Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu thực trạng đái tháo đường týp 2 và tiền đái tháo đường ở nhóm người có nguy cơ tại tỉnh ninh bình năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 90 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là một trong những bệnh không lây hiện nay đang gia
tăng ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt nam. Bệnh
ĐTĐ týp 2 chiếm từ 85% đến 95% trong tổng số bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ.
Bệnh có tốc độ phát triển rất nhanh, theo Stephan Colagiuri tổng hợp từ nhiều
nghiên cứu trên thế giới cho thấy: cứ trong vòng 15 năm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ
týp 2 tăng lên gấp hai lần [45],[23]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, năm 1995
toàn thế giới có 135 triệu người mắc bệnh ĐTĐ (chiếm 4%), dự báo đến năm
2025, số người mắc ĐTĐ khoảng 330 triệu người (chiếm 5,4%). Theo thống
kê hiệp hội đái tháo đường thế giới (IDF) năm 2010 số người mắc bệnh đái
tháo đường khoảng 285 triệu (chiếm 6,6%) và dự báo sẽ vượt trên 400 triệu
người vào năm 2030. Số người TĐTĐ năm 2010 trên thế giới cũng trên 300
triệu người [6], [37].
Việt Nam hiện là một trong số những quốc gia có tỷ lệ ĐTĐ trong cộng
đồng đang gia tăng. Tỷ lệ ĐTĐ ở Hà Nội năm 1991 là 1,2% [26], Huế năm
1994 là 0,96% [11], thành phố Hồ Chí Minh năm 1992 là 2,52% [6]. Đến năm
2001 tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở các thành phố lớn (Hà Nội, Hải phòng, Huế, Đà
nẵng, thành phố Hồ Chí Minh) đã là 4,0% [8], thành phố Yên Bái năm 2004
là 2,94% [14], nghiên cứu gộp hai tỉnh Thái Bình và Nam Định năm 2007 là
3,75% [24], thành phố Biên Hòa năm 2009 là 8,1% [22].
Phòng, chống bệnh ÐTÐ, trước tiên phải đề cập yếu tố nguy cơ của
bệnh. Những yếu tố này dẫn tới khả năng bị ÐTÐ sẽ cao hơn tại thời điểm
hiện tại và tương lai về sau. Bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu, do đó, việc
quản lý và theo dõi các yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường nhằm phòng
ngừa và hạn chế biến chứng cho bệnh nhân đang là mối quan tâm của các thầy
thuốc hiện nay. Các yếu tố nguy cơ ÐTÐ bao gồm: yếu tố tuổi cao (trên 45
tuổi); tiền sử gia đình có người trực hệ (bố, mẹ, anh, chị, em) bị ÐTÐ; thừa



2

cân, béo phì; lối sống tĩnh tại, ít vận động thể lực; chủng tộc; tiền ÐTÐ trước
đó; tăng huyết áp, rối loạn lipid máu; tiền sử ÐTÐ thai kỳ và sinh con trên
4000g; hội chứng buồng trứng đa nang. Các yếu tố ảnh hưởng khác nhau lên
khả năng mắc bệnh ÐTÐ của một cá nhân. Tuy có nhiều yếu tố nguy cơ khác
nhau dẫn đến sự bùng phát ÐTÐ týp 2 được các nhà khoa học trên thế giới
quan tâm và nghiên cứu phương hướng dự phòng ở cộng đồng và điều trị
chuyên sâu, nhưng trong thực tế chúng ta vẫn phải đương đầu với các yếu tố
nguy cơ gây bệnh ÐTÐ týp 2 mà chưa có biện pháp hữu hiệu nào có thể ngăn
chặn được bệnh dịch này. ÐTÐ týp 2 là một bệnh gây nhiều biến chứng như
tim mạch, thần kinh, mắt, thận, bàn chân … Bệnh ĐTĐ nếu không được điều
trị kịp thời người bệnh ĐTĐ có thể tử vong hoặc tàn tật suốt đời.
Sàng lọc ÐTÐ là quá trình áp dụng các biện pháp kỹ thuật để phát hiện
ÐTÐ và tiền ÐTÐ ở thời kỳ sớm trong một cộng đồng khi bệnh chưa biểu
hiện những triệu chứng lâm sàng dễ thấy. Để hạn chế và giảm tác hại của
bệnh thì biện pháp hữu hiệu nhất là phát hiện người mắc ĐTĐ týp 2 và tiền
ĐTĐ sớm để điều trị, quản lý kịp thời làm giảm tiến triển và biến chứng của
bệnh, giảm tối đa chi phí điều trị, nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.
Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ bệnh
ĐTĐ týp 2, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào hệ thống hoàn chỉnh về vấn đề
này. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thực trạng đái
tháo đường týp 2 và tiền đái tháo đường ở nhóm người có nguy cơ tại tỉnh
Ninh Bình năm 2012” nhằm hai mục tiêu sau:
1.

Xác định tỷ lệ tiền đái tháo đường, đái tháo đường týp 2 ở nhóm

2.


người có yếu tố nguy cơ (theo IDF) lứa tuổi từ 30 – 69 tại Ninh Bình.
Xác định một số yếu tố liên quan của tiền đái tháo đường, đái
tháo đường týp 2 ở nhóm người có yếu tố nguy cơ (theo IDF) lứa
tuổi từ 30 – 69 tại tỉnh Ninh Bình.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Thông tin chung, lịch sử, khái quát
Khái niệm đái tháo đường: là tình trạng rối loạn chuyển hóa do nhiều
nguyên nhân khác nhau được đặc trưng bởi tăng đường huyết mãn tính cùng
tình trạng rối loạn chuyển hóa carbohydrate, lipid và protid do hậu quả của sự
thiếu hụt hoặc giảm hoạt động của insulin hoặc kết hợp cả hai [5], [26], [42].
Theo WHO năm 1994 trên thế giới có khoảng 110 triệu người mắc, năm
2000 là 157,3 triệu người. Chính vì thế liên minh chiến lược phòng chống bệnh
ĐTĐ được thành lập, năm 2000 Việt Nam chính thức tham gia liên minh chiến
lược phòng chống bệnh ĐTĐ khu vực Tây Thái Bình Dương [5].
Năm 2002, trước những cảnh báo về tình hình dịch bệnh ĐTĐ của Tổ
chức Y tế Thế giới và các chuyên gia trong nước, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định 77/2002/QĐ-TTg về việc phê duyệt chương trình phòng chống một
số bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2002 – 2010 trong đó nhấn mạnh mục tiêu:
Giảm tỷ lệ mắc, biến chứng và tử vong của bệnh, phòng chống bệnh ĐTĐ.
Một trong những hoạt động của dự án đang được triển khai đó là sàng
lọc bệnh ĐTĐ. Đây là một hoạt động hết sức có ý nghĩa vì sàng lọc cùng với
các biện pháp khác sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường không được
phát hiện trong cộng đồng góp phần vào thành công chung của dự án.
1.2. Tình hình về bệnh đái tháo đường trên thế giới và ở Việt Nam.
1.2.1. Tình hình bệnh đái tháo đường trên thế giới.

