Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới VNEN đạt hiệu quả”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.39 KB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU:
- Lí do chọn đề tài.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học là bậc học nền tảng. Sự thành
công của giáo dục Tiểu học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và chất lượng
của các bậc học tiếp theo. Đây là bậc học cơ sở đặt nền móng cho sự phát triển
của một Quốc gia. Mục tiêu giáo dục của bậc Tiểu học hiện nay: “ Hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ
sở…”
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tích cực thực hiện đổi mới phương
pháp dạy và học theo mô hình VNEN. Các Sở - Phòng Giáo dục đang thực hiện
dạy thử nghiệm mô hình trường học mới cho một số trường trên toàn quốc. Dự
án trường tiểu học mới VNEN được trường tôi thực hiện từ năm học 2012-2013.
Là một giáo viên trẻ, năm học 2014 - 2015 tôi được phân công trực tiếp giảng
dạy lớp 2 theo mô hình VNEN, tôi đã có những băn khoăn, bỡ ngỡ và xen lẫn
vào đó là sự hồi hộp, lo âu. Bởi lẽ bản thân tôi là một giáo viên trẻ, lại quen
thuộc với cách dạy học hiện hành. Hơn nữa học sinh lớp 2 còn quá nhỏ để có thể
thay đổi từ cách học dạy học truyền thống sang cách dạy học VNEN. Khi đi dự
tập huấn được hướng dẫn cách tổ chức lớp theo mô hình VNEN tôi rất lo lắng.
Tôi lo rằng các em học sinh lớp 2 còn quá nhỏ, liệu khi thành lập hội đồng tự
quản các em có tự quản được không? Lí thuyết nêu ra là vậy nhưng khi áp dụng
vào thực tế dạy học thì chất lượng ra sao? Làm thế nào để một nhóm có thể hoạt
động có hiệu quả dưới sự điều hành của nhóm trưởng?...Việc thực hiện đổi mới
về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học... mọi cái vẫn còn bỡ ngỡ vì thế
người giáo viên tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đổi mới
phương pháp dạy và học, hình thành phương pháp tự học, hình thành nhân cách
cho học sinh. Nhưng làm được điều đó không phải là dễ và đây là điều tôi luôn
trăn trở trong quá trình thực hiện dạy học theo mô hình VNEN.
Xuất phát từ nhận thức trên trong quá trình dạy học, bản thân tôi luôn tìm
hiểu, nghiên cứu về phương pháp, hình thức dạy học, vận dụng trực tiếp vào quá
trình giảng dạy. Vì vậy, trong năm học 2015-2016 tôi đã mạnh dạn viết sáng


kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp thực hiện dạy học theo mô hình trường
học mới VNEN đạt hiệu quả” để nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu.
Phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN khác phương
pháp dạy học hiện hành: Đây là mô hình dạy học không những đổi mới về tổ
chức lớp học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy học cả lớp sang dạy - học theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng
cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm
trung tâm trong các hoạt động dạy học, giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và
tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập
giáo viên tổ chức hoạt động học tập giúp học sinh vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ
năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự học, được thực hiện


phương pháp nghiên cứu. Giáo viên quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh
nghiệm của từng cá nhân và của tập thể học sinh để xây dựng bài học. Việc
nghiên cứu đề tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần đưa ra những giải
pháp, đem lại hiệu quả cho mô hình học mới VNEN.
- Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp thực hiện dạy học theo mô hình trường Tiểu học mới
VNEN đạt hiệu quả. Nghiên cứu học sinh lớp 3B Trường Tiểu học Ngọc Trạo,
Thị xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số nhóm phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài liệu có liên quan đến nội dung
đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát:
Thực hiện quan sát trong quá trình học tập trong lớp, ngoài giờ học tập, đặc
biệt theo dõi trong những giờ thảo luận nhóm của học sinh nhằm đánh giá thực

trạng, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học
theo nhóm.
- Phương pháp điều tra phỏng vấn:
Tiến hành thiết lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm và tự luận cho 1 số
nhóm học sinh và điều tra qua phiếu liên quan đến việc phân tích đánh giá việc
học của học sinh, hay thông qua phỏng vấn trực tiếp qua đó nắm bắt được thực
trạng.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
Thông qua các sản phẩm làm ra của học sinh như bài tập làm việc theo
nhóm, bài kiểm tra của học sinh hoặc bài làm cá nhân nhằm để phân tích, đánh
giá sản phẩm và nhận định đưa kết luận đúng khi dạy học.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Qua các hoạt động giáo viên ghi chép qua đó đúc rút kinh nghiệm, tổng
hợp đi đến kết luận
- Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề
nghiên cứu.


