (5,6%), trong đó tỷ lệ nam/nữ (5/4). CHT sọ não đều có hình ảnh tổn
thương ở Thùy thái dương [13].


25
 Nghiên cứu của Lê Trọng Dụng (2008) tại Viện nhi Trung ương, 39
bệnh nhân HSE thấy: Tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái là tương đương, gặp nhiều nhất ở lứa
tuổi từ 1 đến 5 tuổi (80%). Biểu hiện lâm sàng là giai đoạn khởi phát thường
diễn biến từ từ với sốt, co giật cục bộ, hội chứng màng não (7,7%) [4].

 Nghiên cứu 28 bệnh nhân HSE ở người lớn của Lương Thúy Hiền
tại khoa thần kinh bệnh viện Bạch Mai từ năm 2004 đến năm 2007. Tác giả
nhận thấy: Bệnh gặp ở nam giới nhiều hơn ở nữ, bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi 31
đến 45 tuổi. Tổn thương trên phim CHT có dạng xuất huyết ở phần dưới và
giữa của thùy thái dương và phần hốc mắt của thùy trán, có thể lan rộng lên
trên theo dọc hồi đai, đôi khi thấy cả phần bên của thùy thái dương [9].
 Nghiên cứu của Nguyễn Hoan Phú tại bệnh viện Nhiệt Đới thành phố
Hồ Chí Minh tháng 6 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007 cho thấy trong số 110
bệnh nhân nghi ngờ viêm não – màng não vào điều trị tại bệnh viện được xét
nghiệm PCR DNT có 8 bệnh nhân dương tính với HSV1 (7,3%) trong đó 6
bệnh nhân nam, 2 bệnh nhân nữ tuổi từ 19 đến 46, lâm sàng tất cả các bệnh
nhân đều bị sốt, rối loạn ý thức, 5 bệnh nhân nhức đầu dữ dội, co giật. Hầu
hết các bệnh nhân đều có dấu hiệu màng não hoặc dấu hiệu thần kinh khu trú.
4/6 bệnh nhân có tổn thương ở vùng thái dương trên phim CHT sọ não [16].
1.4.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong nghiên cứuViêm não do virus Herpes.
Tuy HSE đã được biết đến từ lâu, nhưng trong những năm gần đây, với
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, mà đặc biệt là công nghệ gene, kỹ thuật sinh
học phân tử, chẩn đoán hình ảnh, hóa mô miễn dịch … Những hiểu biết mới
về HSV và HSE ngày càng rõ ràng hơn. Trên thế giới đã có một số công trình
nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế bệnh sinh, đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, DNT,
hình ảnh tổn thương và các yếu tố tiên lượng bệnh HSE, hình ảnh tổn thương
và các yếu tố tiên lượng bệnh HSE. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào


×