Trong những năm gần đây, mô hình bệnh tật có nhiều thay đổi, các
bệnh nhiễm trùng có xu hướng ngày một giảm thì ngược lại các bệnh không


4

lây nhiễm như: tim mạch, tâm thần, ung thư… đặc biệt là bệnh Đái tháo
đường và các Rối loạn chuyển hoá ngày càng tăng [5], [29], [32].
Vào những năm cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, các
chuyên gia của WHO đã dự báo "Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của các bệnh Nội tiết
và rối loạn chuyển hoá, đặc biệt bệnh Đái tháo đường sẽ là bệnh không lây
phát triển nhanh nhất", bệnh Đái tháo đường là nguyên nhân gây tử vong
đứng hàng thứ tư ở các nước phát triển [5], [35], [44], [56].
Bệnh đái tháo đường đang gia tăng nhanh chóng trên toàn thế giới kéo
theo những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế đối với toàn xã hội.
Số người mắc Đái tháo đường trên toàn thế giới tăng từ 171 triệu năm 2000
lên 194 triệu năm 2003, đã tăng vọt lên 246 triệu năm 2006 và được dự báo
tăng lên 380 - 399 triệu vào 2025. Trong đó các nước phát triển tỷ lệ người
mắc bệnh tăng 42% và các nước đang phát triển tỷ lệ này là 170%. Trong đó
chủ yếu là Đái tháo đường týp 2 chiếm khoảng 85-95% tổng số người mắc
bệnh Đái tháo đường. Đái tháo đường là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng
thứ 4 trên thế giới, gây giảm tuổi thọ trung bình từ 5 đến 10 năm, là nguyên
nhân hàng đầu gây mù loà và suy thận giai đoạn cuối, nguyên nhân hàng đầu
của cắt cụt chi không do chấn thương. Cứ 10 giây lại có một người chết do
nguyên nhân đái tháo đường và các biến chứng; cứ 30 giây lại có một người
đái tháo đường có biến chứng bàn chân bị cắt cụt chi. Chi phí cho điều trị đái
tháo đường của toàn thế giới năm 2007 ước tính 232 ngàn tỷ đô la Mỹ, dự báo
tăng lên 302 ngàn tỷ vào năm 2025 [4], [19], [21], [34], [49].
Thực tế cho thấy, số bệnh nhân mắc bệnh Đái tháo đường đến khám và
điều trị tại các cơ sở khám chữa bệnh hầu hết đã có biến chứng như tổn

thương võng mạc, biến chứng thần kinh, loét hoại tứ chi, tổn thương thận…
[5]. Nguyên nhân là do được khám và phát hiện muộn, hoặc do tình cờ điều
trị bệnh khác rồi mới phát hiện ra bị mắc bệnh Đái tháo đường. Bên cạnh đó


5

do mức sống, lối sống thay đổi nên số người thừa cân, béo phì cũng ngày
càng gia tăng, đây là nhóm người có yếu tố nguy cơ cao nhất dẫn tới bị mắc
bệnh rối loạn chuyển hoá lipid, tăng huyết áp, tim mạch, đột quỵ và nhất là
bệnh Đái tháo đường. Bệnh Đái tháo đường và các rối loạn chuyển hoá thực
sự là mối quan ngại sâu sắc ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là ở các quốc
gia đang phát triển như Việt nam [2], [16], [25], [32].
Bệnh ĐTĐ là một trong những bệnh không lây phổ biến nhất, theo báo
cáo Liên đoàn ĐTĐ thế giới (IDF), năm 2000 có khoảng 151 triệu người từ
20 – 79 tuổi mắc bệnh ĐTĐ, chiếm 4,6%. Nơi có tỷ lệ ĐTĐ cao nhất là khu
vực Bắc Mỹ, Đại Trung Hải và Trung Đông, với tỷ lệ tương ứng là 7,8% và
7,7%, tiếp đến khu vực Đông Nam Á là 5,3%, Châu Âu là 4.9%, Trung Mỹ là
3,7%, Tây Thái Bình Dương là 3,6%, Châu Phi 1,2% [43]. Hiện nay khu vực
Tây Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á là hai khu vực có số người
mắc bệnh ĐTĐ đông nhất tương ứng là 44 triệu người và 35 triệu người.
Bệnh ĐTĐ là bệnh nguy hiểm đe dọa đến tính mạng và gây ra nhiều biến
chứng. Theo IDF, bệnh ĐTĐ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ tư ở
các nước phát triển và đang được coi là một dịch bệnh ở nhiều nước đang
phát triển, những nước mới công nghiệp hóa. Các thống kê cho thấy khoảng
50% bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ có các biến chứng như: bệnh mạch vành,
mạch máu não, bệnh mạch máu ngoại vi, bệnh lý thần kinh do ĐTĐ, cắt cụt
chi, suy thận, tổn thương mắt…Các biến chứng này thường dẫn đến tàn tật và
giảm tuổi thọ [28], [38].
Bệnh ĐTĐ đang là vấn đề y tế nan giải, là gánh nặng đối với sự phát

triển kinh tế- xã hội, vì sự phổ biến của bệnh, vì các hậu quả nặng nề của bệnh
do được phát hiện và điều trị muộn. Một nghiên cứu tại 8 nước thuộc Châu
Âu đã cho thấy chi phí trực tiếp cho 10 triệu người bị bệnh ĐTĐ trong năm
1998 đã tiêu tốn 26,97 tỷ USD và chi phí trực tiếp cho điều trị bệnh ĐTĐ


6

chiếm 3-6 % ngân sách dành cho toàn nghành y tế. Năm 1997, cả thế giới đã
chi ra 1030 tỷ USD cho điều trị bệnh ĐTĐ, trong đó hầu hết là chi cho điều trị
các biến chứng của bệnh [45].
Bệnh ĐTĐ týp 2 có xu hướng xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn, đặc biệt
những nhóm người đang ở độ tuổi lao động, trẻ em ở lứa tuổi dậy thì, đặc biệt
ở các nước đang phát triển như khu vực Tây Thái Bình Dương [54]. Tỷ lệ
bệnh ĐTĐ týp 2 tăng nhanh theo thời gian và sự tăng trưởng kinh tế. Đầu thế
kỷ 20, tần suất mắc bệnh ĐTĐ trên thế giới còn ở mức thấp.
Theo WHO: [6], [45]
- Năm 1985:

có khoảng 30 triệu người trên thế giới mắc bệnh.

- Năm 1994:

110 triệu người mắc.