II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Dạy học theo nhóm đây là mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp
với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng học dạy
theo mô hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện linh
động với đồ dùng dạy và học sẵn có để HS tham khảo; góc đồ dùng học tập, góc
cộng đồng, góc trưng bày sản phẩm... Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học theo nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, học tập mang tính tương
tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền thụ của GV thành
việc hướng dẫn HS tự học. Lớp học do HS tự quản và được tổ chức theo các
hình thức như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm,

trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi
trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn
bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô,
phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Học sinh khá giỏi được phát huy, học
sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp
thời ngay tại lớp. Ở đây được coi là một phương pháp dạy học. Những người
tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và phối hợp lẫn
nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm HS. HS trong
nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự
phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm
cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của
những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các
thành viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh
thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể hiện, tự khẳng định khả năng
của mình nhiều hơn. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và
như vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội
hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt
động mang bầu không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở
cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. HS có cơ hội được tham
gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và
có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình
trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia
hoạt động, đặc biệt giữa giáo viên và học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường tôi đang đóng trên địa bàn phường Ngọc Trạo, thị xã Bỉm Sơn đời
sống kinh tế của người dân tuy đã có nhiều cải thiện nhưng trình độ văn hóa,
nhận thức của người dân không đồng đều thì việc học của học sinh vẫn là một
điều hết sức trăn trở.Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra với tất
cả các cấp học trong hệ thống giáo dục. Đặc biệt khi chúng ta tiến hành đổi mới
chương trình và sách giáo khoa thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã diễn

ra rộng khắp trong ngành giáo dục toàn quốc.Tuy nhiên việc đổi mới phương
pháp dạy học theo mô hình VNEN đang thực nghiệm chưa được thực hiên đồng


bộ ở các trường học, cấp học, các vùng miền trong cả nước.
a.Thuận lợi:
- Mặc dù việc thực hiện mô hình VNEN đang là thực nghiệm tuy nhiên môi
trường giáo dục nhà trường đảm bảo dân chủ, thân thiện, đổi mới các hoạt động
giáo dục đủ các điều kiện cho việc triển khai chủ trương thực hiện việc làm đổi
mới của nhà trường.
- Nhà trường đã chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên theo hướng
tự học, tự bồi dưỡng, tự làm đồ dùng dạy học, chia sẻ học hỏi kinh nghiệm đồng
nghiệp qua sinh hoạt chuyên môn tại tổ, trường. Giáo viên hướng dẫn học sinh
sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự đánh giá, tổ chức cho học sinh hoạt
động khám phá, phát hiện kiến thức, kĩ năng nói thông qua chương trình học tập
mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hỗ trợ học sinh và hướng dẫn học sinh khi cần
thiết.
- Đa số học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu hướng dẫn học và đồ dùng
học tập.
- Học sinh trong lớp và trường thích học mô hình này.
- Bản thân giáo viên thích nghiên cứu sâu và dạy học theo nhóm học sinh
có hiệu quả.
- Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1 tức là SGK, sách
giáo viên và vở bài tập cùng trong một quyển, điều đó rất tiện cho GV và HS
trong hoạt động dạy và học.
- Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo
viên sang hoạt động học của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy truyền
thống sang phương pháp học tích cực của học sinh.
b. Khó khăn:
1. Về phía giáo viên:

- Hiện nay nhà trường thiếu biên chế giáo viên cho dạy học 2 buổi/ ngày
nên giáo viên phải dạy quá số tiết quy định dẫn đến không có đủ thời gian để
chuẩn bị đồ dùng dạy học.
- Một số giáo viên có đôi lúc chưa bao quát, kiểm soát hết được hoạt động
của các nhóm trong tiết học. Việc dạy theo mô hình này đòi hỏi nhiều thời gian:
Một lớp học đông với thời gian giảng dạy từ 35 đến 40 phút học một tiết là một
trở ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công. Nếu như giáo viên không kiểm
soát cẩn thận tương tác giữa HS trong nhóm, thì một vài HS có thể lãng phí thời
gian vào việc thảo luận những vấn đề không liên quan hoặc có thể xảy ra trường
hợp là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong
nhóm không tham gia thảo luận mà lại quan tâm đến vấn đề khác…trong nhóm
và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua quá mức.
Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng và một vài em có thể cảm
thấy không thoải mái với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm và sự bình
xét của các bạn.
2. Về phía học sinh:
- Một số nhóm trưởng chưa mạnh dạn, tự tin để lãnh đạo nhóm mình hoạt động


dẫn đến kết quả hoạt động của nhóm chưa cao.
- Học theo mô hình VNEN đa số học sinh làm việc nhóm nếu các em không có
ý thức tự quản tốt thì nhóm hoạt động sẽ không hiệu quả.
- Còn một vài học sinh trong lớp chưa tự giác, tích cực trong quá trình tự học.
3. Về phía phụ huynh.
- Ban đầu khi áp dụng mô hình VNEN còn một vài phụ huynh lo lắng khi con
học mô hình học mới. Họ lo khi con ngồi học vào một nhóm từ 4 - 6 học sinh thì liệu
có thể tiếp thu được kiến thức...
- Do bận công việc hoặc điều kiện công tác, làm ăn xa nên không có thời gian
quan tâm, giúp đỡ con em trong phần bài tập ứng dụng của mỗi bài học.
* Kết quả khảo sát đầu năm học 2015 – 2016 của lớp 3B lớp tôi dạy như sau:

Môn
Toán
Tiếng Việt

Hoàn thành
SL
TL
32
84%
30
79%

Chưa hoàn thành
SL
TL
6
16%
8
21%

Với thực trạng trên và để đáp ứng yêu cầu về đổi mới PPDH
cũng như vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục học sinh, tôi đã
mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: ''Một số giải pháp thực hiện dạy học
theo mô hình trường học mới VNEN đạt hiệu quả''.
2.3. Các giải pháp.
Ngay từ khi bắt đầu thực hiên dự án trường chúng tôi đã vận dụng phương
pháp dạy học theo mô hình VNEN. Qua một thời gian giảng dạy tôi đã mạnh
dạn nghiên cứu sáng kiến “Một số giải pháp thực hiện dạy học theo mô hình
trường học mới đạt hiệu quả” và có những giải pháp như sau:
2.3.1. Giải pháp 1: Xây dựng lớp học thân thiện.

a.Tăng cường công tác trang trí lớp học:
Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em thêm yêu
trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó. Việc trang trí lớp học thân thiện
là một sự sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các em nhận
thức về cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp, góp thêm
cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say
trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy, tôi đã kết hợp với
phụ huynh và học sinh để tổ chức trang trí lớp học. Tôi đã hướng dẫn cho phụ
huynh và học sinh làm các công cụ, đồ dùng trang trí lớp học.
- Hộp thư vui:
Đây là nơi hội tụ những cảm xúc của các thành viên trong lớp. Ngay lập
tức, góc nhỏ đáng yêu ấy tạo nên hiệu ứng sôi nổi tới các bạn học sinh. Mỗi buổi
sáng, những lá thư với dòng chữ còn hơi nguệch ngoạc nhưng chất chứa bao tình
cảm sâu lắng, những mảnh giấy nhỏ bé, rồi cả hình vẽ ngộ nghĩnh đáng yêu về
bạn bè trong lớp, những bức ảnh ghi lại khoảnh khắc của lớp .


- Hòm thư điều em muốn nói:
Mục đích nhằm giúp cho học sinh có cơ hội bày tỏ ý kiến, những điều em
không tiện nói trước lớp, những ý kiến, những chia sẻ về cuộc sống, hoàn cảnh
gia đình, về tâm sinh lý….Giúp cho học sinh bày tỏ tất cả những vướng mắc
trong cuộc sống và trong học tập, các em viết một bức thư nhỏ và gửi vào hòm
thư của lớp. Cuối mỗi tuần giáo viên sẽ mở hòm thư phân loại và có cách xử lý
cho từng vấn đề học sinh đặt ra, có thể phối hợp với gia đình, nhà trường, địa
phương để có cách giải quyết tế nhị và có hiệu quả nhất.
- Góc cộng đồng:
Giáo viên và học sinh sưu tầm, giới thiệu về văn hóa lịch sử của địa
phương, dân tộc, các tác phẩm thơ ca hò vè, trò chơi dân gian….Các sản phẩm
của địa phương làm ra. Chính hoạt động này kích thích các em hứng thú tìm tòi,
sưu tầm, giới thiệu và qua đó cũng sẽ giúp các em thêm yêu văn hóa, lịch sử

truyền thống một cách tự nhiên, bền vững.
- Thư viện lớp học:
Là tủ sách thân thiện có sự đóng góp của phụ huynh, học sinh, giáo viên, có
sự giúp đỡ của nhà trường và địa phương tạo điều kiện cho các em ham đọc
sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả năng đọc cho các em. Rèn kĩ năng sống
có trách nhiệm, có ý thức bảo quản tài sản chung, có thói quen sống gọn gàng,
ngăn nắp. Ngoài việc đọc sách tăng thêm vốn tri thức, học sinh còn tham gia các hoạt
động giới thiệu quyển sách của em do giáo viên phụ trách lớp hướng dẫn, giúp các em
tự tin hơn, diễn đạt tốt hơn. Đây là một trong những kĩ năng sống rất cần thiết cho học
sinh sau này.
- Bảng theo dõi chuyên cần, bảng theo dõi thi đua:
Phản ánh rõ ràng, chính xác, công khai kết quả học tập, đi học chuyên cần
của mỗi nhóm, cá nhân học sinh. Việc tuyên dương cá nhân, nhóm trong mỗi giờ
chào cờ đầu tuần kích thích học sinh tích cực, tự giác học tập để đạt được kết
quả cao hơn.
Giáo viên luôn thân thiện, gần gũi với học sinh, những lời nhắc nhở nhẹ
nhàng của giáo viên sẽ đạt được kết quả cao. Viết câu nhắc nhở hóm hỉnh như:
“Cho tôi xin rác!” được dán trước mặt thùng rác nơi HS dễ thấy. Hay câu: “Ai ơi
xin chớ vội vàng - Tắt đèn, rút điện, rõ ràng trò ngoan !” Xây dựng đủ các góc
học tập, các bảng, biểu mẫu đúng qui định của lớp VNEN.
b.Thành lập ban hội đồng tự quản làm việc có hiệu quả.
Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh, tìm hiểu kĩ về
từng học sinh của lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm
học. Xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh nhiệt tình có năng lực chỉ đạo
lớp.
Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp
mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo
nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt
động dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất



để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập.
Ngoài ra mô hình trường Tiểu học kiểu mới giúp học sinh rèn phương pháp
tự học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác, tự rèn luyện kỹ
năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui
hứng thú học tập cho học sinh.
Hội đồng tự quản học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự
phát triển về đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những kinh
nghiệm hoạt động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với
những người xung quanh.
Cách lập hội đồng tự quản của học sinh theo sơ đồ sau:
HỘI ĐỒNG TỰ
QUẢN HỌC SINH
CHỦ TỊCH HĐTQ

PHÓ CT HĐTQ

PHÓ CT HĐTQ

BAN
HỌC TÂP

BAN
THƯ VIỆN

BAN
QUYỀN
LỢI
HỌC SINH


BAN
ĐỐI
NGOẠI

BAN
SỨC KHỎE
VỆ SINH

BAN
VĂN
NGHỆ
TDTT

Sự thay đổi của tổ chức lớp học theo mô hình VNEN với Hội đồng tự
quản học sinh đã thay đổi căn bản vai trò, nhiệm vụ của học sinh trong tổ chức
của mình; thể hiện được tính tự chủ, tự giác, phát huy sáng tạo và tôn trọng ý
kiến của các em nhiều hơn. Nhóm là một bộ phận gắn kết cơ bản xuyên suốt cả
quá trình dạy và học nó tạo điều kiện để rèn luyện các kĩ năng và hợp tác của
nhóm.
c. Phát huy vai trò của một nhóm trưởng:
Học theo mô hình VNEN, bàn ghế sẽ được sắp xếp thành các nhóm từ 4 - 6
học sinh. Học sinh tự thảo luận, tự tìm vướng mắc và tự đưa ra phương án giải
quyết.
Ưu điểm của phương pháp học nhóm được phát huy rất rõ nét trong học
nhóm theo mô hình VNEN, tất cả học sinh trong nhóm đều được luân phiên
nhau làm nhóm trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt
động do giáo viên yêu cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc,
không một học sinh nào ngồi chơi. Tuy nhiên để tiết học dạy theo mô hình
VNEN thành công hay không thì phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm trưởng. Và



công việc chính của nhóm trưởng đó là: thay giáo viên điều hành các bạn hoạt
động nhóm. Xác định được mục tiêu của hoạt động nhóm. Phân công nhiệm vụ
cho công bằng giữa các thành viên trong nhóm.
Một điều quan trọng nữa đó là nhóm trưởng phải biết tự mình làm thế nào
để huy động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ
nhóm và phải tạo ra những tương tác đa chiều giữa các thành viên trong nhóm.
Hướng dẫn các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó
khăn gặp phải. Biết quản lí và sử dụng thời gian hiệu quả, biết sử dụng và bảo
quản tài liệu học tập. Biết tổ chức và quản lí công việc. Biết giơ thẻ khi đã hoàn
thành công việc và biết giơ thẻ cứu trợ khi không tự giải quyết được công việc.
Cách 1: Vào cuối hoặc đầu mỗi buổi học giáo viên cần mời các nhóm
trưởng ngồi lại tạo thành một nhóm và hướng dẫn các em cụ thể từng bước một.
Ví dụ: Sau khi đã ghi xong đề bài nhóm trưởng điều khiển các bạn đọc
mục tiêu:
- Nhóm trưởng nói to đủ cho cả nhóm nghe (Mời các bạn đọc mục tiêu.
Bạn nào đọc xong thì giơ tay lên)
- Nhóm trưởng nói: Mình mời bạn A đọc mục tiêu thứ nhất.
- Mời bạn B đọc mục tiêu thứ hai….
(Sau khi các bạn trong nhóm mình đọc xong thì giơ thẻ hoàn thành lên để
giáo viên biết đến kiểm tra).
Cách 2: Đối với những nhóm còn yếu, nhóm trưởng làm việc còn lúng
túng. Vì vậy, người giáo viên phải là người “làm mẫu” và đóng vai trò là một
nhóm trưởng chứ không phải vai trò là một người giáo viên.
Cách 3: Giáo viên chọn ra một số học sinh học giỏi, nhanh nhẹn trong học
tập xếp cho các em này ngồi vào một nhóm để giáo viên huấn luyện khi học sinh
đã biết việc và biết cách điều hành nhóm rồi thì chia các bạn này đến mỗi nhóm
mỗi bạn làm nhóm trưởng các nhóm.
Cách 4: Có thể cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một hoạt động nào