- Năm 1995:

135 triệu (chiếm 4% dân số toàn cầu).

- Năm 2000:


151 triệu người mắc.

- Năm 2006:

246 triệu người mắc.

Dự báo:
- Năm 2025 sẽ là 330 triệu người mắc bệnh (chiếm 5,4 % dân số toàn cầu).
Bảng 1.1. Sự phân bố bệnh ĐTĐ trên thế giới
Địa điểm

Dân số

Số người mắc bệnh ĐTĐ (triệu người)

Thế giới
Châu phi
Châu Á
Bắc Mỹ
Mỹ Latin

(triệu người)
5697,04
731,47
3437,79
296,52
457,70

Năm 1995

118,42
7,29
62,78
12,98
12,40

Năm 2000
151,23
9,41
84,51
14,19
15,57

Năm 2010
220,72
14,14
132,29
17,53
22,54

Châu Âu
Châu Úc

727,79
27,77

22,04
0,92

26,51

1,04

32,86
1,33

Nguồn: Amos A. Me Carty D. Zimmet P(1997), “The rising global burden of diabetes and its
complications: estimates and projections to year 2010 Diabetic Med 11. Pp.85-9.

Tại thời điểm mới nhất năm 2010 bệnh đái tháo đường týp 2 gia tăng


7

trên toàn thế giới, tăng nhiều ở các nước đang phát triển. Theo hiệp hội đái
tháo đường thế giới (IDF) năm 2010 số người mắc bệnh đái tháo đường
khoảng 285 triệu (chiếm 6,6% dân số thế giới) và dự báo sẽ vượt trên 400
triệu người vào năm 2030. Số người bị rối loạn dung nạp glucose năm 2010
trên thế giới cũng trên 300 triệu người [37].
Tại các nước ASEAN, tùy thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế mà tỷ lệ ĐTĐ
cũng khác nhau: Singapore tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ tăng nhanh: năm 1975 tỷ lệ mắc
ĐTĐ là 1,9% sau 23 năm (1998) tỷ lệ mắc đã lên đến 9% [3], [48].
1.2.2. Tình hình bệnh đái tháo đường tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, tình hình mắc bệnh ĐTĐ trong thời gian gần đây có chiều
hướng gia tăng, đặc biệt là ĐTĐ týp 2, tại các thành phố lớn.
Phạm Sĩ Quốc và CS [26] thực hiện điều tra ngẫu nhiên 4912 đối tượng từ
15 tuổi trở lên, sống ở 2 khu vực ngoại thành và nội thành Hà Nội, theo các tiêu
chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của WHO năm 1985 (ĐH lúc đói > 7,8 mmol/l và ĐH 2
giờ sau OGTT > 11 mmol/l) đã thu được kết quả mắc ĐTĐ chung ở Hà Nội năm
1991 là 1,1% (nội thành 1,44%, ngoại thành 0,96%), tỷ lệ IGT là 1,6%.
Mai Thế Trạch và CS [31] đã điều tra trên 5416 người từ 15 tuổi trở lên

tại TP. Hồ Chí Minh, kết quả tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ chung của thành phố năm
1992 là 2,52%.
Trần Hữu Dàng và CS [11] sau khi khám và xét nghiệm máu trên 4980,
đối tượng ≥ 15 tuổi đã xác định tỷ lệ ĐTĐ chung ở Huế năm 1994 là 0,96% (nội
thành là 1,05%, ngoại thành là 0,6 %).


8

Năm 2000, tỷ lệ mắc ĐTĐ ở Hà Nội là 3,62% [15]. Năm 2001, tỷ lệ này
tại khu vực nội thành của 4 thành phố lớn (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng) là 4,1%, tỷ lệ IGT là 5,1% [8].
Tỷ lệ mắc ĐTĐ ở người 30 tuổi trở lên tại TP. Yên Bái (2004) là 2,94%,
tỷ lệ IGT là 3,26% [14], tại Quy Nhơn (2005) là 8,6% [30], tại TP. Biên Hòa
(2009) 8,1%, tỷ lệ IGT là 9,4% [22].
Ở Nghệ An, Vũ Nguyên Lam, Nguyễn Văn Hoàn và CS: Điều tra dịch tễ
học bệnh ĐTĐ tại Thành phố Vinh năm 2000 với 1826 đối tương: ĐTĐ là
5,64%, RLDN glucose là 7,88% [19].
Nguyễn văn Hoàn và CS nghiên cứu tình hình ĐTĐ týp 2 tại tỉnh Nghệ
An và các yếu tố nguy cơ mắc bệnh với 3600 đối tượng năm 2005 ĐTĐ là
3%, TĐTĐ là 13%; [17]. Đến năm 2009 nghiên cứu trên 3000 đối tượng tại
tỉnh Nghệ An thấy ĐTĐ là 5,2%; TĐTĐ là 15,3%; [17].
1.3. Quan niệm về bệnh đái tháo đường và tiền đái tháo đường.
1.3.1. Định nghĩa và phân loại bệnh đái tháo đường.
1.3.1.1.Định nghĩa:
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ĐTĐ là một hội chứng có đặc tính
biểu hiện sự tăng glucose máu do hậu quả của việc thiếu hoặc mất hoàn toàn
insulin, hoặc do liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động của
insulin [17], [50], [51], [52].
Tiền ĐTĐ là tình trạng suy giảm chuyển hóa glucose, bao gồm 2 tình

huống: Giảm dung nạp glucose lúc đói (impaired fasting glucose =IFG) và rối
loạn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance = IGT); Cả 2 tình huống
này đều tăng glucose huyết, nhưng chưa đạt mức chẩn đoán ĐTĐ thật sự. Tuy


9

nhiên ở giai đoạn tiền ĐTĐ đã xuất hiện tình trạng kháng insulin, là bước
khởi đầu trong tiến trình xuất hiện ĐTĐ týp 2. [6], [13], [36], [37].
1.3.1.2. Phân loại ĐTĐ:
Đái tháo đường týp 1: Do bệnh tự miễn dịch, các tế bào bêta tuyến tụy bị
phá hủy bởi chất trung gian miễn dịch. Tiến triển nhanh gặp ở người trẻ <30
tuổi, triệu chứng lâm sàng rầm rộ. Xuất hiện các tự kháng thể kháng đảo tụy,
tự kháng thể kháng insulin và tự kháng thể kháng GAD (glutamic acid
decarboxylase) trong 85-90% trường hợp. Biến chứng cấp tính hay gặp là hôn
mê nhiễm toan ceton. Điều trị bắt buộc bằng insulin. Thể tiến triển chậm hay
gặp ở người lớn, gọi là ĐTĐ tự miễn dịch tiềm tàng ở người lớn (LADA:
latent autoimmune diabetes in adults). Tỷ lệ gặp < 10%.
Đái tháo đường týp 2: Trước đây gọi là ĐTĐ không phụ thuộc insulin,
ĐTĐ ở người lớn, bệnh có tính gia đình. Đặc trưng của ĐTĐ týp 2 là kháng
insulin đi kèm với thiếu hụt insulin tương đối. Tuổi >30, triệu chứng lâm sàng
âm thầm, thường phát hiện muộn. Biến chứng cấp tính hay gặp là hôn mê
tăng áp lực thẩm thấu. Có thể điều trị bằng chế độ ăn, uống thuốc và/hoặc
insulin. Tỷ lệ gặp 90 - 95%.
Đái tháo đường thai kỳ: là tình trạng rối loạn dung nạp đường huyết xảy
ra trong thời kỳ mang thai.
Các tình trạng tăng đường huyết đặc biệt khác: giảm chức năng tế bào
bêta (β) do khiếm khuyết gen: MODY 1, MODY 2, MODY 3, ĐTĐ ti lạp thể,
giảm hoạt tính insulin do khiếm khuyết gen. Bệnh lý tuyến tụy: viêm tụy, xơ,
sỏi tụy, ung thư tụy,… Một số bệnh nội tiết: to các viễn cực, hội chứng

Cushing,…do thuốc, do hóa chất, do nhiễm khuẩn.


10

1.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường.
Chẩn đoán bệnh ĐTĐ có thể dựa vào mức đường máu mao mạch (toàn
phần và huyết tương), máu tĩnh mạch (toàn phần và huyết tương). Tuy nhiên
G huyết tương tĩnh mạch là chỉ số có giá trị nhất, thường được khuyến cáo sự
dụng. Các mẫu máu có thể được lấy vào lúc đói (nhịn đói ít nhất 8 giờ), lấy
mẫu bất kỳ (không liên quan đến bữa ăn trước đó), và mẫu máu 2 giờ sau khi
uống đường trong nghiệm pháp dung nạp glucose. Dưới đây là tiêu chuẩn
chẩn đoán bệnh ĐTĐ và các dạng rối loạn chuyển hóa glucose được WHO
khuyến cáo (1999). [6], [50], [51], [55].
Bảng 1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh ĐTĐ và các rối loạn đường huyết
máu (WHO - 1999)
Nồng độ Glucose máu
Máu tĩnh mạch

Máu mao mạch

Huyết tương

toàn phần

toàn phần

tĩnh mạch

(mmol/l)


(mmol/l)

(mmol/l)

ĐH lúc đói

≥ 6,1

≥ 6,1

≥ 7,0

hoặc

hoặc

hoặc

hoặc

2 giờ OGTT

≥ 10,0

≥ 11,1

≥ 11,1

ĐH lúc đói


5,6 ≤ GH ≤ 6,1

5,6 ≤ GH ≤ 6,1

6,1 ≤ GH < 7,0









2 giờ OGTT

6,7 ≤ GH < 11,1

7,8 ≤ GH < 11,1

7,8 ≤ GH < 11,1

ĐH lúc đói

5,6 ≤ GH ≤ 6,1

5,6 ≤ GH ≤ 6,1

6,1 ≤ GH < 7,0










2 giờ OGTT

< 6,7

< 7,8

< 7,8

Chẩn đoán

ĐTĐ

IGT

IFG


11

Bảng 1.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ và các dạng RLDN dựa vào Glucose
máu huyết tương tĩnh mạch theo WHO-IDF 2008:

Các dạng tăng
glucose máu

Thời điểm lấy máu
Glucose lúc đói
Glucose bất kỳ hoặc sau 2 giờ làm

ĐTĐ
Rối loạn dung nạp
glucose máu
Suy giảm dung nạp
glucose máu lúc đói

nghiệm pháp dung nạp glucose máu
Glucose máu lúc đói và
Glucose máu sau 2 giờ làm nghiệm
pháp
Glucose máu lúc đói và
Glucose máu sau 2 giờ làm nghiệm
pháp

Nồng độ
Glucose
tĩnh mạch
≥ 7 mmol/L
≥ 11,1 mmol/L
< 7 mmol/L
7,8 – 11 mmol/L
6,1 – 6,9
mmol/L

< 7,8 mmol/L

Bảng 1.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ và các dạng RLDN dựa vào
Glucose máu huyết tương tĩnh mạch theo ADA - 2010:
Các dạng tăng
glucose máu

Thời điểm lấy máu
Glucose lúc đói
Glucose bất kỳ hoặc sau 2 giờ làm

ĐTĐ
Rối loạn dung nạp
glucose máu
Suy giảm dung nạp
glucose máu lúc đói

nghiệm pháp dung nạp glucose máu
Glucose máu lúc đói và
Glucose máu sau 2 giờ làm nghiệm pháp
Glucose máu lúc đói và

Nồng độ
Glucose
tĩnh mạch
≥ 7 mmol/L
≥ 11,1 mmol/L
< 7 mmol/L
7,8 – 11 mmol/L
5,6 – 6,9

mmol/L

Glucose máu sau 2 giờ làm nghiệm

< 7,8 mmol/L
pháp
Năm 2004, Hội đái tháo đường Hoa Kỳ (American Diabetes

Assocation - ADA) đã đề xuất hạ tiêu chuẩn rối loạn đường huyết khi đói
(Impaired Fasting Glucose - IFG) từ 6.1 mmol/l G huyết tương tĩnh mạch
xuống 5.6 mmol/l huyết tương tĩnh mạch và đưa ra khái niệm “tiền ĐTĐ


12

(pre-diabetes)” được quy ước gồm giảm dung nạp đường huyết (Impaired
Glucose Tolerance - IGT) và IFG [48].
Năm 2008 ADA và WHO chính thức đặt tên là TĐTĐ (pre-diabetes) [1],
[10], [13], [37], [52], [41], [40], [53].
Tiêu chí chẩn đoán tiền đái tháo đường (Tiền ĐTĐ)
1. HbA1c từ 5,7 đến 6,4 %
2. Rối loạn glucose lúc đói, (impaired fasting glucose, IFG), với đường
máu đói từ 5,6 – 6,9 mmol/L (100 – 125 mg/dL).
3. Rối loạn dung nạp glucose, (impaired glucose tolerance, IGT), với
đường máu 2 giờ trong nghiệm pháp dung nạp glucose G2 đo trong mức từ
7,8 – 11 mmol/L (140 – 199 mg/dL).
* Hai điểm cần lưu ý trong Tiền ĐTĐ là:
- Nồng độ glucose máu tuy đã tăng cao hơn bình thường, nhưng chưa đủ
mức để chẩn đoán ĐTĐ và
- Đã có xuất hiện tình trạng đề kháng insulin, nghĩa là insulin tác dụng

không còn hiệu quả.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) năm
2010, để chẩn đoán ĐTĐ chúng ta dựa vào 1 trong 4 tiêu chuẩn sau:
1. HbA1c ≥ 6,5%. Xét nghiệm phải được làm ở labo sử dụng phương
pháp chuẩn.
2. Glucose máu lúc đói từ ≥ 7,0 mml/l (≥ 126 mg/dL), là đường máu khi
đã nhịn không ăn ít nhất 8 giờ.