đó và các nhóm còn lại chú ý để học tập theo. GV cũng không quên động viên,
tuyên dương kịp thời các nhóm làm tốt.
- Một điều nữa cần phải lưu ý đó là vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm
thảo luận cũng hết sức quan trọng. Qua kinh nghiệm giảng dạy, tôi nhận thấy
giáo viên nên bao quát lớp, vừa đánh giá đúng nhóm nào làm nhanh nhất, chậm
nhất, nhóm nào giơ thẻ hoàn thành lên trước hoặc nhóm nào chậm nhất, nhóm
nào giơ thẻ cần cứu trợ, để từ đó giáo viên kịp thời đến kiểm tra hay giúp đỡ.
d. Xây dựng tập thể lớp hoà đồng trong giờ giải lao.
Muốn xây dựng được mối đoàn kết giữa các bạn trong lớp với nhau, thì vai
trò của hội đồng tự quản cũng không kém phần quan trọng đặc biệt là ban văn
nghệ của lớp. Ban văn nghệ dưới sự hướng dẫn của giáo viên, vào giờ ra chơi
ban văn nghệ tự tổ chức, tự khởi xướng ra các hoạt động, các trò chơi và giáo
viên cùng tham gia chơi với học sinh. Trước khi chơi, giáo viên thường đưa ra
những giải thưởng thú vị, giải nhất có thể là gói bánh, gói kẹo, hộp phấn…. để
kích thích tinh thần chơi của các em.


Ví dụ: Trò chơi “Kéo co” không chỉ đòi hỏi sức mạnh, sự khéo léo mà còn
đòi hỏi tinh thần đoàn kết cao. Nếu như không có sự hợp tác - đoàn kết cao thì
chắc chắn sẽ thua cuộc.
Qua trò chơi, giáo viên vừa giúp ban văn nghệ thêm mạnh dạn, tự tin, rèn
luyện thêm kỹ năng điều hành lớp vui chơi, văn nghệ, vừa giúp các em thể hiện
sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thông qua những giờ giải trí thú vị ấy, HS càng thân thiết, quý mến nhau hơn và
chắc chắn rằng các em sẽ sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn trong học tập
cũng như trong cuộc sống.
Như vậy xây dựng lớp học tự quản là việc làm cần thiết của bất cứ giáo
viên nào, người giáo viên cần chủ động đóng vai trò là người cố vấn, hướng dẫn,
điều khiển từ xa trợ giúp học sinh nuôi dưỡng ý thức, tạo dựng môi trường tự
quản. Bởi vì chỉ có học sinh, chính các em chứ không phải ai khác mới là người

có quyền lợi và trách nhiệm gắn bó, xây dựng, điểm tô cho lớp học - ngôi nhà
thứ hai của mình trở lên thân thiện, gần gũi và đẹp hơn trong mắt mọi người.
Học theo nhóm là chủ yếu, học ở trong lớp và cả ở ngoài lớp học.
2.3.2. Giải pháp 2: Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên
a. Người giáo viên phải hiểu đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình
VNEN là như thế nào?
Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của
VNEN mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các
thành viên trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho
giáo viên và học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực
của các em.
Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó
là tổ chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy trình thông qua
các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của HS, quy trình gồm 5 bước
chủ yếu sau:
Gợi động cơ, tạo hứng thú  Trải nghiệm  Phân tích, khám phá,rút ra
bài học  Thực hành  vận dụng.
Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải tự thiết kế,
đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức, phân
tích kiến thức và sử dụng kiến thức.
Chẳng hạn:
Bước1: Tạo hứng thú cho học sinh.
Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú
của học sinh về chủ đề sẽ học. Giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để lựa
chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện,
một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác…..
Ví dụ : Bài 5: Ôn tập các bảng nhân và bảng chia ( tài liệu HDH Toán lớp 3 trang 15)
Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “Kết bạn”. Các em sẽ biết
nếu “kết 4” mà lớp mình có 24 bạn thì sẽ thành lập được 6 nhóm, nếu “kết 5” thì