13

3. Glucose máu sau 2 giờ trong nghiệm pháp dung nạp glucose G2 ≥ 11,1
mml/l (200mg/dL).
Nghiệm pháp dung nạp glucose phải được thực hiện theo đúng mô
hình của Tổ chức Y tế Thế giới WHO, sử dụng 75 gam glucose.
4. Glucose máu bất kỳ ≥ 11,1 mmol/L (≥200 mg/dL) trên bệnh có triệu
chứng của đái tháo đường cổ điển.
1.3.3. Biến chứng của bệnh đái tháo đường.
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh
sẽ tiến triển nhanh chóng, dẫn tới xuất hiện các biến chứng cấp tính và mạn
tính, bệnh nhân có thể tử vong do các biến chứng.
1.3.3.1. Biến chứng cấp tính.
- Biến chứng hôn mê nhiễm toan ceton.
- Hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu.
- Hạ đường huyết
- Toan acid lactic
1.3.3.2. Biến chứng mạn tính.
- Bệnh lý tim mạch ở người bệnh ĐTĐ.
- Bệnh lý mắt ở người bệnh ĐTĐ.
- Biến chứng thận do bệnh ĐTĐ.

- Bệnh lý bàn chân do bệnh ĐTĐ.


14

1.3.3.3. Các biến chứng khác.
- Nhiễm khuẩn ở người bệnh ĐTĐ.
- Ảnh hưởng của ĐTĐ thai kỳ tới sức khỏe bà mẹ và thai nhi.
1.4. Một số yếu tố nguy cơ chính của bệnh đái tháo đường týp 2
1.4.1. Yếu tố tuổi
Yếu tố tuổi (đặc biệt là độ tuổi 45 trở lên) được xếp vị trí đầu tiên trong
các yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ týp 2. Theo WHO, ở lứa tuổi 70 trở lên, tỷ
lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 tăng gấp 3 - 4 lần so với tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ chung ở
người lớn, khoảng 17% số người 80 tuổi trở lên bị mắc bệnh ĐTĐ týp 2 [2],
[4], [5], [26], [33].
1.4.2. Yếu tố gia đình
Khoảng 10% bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ týp 2 có bà con thân thuộc
cũng bị mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Những đối tượng có mối liên quan huyết thống
gần gũi với người mắc bệnh ĐTĐ týp 2, có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 cao
gấp 4 - 6 lần người bình thường (trong gia đình không có người mắc bệnh
ĐTĐ týp 2), đặc biệt là những người mà cả bên nội và ngoại đều có người
mắc bệnh ĐTĐ týp 2, con cái có cả bố mẹ đều mắc bệnh ĐTĐ týp 2, thì 40%
có nguy cơ bị mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Nghiên cứu trên những gia đình bệnh
nhân mắc bệnh ĐTĐ týp 2 thấy: có khoảng 6% anh chị em ruột cùng mắc
bệnh ĐTĐ týp 2 và khi bố mẹ bị bệnh ĐTĐ týp 2, thì 5% con cái của họ sẽ
mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Hai trẻ sinh đôi cùng trứng, một người mắc bệnh ĐTĐ
týp 2, người kia sẽ bị xếp vào nhóm đe doạ thực sự sẽ mắc bệnh ĐTĐ týp 2
[2], [4], [5], [26], [33].



15

1.4.3. Yếu tố chủng tộc
Tỷ lệ ĐTĐ týp 2 gặp ở tất cả các dân tộc, nhưng với tỷ lệ và mức độ
hoàn toàn khác nhau. Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 rất thấp ở người Wamigela ở
Papua New Guinea - nơi có lối sống truyền thống, còn tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ
týp 2 cao nhất gặp ở người Pima.
Ở các dân tộc khác nhau, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ thai kỳ cũng khác
nhau, những dân tộc có tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 cao, thì cũng có tỷ lệ
mắc bệnh ĐTĐ thai kỳ cao [2], [4], [5], [26], [33].
1.4.4. Yếu tố môi trường và lối sống
Quá trình đô thị hoá có vai trò quan trọng trong sự gia tăng tỷ lệ
bệnh ĐTĐ týp 2. Đô thị hoá đã chuyển từ lối sống, thói quen ăn uống
truyền thống sang kiểu sống, thói quen ăn uống hiện đại. Khi ăn uống
không hợp lý sẽ dẫn đến sự mất cân bằng nghiêng và dư thừa năng lượng
kết hợp với lối sống tĩnh tại, ít hoạt động thúc đẩy nhanh quá trình tiến
triển của bệnh béo phì, làm tăng nhanh tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 [2], [4],
[5], [26], [33].
Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 tại các nước đang phát triển đồng biến với
tốc độ đô thị hoá và sự phát triển kinh tế. Một nghiên cứu điều tra 1769 người
từ 25 tuổi trở lên ở nông thôn và 1806 người ở thành thị phía bắc Ấn Độ cho
thấy: tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 khác nhau rất ý nghĩa (nông thôn 2,8%, thành
thị 6,4%).
Ở Việt Nam, người sống ở đô thị có tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 cao hơn
ở nông thôn: Hà Nội, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 khu vực thành thị 1,4% so
với nông thôn 0,96%. Ở Huế, tỷ lệ trên là 1,05% so với 0,60%. Như vậy, sự
đô thị hoá là yếu tố nguy cơ quan trọng và độc lập của ĐTĐ týp 2 [2], [4], [5],
[26], [33].



16

1.4.5. Tiền sử sinh con nặng trên 4kg của thế giới
Trẻ mới sinh nặng >4 kg là một yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ týp 2
cho cả mẹ và con. Các bà mẹ này có nguy cơ mắc đái tháo đường týp 2 cao
hơn so với phụ nữ bình thường. Những trẻ này thường bị béo phì từ nhỏ, rối
loạn dung nạp glucose và bị ĐTĐ týp 2 khi lớn tuổi [5], [26], [33].
1.4.6. Tiền sử giảm dung nạp glucose
Những người có tiền sử giảm dung nạp glucose, thì khả năng tiến triển
thành bệnh ĐTĐ týp 2 rất cao. Tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose và rối loạn
đường huyết lúc đói là một chỉ số của giai đoạn dịch bệnh ĐTĐ týp 2 tiềm
tàng trong dân số. Tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose và rối loạn đường huyết lúc
đói là một yếu tố dự đoán sự gia tăng của ĐTĐ týp 2. Những người bị rối loạn
dung nạp glucose và rối loạn đường huyết lúc đói nếu biết sớm chỉ cần can
thiệp bằng chế độ ăn và luyện tập sẽ giảm hẳn nguy cơ chuyển thành bệnh
ĐTĐ týp 2 thực sự [5].
1.4.7. Tăng huyết áp
Tăng huyết áp (HA) được coi là nguy cơ phát triển bệnh ĐTĐ týp 2. Đa
số bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có tăng huyết áp và tỷ lệ ĐTĐ týp 2 ở người bệnh
tăng huyết áp cũng cao hơn rất nhiều so với người bình thường cùng lứa tuổi.
Tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đều tăng theo tuổi đời, tuổi bệnh,
BMI, nồng độ glucose máu,.. [2], [5].
1.4.8. Béo phì
Có rất nhiều nghiên cứu chứng minh mối liên quan tương đồng giữa
bệnh béo phì và bệnh ĐTĐ týp 2. Từ năm 1985, bệnh béo phì đã được WHO
ghi nhận là một yếu tố nguy cơ cao của bệnh ĐTĐ týp 2, trong đó bệnh béo
phì dạng nam có vai trò đặc biệt quan trọng.
Ở Việt Nam, điều tra dịch tễ học ở Huế cho thấy: béo phì chiếm 12,5%
tổng số người bị bệnh ĐTĐ, trong đó béo phì dạng nam chiếm 35,42% [2],
[4], [26].



17

1.4.9. Chế độ ăn và hoạt động thể lực
Nhiều công trình nghiên cứu dịch tễ học cho thấy: những người có thói
quen dùng nhiều đường sacarose, ăn nhiều chất béo sẽ có nguy cơ bị ĐTĐ týp
2. Tình trạng ăn quá nhiều chất béo đã được nhiều tác giả chứng minh là
những yếu tố nguy cơ gây bệnh ĐTĐ týp 2 ở người. Những người có thói
quen uống nhiều rượu, có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 lớn hơn những người
uống ít rượu và uống điều độ.
Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy, việc tập luyện thể lực thường
xuyên có tác dụng làm giảm nồng độ glucose huyết tương ở bệnh nhân Đái
tháo đường týp 2, đồng thời giúp duy trì sự bình ổn của lipid máu, huyết áp,
cải thiện tình trạng kháng insulin, và cải thiện tích cực về mặt tâm lý.
Sự phối hợp hoạt động thể lực thường xuyên và điều chỉnh chế độ ăn có
thể giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh Đái tháo đường týp 2 một cách rất đáng
kể [5], [32], [46], [47].
Ngoài những người mắc bệnh ĐTĐ, một tỷ lệ đáng kể dân số có nguy
cơ cao mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Các YTNC không thể thay đổi được là sự nhạy
cảm di truyền và tuổi thọ tăng lên. Các YTNC khác có thể can thiệp được bao
gồm: tăng cân, béo phì, ít hoạt động thể lực, chế độ ăn không hợp lý…Người
ta thấy rằng việc điều chỉnh các YTNC có thể thay đổi được này đã làm giảm
khả năng xuất hiện bệnh ĐTĐ [9].
1.5. Bệnh đái tháo đường týp 2
1.5.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh
Có nhiều giả thuyết, tuy nhiên các giả thuyết đều có một số đặc điểm
chung là [7], [35], [39], [46]:



18

Đái tháo đường týp 2 là thể thường gặp nhất, chiếm 90 - 95% các
trường hợp mắc ĐTĐ. Khác với ĐTĐ týp 1, tuyến tụy nội tiết ở bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 vẫn sản xuất ra insulin, thậm trí nồng độ insulin ở bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 lại cao hơn người bình thường, lý do là tuyến tụy nội tiết ở những bệnh
nhân này phải tăng cường hoạt động để đáp ứng với nồng độ đường máu cao
do cơ thể bị tăng đề kháng với hiệu quả hoạt động của insulin.
Nhiều chuyên gia hàng đầu về bệnh ĐTĐ trên thế giới đều thống nhất
cơ chế hình thành bệnh ĐTĐ týp 2 là quá trình tác động qua lại phức tạp của
hai nhóm nguyên nhân chính đó là các yếu tố môi trường và yếu tố gien. Cho
tới nay người ta đã tìm thấy trên 10 gien có liên quan đến bệnh ĐTĐ týp 2,
các gien này được gọi chung là gien nhạy cảm ĐTĐ.
Dưới tác động của yếu tố môi trường như chế độ ăn nhiều lipid, đặc
biệt nhiều acid béo bão hòa, nhiều carbohydar tinh, ít vận động thể lực hoặc
sự tăng lên của tuổi tác, béo phì sẽ làm xuất hiện hoặc làm tăng sự đề kháng
của các cơ quan đích (tế bào cơ, gan, tổ chức mỡ) đối với insulin ở những đối
tượng có những gien quyết định mắc bệnh ĐTĐ. Sự kháng insulin của cơ
quan đích (giảm dung nạp glucose) và hậu quả của nó là tăng đường trong
máu và rối loạn các chuyển hóa liên quan khác. Sự tăng đường máu liên tục
(trên 120mg/dl), tăng acid béo tự do và thay đổi khối lượng tế bào beta tụy
dẫn đến tổn thương và giảm chức năng tế bào beta. Khi cơ thể không còn bù
được tình trạng kháng insulin hoặc khi chức năng của tế bào beta không còn
khả năng bù trừ thì bệnh ĐTĐ xuất hiện. Như vậy, nếu tác động vào các yếu
tố môi trường như chế độ ăn, chế độ luyện tập, béo phì ở giai đoạn chưa hoặc
mới xuất hiện hiện tượng kháng insulin hoặc rối loạn dung nạp glucose thì
hoàn toàn có thể ngăn chặn lại quá trình tiến triển thành bệnh ĐTĐ.