lớp mình sẽ thành lập được 4 nhóm còn dư 4 bạn ( bạn bị dư sẽ bị phạt). Thông
qua trò chơi, HS sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi
với bản thân, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú
trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới.
b. Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên:
- Tăng cường việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ thuật
dạy học để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy học
với các tình huống thực tiễn cũng như để giải quyết các chủ đề phức hợp của
thực tiễn. Trước tiên mỗi giáo viên phải nắm chắc các phương pháp dạy học tích
cực và các kỹ thuật dạy học tích cực được áp dụng rộng rãi ở nhiều vùng miền
và đã mang lại kết quả cao đó là:
- Các phương pháp dạy học tích cực:
+ Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề
+ Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ.
+ Phương pháp trò chơi
+ Phương pháp đóng vai
- Các kỹ thuật dạy học tích cực
+ Kĩ thuật hỏi và trả lời
+ Kĩ thuật khăn trải bàn
+ Kĩ thuật mảnh ghép
+ Kỹ thuật KWL: thực hiện nghiên cứu và học tập
+ Kỹ thuật trình bày một phút
Trao đổi với đồng nghiệp, chuyên môn để tuỳ theo theo từng môn, từng
bài, từng lớp tuỳ theo từng hoạt động để vận dụng phương pháp dạy học nào, kỹ
thuật dạy học nào cho phù hợp đặc biệt gắn bài học với thực tế cuộc sống để học
sinh nhớ lâu, không bị gò ép.
Mỗi giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng để biết cách khai thác những yếu
tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống một cách phù hợp và có

hiệu quả, đồng thời đưa các quan điểm, phương pháp dạy học theo mô hình
VNEN, tạo điều kiện cần thiết để giáo viên có thể thực hiện được sự chuyển
biến về các hoạt động dạy và học, chuyển từ lối truyền thụ kiến thức một chiều
sang việc tổ chức các hoạt động tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình
thành năng lực tự học, năng lực sáng tạo của học sinh, đổi mới các hình thức tổ
chức dạy học. Bồi dưỡng năng lực tổ chức dạy học theo nhiều hình thức đa
dạng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi (cả tinh thần và vật chất) cho giáo
viên và học sinh để tổ chức một cách hiệu quả các hoạt động dạy học. Cụ thể
như sau :
* Tổ chức dạy học phân hoá theo năng lực của học sinh dựa trên tài liệu
hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng.
Tài liệu chuẩn kiến thức giúp cho giáo viên chủ động lượng kiến thức cho bài
dạy. Bởi vậy khi thực hiện giảng dạy tôi đã phân loại học sinh theo năng lực thông
qua kết quả học tập. Khi thấy lượng kiến thức quy định theo chuẩn kiến thức kỹ
năng ở một số tiết không phù hợp tôi đã mạnh dạn đề xuất với tổ chuyên môn,


nhà trường có phương án điều chỉnh phù hợp.
* Sử dụng tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp, khắc phục
dạy học theo lối đọc, chép:
Khi thực hiện dạy học theo mô hình VNEN việc sử dụng tài liệu hướng dẫn
học làm phương tiện dạy học là hết sức cần thiết. Giáo viên chú trọng khai thác
đầy đủ nội dung tài liệu hướng dẫn học và cập nhật thêm kiến thức các nội dung
tích hợp như giáo dục môi trường, giáo dục môi trường biển đảo, giáo dục kỹ
năng sống...
* Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin trong các bài học, khai thác tối đa
thiết bị dạy học.
Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho tiết dạy thêm sôi động, thu hút sự
tập trung của học sinh. Giáo viên thật sự phải có kiến thức về ứng dụng công
nghệ thông tin, sử dụng thành thạo máy, nếu không sẽ phản tác dụng khi thực

hiện.
Bên cạnh đó, để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì giáo viên
phải phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo dục
của nhà trường. Ngoài ra, bản thân mỗi giáo viên phải có quyển sổ dự kiến kế
hoạch dạy học ghi lại những thành công hoặc những khó khăn vướng mắc khi
thực hiện các bước dạy học trên lớp.
- Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp dạy
học. Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề
của tổ của trường để học tập về đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần
VNEN.
- Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn, vướng
mắc như: biện pháp để học sinh học nhóm tốt, biện pháp để giúp em nhóm
trưởng có thể điều khiển tốt các hoạt động học tập của nhóm, hoặc biện pháp về
đổi mới phương pháp dạy học của một hoạt động nào đó ở một bài dạy cụ
thể…..trong tổ sẽ cùng nhau thảo luận để tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
- Thường xuyên tự học hỏi qua sách báo, thông tin đại chúng, qua đồng
nghiệp thông qua các tiết học tốt, chuyên đề, thao giảng, tự tìm kiếm những
thông tin trên mạng nhằm nâng cao tay nghề, tìm ra phương pháp giảng dạy cho
phù hợp với đối tượng học sinh.
2.3.3. Giải pháp 3: Đổi mới về cách học của học sinh.
Trước hết giáo viên phải rèn cho học sinh các kĩ năng làm việc có hiệu quả
ngay từ đầu năm học. Để thực hiện có hiệu quả phương pháp dạy học theo mô
hình VNEN người giáo viên cần chú trọng rèn cho học sinh một số kĩ năng học
tập. Trước hết phải rèn cho học sinh kĩ năng tự học theo nhóm. Mỗi hướng dẫn
học trong sách bao gồm một chuỗi các hoạt động được thiết kế nhằm giúp học
sinh tự học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các chỉ dẫn, trong bài học. Vì vậy,
trước hết người giáo viên cần quan tâm luyện tập cho học sinh các kĩ năng sau:
- Kĩ năng đọc - hiểu tài liệu, giáo viên cần cho học sinh hiểu được các câu
lệnh, các chỉ dẫn, các yêu cầu, các loại dạng hoạt động học tập.
- Kĩ năng làm việc cá nhân, khi học sinh hoạt động cá nhân giáo viên phải



rèn cho học sinh ý thức tập trung suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân,
tự mình trình bày ý kiến cá nhân và tự đánh giá kết quả hoạt động của cá nhân.
- Kĩ năng làm việc hợp tác theo cặp, theo nhóm, giáo viên phải rèn cho học
sinh biết tổ chức hoạt động nhóm, nhận nhiệm vụ, lên kế hoạch, phân công, đảm
nhận trách nhiệm, phối hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành tốt
công việc của nhóm.
- Kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ở các góc học tập, sử dụng tài liệu tham
khảo ở thư viện trong lớp học.
- Kĩ năng tự học ở môi trường xung quanh, gia đình và cộng đồng.
Đồng thời giáo viên phải rèn cho học sinh có được nhận thức đúng đắn về
mục đích học tập và tự lực, tích cực thực hiện mục đích đó bằng hành động của
chính mình. Học sinh được học tập theo khả năng và nhịp độ của riêng mình phù
hợp với trình độ nhận thức của cá nhân học sinh. Vì vậy, kế hoạch dạy học cần
được bố trí một cách linh hoạt. Mỗi học sinh được giao nhiệm vụ và mục tiêu
học tập cụ thể, nhưng luôn có thể tự điều chỉnh hoạt động của chính mình để
việc học phù hợp với nhịp độ tiếp thu của bản thân.
Hoạt động tự học của học sinh vừa rèn luyện tính độc lập tích cực của học
sinh, đồng thời thúc đẩy sự tham gia hợp tác, tăng cường ý thức tập thể của học
sinh .
Việc học tập tích cực trong nhóm cũng hình thành cho các em kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng ra quyết định… trước khi đưa ra vấn đề, tạo sự tương tác thân
thiện giữa các bạn cùng nhóm, luôn có thái độ hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau. Tăng
cường tính tích cực, chủ động, linh hoạt hơn và học sinh thật sự tham gia vào
quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Tuy nhiên để học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng và thuận tiện cho giáo viên
trong tổ chức trong hoạt động tự học, học sinh thực hiện 10 bước học tập sau:

Với hình thức học nhóm trong quá trình học tập, học sinh có nhiều cơ hội



độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội
phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm, được tranh luận, tự đánh giá bản thân
và đánh giá các bạn. Học sinh đã quen với học nhóm; tự điều khiển hoạt động
trong nhóm từ đó đã giúp học sinh có ý thức để chủ động trong học tập. Học
sinh đã thể hiện được khả năng của mình khi điều khiển và có thể hướng dẫn các
bạn khác học, giúp cho việc tổ chức hướng dẫn luôn chỉ là của cô giáo như trước
đây. Một điều dễ nhận thấy, đó là học sinh đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo
hơn trong học tập, tư duy độc lập, hợp tác để phát hiện chiếm lĩnh kiến thức bài
học.
2.3.4. Giải pháp 4: Đánh giá động viên khuyến khích học sinh kịp thời
Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải được xem như là
một bộ phận không chỉ của cả quá trình dạy học mà là một bộ phận của mỗi hoạt
động học tập. Kiểm tra đánh giá phải được tiến hành thường xuyên, liên tục
ngay trong quá trình thực hiện mỗi hoạt động học tập để kịp thời khuyến khích,
động viên và nhất là giúp các em điều chỉnh những sai sót để hoạt động học tập
có hiệu quả. Để đánh giá học sinh học theo mô hình VNEN giáo viên cần kết
hợp hai hình thức đánh giá: Đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì. Việc
đánh giá hoạt động chủ yếu do học sinh thực hiện, học sinh tự đánh giá. Có
những hoạt động học sinh tự đánh giá trong cặp, trong nhóm bằng cách đổi bài
cho nhau để cùng rà soát xem kết quả nào đúng và đủ, kết quả nào chưa đúng và
còn thiếu. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá chéo giữa các nhóm. Có
những hoạt động học sinh cùng giáo viên đánh giá theo những tiêu chí giáo viên
đã nêu.
Giáo viên luôn tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau trong học
tập, để từ đó các em thấy được những việc làm đúng và việc làm sai, những điều
mình cần phải học tập bạn để phát huy và khắc phục. Không nên chê các em
trước các bạn khi các em mắc phải những khuyết điểm như bài làm sai, chữ viết
chưa đẹp… Những em có khuyết điểm giáo viên nên trực tiếp trò chuyện và