19


Những hiểu biết ngày nay về bệnh cho thấy ĐTĐ týp 2 sẽ không xuất
hiện nếu không có tổn thương tế bào beta.
Người béo phì, béo bụng, béo tạng, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa
lipid vv, thường bị giảm nhậy cảm với tác dụng của insulin (tăng đề kháng với
insulin), đây là điểm đặc trưng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ở những đối tượng
này.
Về mặt di truyền, có nhiều gien liên quan đến ĐTĐ týp 2. Một số bệnh
nhân ĐTĐ chỉ khuyết tật một gien, trong khi đa số bị khuyết tật nhiều gien.
Điều này có thể giải thích rằng tại sao một số bệnh nhân ĐTĐ điều trị dễ ràng
hơn những bệnh nhân khác.
Ở giai đoạn sớm của sự đề kháng, tụy tăng sản xuất insulin để bù đắp
cho sự hoạt động kém hiệu quả, nồng độ insulin tăng trong máu (giai đoạn
cường tiết insulin). Giai đoạn sau, tế bào beta làm việc quá tải lâu ngày dẫn
đến mệt mỏi, giảm hoạt động chức năng, lượng insulin sản xuất ra sẽ giảm
xuống. Các yếu tố đặc biệt trong tiền sử như trẻ sinh ra có cân nặng thấp dưới
2500 gram; phụ nữ có tiền sử ĐTĐ thai kỳ hoặc sinh con nặng trên 4000
gram; tiền sử có RLDNG hoặc suy giảm đường huyết lúc đói; trong gia đình
có thế hệ cận kề bị mắc ĐTĐ được xem là các YTNC gây bệnh.
Một số nghiên cứu chứng minh rằng suy dinh dưỡng bào thai có thể
làm giảm quá trình hình thành tế bào beta, gây nên ĐTĐ sau này. Suy dinh
dưỡng bào thai được nhấn mạnh bởi cân nặng lúc đẻ thấp, phát triển nhanh
trong giai đoạn tiếp theo khi được nuôi dưỡng bởi chế độ ăn đủ dinh dưỡng
trong vòng 12 tháng đầu sau đẻ.
Giả thuyết về gien tiết kiệm cho rằng con người có một chương trình về
gien để tồn tại trong giai đoạn bị đói ăn (thiếu dinh dưỡng), bình thường hệ


20


thống gien này không hoạt động. Khi cơ thể ở trạng thái đói kéo dài (suy dinh
dưỡng), hệ thống gien này bị kích thích, giúp cơ thể sử dụng tiết kiệm năng
lượng. Sau này khi chế độ ăn đầy đủ (hoặc dư thừa) đặc biệt trong hoàn cảnh
cuộc sống tĩnh tại và chế độ ăn giầu năng lượng, các gien này vẫn hoạt động,
gây tích luỹ quá nhiều mỡ dẫn đến béo phì, tăng đề kháng với insulin và đái
tháo đường.
Nhu cầu insulin cũng tăng dần theo tuổi, trong khi tế bào beta lại bị mất
dần theo tuổi, vì thế đường máu sẽ tăng khi lượng insulin sản xuất không đáp
ứng được nhu cầu cơ thể.
Quá trình mất tế bào beta tự nhiên theo tuổi ở người bình thường
khoảng 1%/năm. Ở một số người có hiện tượng đề kháng insulin bẩm sinh,
tuyến tuỵ phải tăng cường hoạt động để sản xuất insulin chống lại hiện tượng
đề kháng này. Quá trình mất tế bào beta dẫn đến thiếu hụt insulin và tăng
đường máu xuất hiện ngay ở lúc tuổi còn trẻ.
Ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 quá trình mất tế bào beta tăng lên đến
7%/năm. Vì thế ĐTĐ týp 2 là tình trạng bệnh lý diễn biến có quá trình, tình
trạng thiếu insulin sẽ tăng dần theo thời gian mắc bệnh. Khoảng 50% bệnh
nhân ĐTĐ týp 2 phải sử dụng insulin phối hợp với các thuốc viên hạ đường
máu để duy trì đường máu ở mức gần bình thường.
Ngày nay các chuyên gia coi stress là một yếu tố làm gia tăng tỷ lệ
ĐTĐ týp 2, các stress này thường xảy ra cả trong gia đình và xã hội.
1.5.2. Đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
Đái tháo đường týp 2 thường phát bệnh âm thầm, không có triệu chứng
hoặc triệu chứng mơ hồ, không đặc hiệu, vì thế thường không được chẩn đoán
kịp thời. Bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ không được chẩn đoán, điều trị sẽ phát


21

sinh các biến chứng mạn tính, khi đến khám tại các cơ sở y tế, phát hiện mắc

bệnh có tới 50% trường hợp có biến chứng khi mới được chẩn đoán.
Bệnh nhân ĐTĐ ở giai đoạn đầu, mức đường máu sau ăn vượt quá
ngưỡng thận, lúc đói mức đường máu giảm xuống dưới ngưỡng đường của
thận. Vì thế bệnh nhân có thể có đường niệu ngắt quãng; đường niệu sau ăn
có thể dương tính, trong khi đường niệu lúc đói có thể âm tính nên thường
không có triệu chứng.
Khi rối loạn chuyển hoá trầm trọng hơn, việc điều chỉnh sản xuất
glucose ở gan bị suy giảm, gây tăng đường máu lúc đói và mức đường máu
vượt qua ngưỡng thận ở hầu hết các thời điểm trong ngày, bệnh nhân liên tục
có glucose niệu gây lợi niệu thẩm thấu gây đái nhiều dẫn đến mất nước và
uống nhiều.
Vì insulin nội sinh tăng nhưng không hiệu quả (do cơ thể đề kháng với
hoạt động của insulin), cơ thể không sử dụng hiệu quả carbohydrates từ bữa
ăn, tế bào cơ thể bị đói, nên người bệnh mệt mỏi, sút cân mặc dù ăn nhiều.
Tăng đường máu nhưng tế bào của cơ thể vẫn bị đói, hệ thống miễn
dịch bị suy giảm, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng.
1.5.3. Nghiệm pháp dung nạp glucose
Để phát hiện sớm người bệnh rối loạn glucose máu hoặc ĐTĐ týp 2,
người ta sử dụng nghiệm pháp dung nạp glucose máu:
Cơ sở của nghiệm pháp
Người ta có thể lấy máu ở nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình
làm nghiệm pháp dung nạp glucose máu, các thời điểm thường là (0, 30, 60,
90, 120 phút), kết quả glucose máu ở mỗi thời điểm có giá trị khác nhau.
Để tiện cho quá trình sàng lọc, WHO, IDF khuyến cáo lấy máu ở thời
điểm 0 và 120 phút sau khi uống glucose.


22

Kết quả glucose máu thời điểm 0 (lúc đói) đánh giá việc sản xuất

glucose qua đêm ở gan, vì khi đói, nồng độ insulin ở mức thấp nhất (mức nền)
nên không ức chế hoàn toàn việc sản xuất glucose ở gan, mặt khác đây là cơ
chế sinh lý quan trọng giúp cơ thể không rơi vào tình trạng hạ glucose máu.
Ngược lại kết quả glucose máu ở thời điểm sau 120 phút phản ánh chức
năng tế bào beta của tuỵ, vì khi đưa một lượng glucose lớn vào cơ thể, bình
thường tế bào beta tuỵ đáp ứng bằng tăng bài tiết insulin làm tăng vận chuyển
glucose vào gan và cơ để dự trữ, ức chế quá trình phân giải glucogen, ức chế
quá trình tân tạo đường nên làm giảm glucose máu, sau 2 giờ mức glucose
máu phải trở về < 7,8 mmol/L, khi chức năng tế bào Beta bị suy giảm, mức
glucose máu ở thời điểm 120 phút sẽ tăng lên.
1.6. Sàng lọc đái tháo đường týp 2
1.6.1. Định nghĩa sàng lọc
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2002: thì “Sàng lọc là một quá
trình phát hiện những cá thể có nguy cơ cao về một rối loạn đặc hiệu để tiến
hành điều tra sâu hơn hoặc hành động trực tiếp”.
Định nghĩa này cũng nói lên:
“Sàng lọc là hệ thống cung cấp cho một quần thể người dân chưa tìm
đến khám tại các cơ sở y tế khi có các triệu chứng của bệnh thì khi sàng lọc
sẽ được cung cấp và được triển khai thường quy bởi các thày thuốc và việc
thực hiện này không phải là yêu cầu của người bệnh đòi hỏi hỗ trợ vì một
triệu chứng đặc biệt của bệnh. Mục đích của sàng lọc là vì lợi ích của cá
nhân được sàng lọc”
1.6.2. Sự cần thiết
Số lượng người mắc bệnh ĐTĐ đang tăng lên nhanh chóng trên thế
giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam. Bệnh ĐTĐ
gây những hậu quả nặng nề về sức khỏe do các biến chứng của bệnh, chi phí


23


điều trị và quản lý bệnh rất tốn kém, vì vậy ĐTĐ thực sự trở thành gánh nặng
kinh tế cho cả xã hội, bản thân và gia đình người bệnh.
Trên thế giới khoảng 50% bệnh nhân ĐTĐ týp 2 không được chẩn
đoán, còn tại Việt Nam theo kết quả điều tra DTH Quốc gia năm 2002 và
2008 có tới 65-70% bệnh nhân ĐTĐ týp 2 không được chẩn đoán và quản lý
điều trị.
ĐTĐ có thể gặp ở bất kỳ đối tượng nào, nhưng chủ yếu gặp ở đối tượng
mang yếu tố nguy cơ. Điều tra đối tượng mắc YTNC cho thấy tỷ lệ mắc giao
động từ 15-20%.
Vì lý do kinh tế không thể sàng lọc cho mọi đối tượng trong cộng đồng,
người ta thường tiến hành khám sàng lọc, xét nghiệm ĐH nhằm phát hiện
sớm bệnh nhân mắc ĐTĐ ở những đối tượng mang YTNC để quản lý, điều trị
nhằm làm chậm sự xuất hiện các biến chứng do ĐTĐ [5].
1.6.3. Cơ sở khoa học của sàng lọc đái tháo đường týp 2
Bệnh ĐTĐ týp 2 là bệnh di truyền đa gen. Vì thế người có người thân
trong gia đình thuộc dòng dõi huyết thống mắc ĐTĐ, đặc biệt nếu là trực hệ
như bố, mẹ, anh chị em ruột mắc ĐTĐ thì các thành viên khác có nguy cơ
mắc ĐTĐ tăng từ 3-8 lần so với người bình thường.
Người bị tăng HA, rối loạn chuyển hóa lipid, béo phì, mắc bệnh tim
mạch vv… Có hiện tượng đề kháng insulin, vì thế dễ mắc ĐTĐ.
Người có tiền sử rối loạn ĐH được gọi là tiền ĐTĐ có nguy cơ cao
chuyển thành mắc bệnh thực sự.
Người có tiền sử đẻ con to, cân nặng từ 4000g trở lên, hoặc mắc ĐTĐ
thai kỳ, sau này dễ mắc quá cân hoặc béo phì nên có nguy cơ cao mắc bệnh
ĐTĐ sau này.
Đái tháo đường là bệnh gây ra những hậu quả nghiêm trọng, là gánh
nặng cho gia đình và cộng đồng.


24


Đái tháo đường là bệnh có khả năng phòng được.
Bệnh ĐTĐ trong đó chủ yếu là ĐTĐ týp 2 chiếm 85 - 95%. Đây là
bệnh do tác động qua lại của cả 2 yếu tố là di truyền và môi trường. Việc loại
trừ các yếu tố nguy cơ hoàn toàn có thể ngăn ngừa, làm chậm phát triển bệnh,
làm chậm biến chứng bệnh như thay đổi lối sống, kiểm soát tốt đường huyết,
HBA1C huyết áp cao, rối loạn lipid máu đã được chứng minh rõ ràng qua
nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới [5], [33].
1.6.4. Mục đích và ý nghĩa sàng lọc
- Phát hiện sớm bệnh ĐTĐ, để quản lý điều trị nhằm làm chậm sự xuất
hiện và tiến triển các biến chứng, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
bệnh ĐTĐ.
- Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ, tiền ĐTĐ ở đối tượng có YTNC.
- Lập kế hoạch quản lý, chăm sóc, tư vấn, điều trị cho người bệnh ĐTĐ
và đối tượng có yếu tố nguy cơ
1.6.5. Lợi ích của việc sàng lọc
Mối quan tâm chính của YTCC với sàng tuyển là niềm tin vào việc
phát hiện bệnh sớm sẽ dẫn đến tình trạng sức khỏe tốt hơn: giảm tỉ lệ mắc
bệnh, tàn tật hoặc tử vong.
- Đối với cá nhân: Nâng cao thời gian và chất lượng cuộc sống, có thể là
kết quả của việc làm giảm mức độ trầm trọng và ảnh hưởng tức thì của ĐTĐ
hoặc việc phòng ngừa hoặc làm chậm những biến chứng mãn tính của bệnh.
- Đối với hệ thống y tế: Có khả năng tiết kiệm được chi phí hoặc phân
bổ lại nguồn lực y tế nhờ việc giảm các mức độ yêu cầu chăm sóc do các biến
chứng của ĐTĐ (giảm điều trị nội trú và thời gian điều trị).


25

CHƯƠNG 2


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra mô tả cắt ngang
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Ninh Bình nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc và khu vực đồng bằng
Bắc Bộ, vùng đất này từng là kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, được ví như
một Việt Nam thu nhỏ. Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình: vùng đồi núi,
bán sơn địa ở phía tây bắc và vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam. Hiện
nay Ninh Bình là tỉnh có diện tích lớn: 1.400 km², dân số: 898.459 người
(điều tra dân số 01/04/2009). Ninh Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện
(147 đơn vị hành chính cấp xã gồm 125 xã, 15 phường và 7 thị trấn). Nguồn:
Niên giám thông kê Ninh Bình năm 2008. Với vị trí đặc biệt về giao thông,
địa hình, lịch sử văn hóa, với nhiều thành phần kinh tế, nhiều địa danh du lịch
nổi tiếng, có tốc độ phát triển kinh tế xã hội, đô thị hóa cao, và là tỉnh điển
hình trong cả nước dịch tế bệnh Đái tháo đường.

Hình 2.1. Bản đồ Hành chính tỉnh Ninh Bình


×