nhắc nhở.
Trên đây là những giải pháp mà bản thân tôi đã đúc rút và vận dụng trong
quá trình thực hiện dạy học theo mô hình trường học kiểu mới và đã đạt được
hiệu quả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua một thời gian áp dụng phương pháp trên, bản thân tôi nhận thấy công
tác tự quản trong lớp học mang lại những lợi ích cụ thể, sát thực như sau:
- Khi theo học mô hình trường học mới VNEN, tôi thấy rằng học sinh đã
cởi mở, mạnh dạn tự tin hơn. Không còn sự rụt rè trong giao tiếp nữa mà thay
vào đó là sự chủ động, tự tin. Học sinh đã sẵn sàng chia sẻ suy nghĩ của bản thân
với bạn bè, cha mẹ, thầy cô và mọi người xung quanh. Từ đó giúp các em có kĩ
năng ứng xử các tình huống trong giao tiếp, trong cuộc sống các em biết cách
động viên, an ủi, chia sẻ với mọi người.
- Học sinh đều được trình bày ý kiến, tự các em tìm ra tri thức, giúp các em


nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn.... Hơn nữa còn phát triển những kĩ
năng xã hội như: biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết trình bày ý kiến
của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến.....
- Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong
trào thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc
theo nhóm hiệu quả cao hơn.
- Học sinh tự giác trong việc tự học, trình bày bài trong vở. Học sinh phát
huy được tối đa khả năng, năng lực của mình.
Qua việc dạy học theo nhóm tôi thấy học sinh lớp tôi mạnh dạn, tự tin hơn
trước rất nhiều. Đồng thời kết quả học tập 2 môn Toán, Tiếng Việt của lớp tôi
được nâng lên rõ rệt. Qua kiểm tra, đánh giá chất lượng, kết quả chất lượng giữa
HKII thu được như sau:


Toán

Hoàn thành
SL
TL
38
100%

Tiếng Việt

38

Môn

100%

Chưa hoàn thành
ST
TL
0
0

- Giáo viên đã chủ động hơn trong quá trình dạy học, bao quát lớp và kiểm
soát được hoạt động của học sinh.
- Giáo viên hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của các em để có thể
phối hợp cùng với gia đình, nhà trường mang đến cho các em những gì tốt đẹp
nhất.
- Mô hình trường học mới đã xây dựng được mối liên hệ chặt chẽ, tương
tác giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Qua các hoạt động ngoại khóa ở
trường như: Hội chợ quê em, thời trang học đường, cuộc thi tiếng hát và kể

chuyện học sinh..thì mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường ngày càng gắn
chặt.
Sau gần hai năm trực tiếp dạy học theo mô hình VNEN, giờ đây tôi đã tan
biến cảm giác lo âu mà thay vào đó là niềm vui sự nhiệt huyết trong công việc.
Mô hình trường học mới VNEN đã mang đến cho thầy trò trường tôi nhiều sự
thay đổi to lớn. Qua đó tôi tin rằng trường tiểu học Ngọc Trạo của chúng tôi sẽ
ngày càng vững mạnh và mô hình trường học mới VNEN sẽ được triển khai
rộng rãi trên khắp cả nước góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, hướng tới
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà.


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
Qua gần 2 năm tiếp cận và vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp
dạy học theo mô hình trường học kiểu mới nói trên bản thân tôi nhận thấy việc
đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học nói chung và các khối lớp dạy
theo mô hình trường học kiểu mới nói riêng là rất cần thiết. Qua quá trình thực
hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương
pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ động, tinh thần
hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học sinh. Học
sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực tự học,
năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt các kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng ứng xử...tạo được một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái.
Chất lượng học tập ngày càng cao.
2. Kiến nghị:
- Đề nghị cấp trên tạo điều kiện để nhà trường có đủ biên chế giáo viên dạy
học 2 buổi/ngày.
- Rất mong những điểm mạnh về mô hình VNEN được phát huy, nhân rộng
trong những năm học tới.
Và cuối cùng, kính chúc sức khỏe đến với các thầy cô trong hội đồng

chấm sáng kiến kinh nghiệm. Tôi rất mong muốn nhận được sự đóng góp của
các đồng chí để sáng kiến kinh nghiệm này hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị.

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm
2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Huyền


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới - NXBGDVN
2. Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học mới, Tập 1- NXBGDVN
3. Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học mới, Tập 2 NXBGDVN
4. Các phương pháp dạy học hiệu quả. - NXBDGVN.




×