Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN kinh nghiệm xây dựng và quản lý lớp chủ nhiệm đạt hiệu quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ LỚP CHỦ NHIỆM
ĐẠT HIỆU QUẢ CAO

Người thực hiện: Lê Thị Hoa
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ, NĂM 2017


MỤC LỤC
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................... 1
1.1 Lí do chọn đề tài ………….………………………………..……....... 1
1.2 Mục đích nghiên cứu ………….…………………………..……........ 1
1.3 Đối tượng nghiên cứu………….…………………………………...... 1
1.4 Phương pháp nghiên cứu………….……………………………........ 1
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ……………………....... 2
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài …………………………………………....... 2
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ........ 2
2.3 Một số kinh nghiệm xây dựng và quản lý lớp chủ nhiệm đạt hiệu
quả cao …………………………………………………………................ 3
2.3.1 Khi nhận lớp chủ nhiệm ..................................................................... 3
2.3.2 Trong công tác tuyên truyền ............................................................... 4
2.3.3 Trong công tác thu thập và xử lí thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm


để xây dựng hồ sơ học sinh............................................ ............................. 4
2.3.4 Trong công tác xây dựng kế hoạch chủ nhiệm ................................... 5
2.3.5 Trong công tác xây dựng lớp học tự quản........................................... 5
2.3.6 Trong công tác xây dựng và phát triển tập thể học sinh ..................... 6
2.3.7 Trong công tác nâng cao thành tích học tập của học sinh ................. 7
2.3.8 Trong công tác tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, rèn luyện,
bảo vệ sức khoẻ ........................................................................................... 7
2.3.9 Trong công tác tổ chức giờ sinh hoạt lớp ........................................... 8
2.3.10 Trong công tác phối hợp của giáo viên chủ nhiệm lớp với các lực
lượng giáo dục trong nhà trường và gia đình học sinh................................. 10
2.3.11 Trong công tác tổ chức các buổi thảo luận về kĩ năng sống của học
sinh THPT ................................................................................................... 10
2.3.12 Trong công tác đánh giá, xếp loại học sinh ...................................... 11
2.3.13 Trong công tác khen thưởng và xử phạt ........................................... 11
2.4 Hiệu quả áp dụng đề tài …………………………….......……........... 12
2.4.1 Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục học sinh …………............... 12
2.4.1.1Về
đạo 12
đức ........................................................................................
2.4.1.2
Về
học 13
tập ........................................................................................
2.4.1.3 Về lao động ..................................................................................... 14
2.4.1.4
Về
hoạt
động 14
đoàn............................................................................
2.4.1.5 Về hoạt động ngoài giờ lên lớp........................................................ 14

2.4.1.6 Về hoạt động sinh hoạt lớp............................................................... 15
2.4.1.7 Về kĩ năng sống................................................................................ 16
2.4.1.8 Hiệu quả của sự phối kết hợp giữa GVCN và gia đình học
sinh............................................................................................................... 16
2.4.1.9 Tổng hợp các thành tích cấp tỉnh của cá nhân và tập thể lớp B2
đạt được trong 2 năm học............................................................................. 17


2.4.1.10 Tổng hợp xếp loại thi đua toàn diện của lớp B2............................
2.4.2 Hiệu quả đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường ……...........
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ..................................................................
3.1 Kết luận ................................................................................................
3.2 Những kiến nghị, đề xuất ....................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI TỪ C
TRỞ LÊN
PHỤ LỤC

17
18
18
18
18


1. PHẦN MỞ ĐẦU.
1.1 Lí do chọn đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” . Như vậy, con người
muốn phát triển toàn diện thì cần phải có cả tài lẫn đức.

Thực tế đã chứng minh, sự thành đạt của một thế hệ cũng như sự hưng
thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả của hoạt động giáo dục, đặc
biệt là với thời đại ngày nay - thời đại hội nhập kinh tế, công nghệ thông tin
phát triển nhanh như vũ bão thì giáo dục lại càng trở nên cấp thiết... [4]. Vậy
làm thế nào để người chủ tương lai và đất nước có cả đức lẫn tài? Làm thế
nào để sự nghiệp trồng người mang lại kết quả cao? Đây chính là trách nhiệm
chung của toàn xã hội và tất cả những những người đang tham gia làm công
tác giáo dục, đặc biệt là giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp - người trực
tiếp, thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với học sinh và cũng là người mà các em
luôn kính trọng, yêu quý, xem như là người cha, người mẹ thứ hai của mình.
Khác với hoạt động dạy học, hoạt động chủ nhiệm lớp mang tính giáo dục
đạo đức, tác phong, tinh thần tập thể đoàn kết... nhằm đạt tới sự phát triển
toàn diện nhân cách và kiến thức cho học sinh, góp phần quan trọng vào "sự
nghiệp trồng người"[4]. Vì thế khi làm công tác giáo viên chủ nhiệm(GVCN),
tôi luôn tìm mọi biện pháp để gần gũi, thân thiện, động viên, giúp đỡ học sinh
trong việc rèn luyện đạo đức, tác phong, lối sống và ý chí phấn đấu vươn lên
trong học tập cho các em. Mặt khác, tôi còn tổ chức xây dựng, quản lý toàn
diện cũng như có nghệ thuật ứng xử sư phạm phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý
và trình độ nhận thức của học sinh thuộc phạm vi lớp của mình phụ trách. Tôi
cũng luôn tìm tòi, đưa ra những biện pháp quản lý phù hợp, luôn công bằng,
công khai trước học sinh trong việc khen - chê - thưởng - phạt nhằm xây dựng
tập thể lớp vững mạnh, dân chủ, đoàn kết, có ý thức rèn luyện tốt, có thành tích
học tập cao, có tinh thần tập thể, tinh thần tự giác, có ý thức tổ chức kỷ luật và
có các kỹ năng sống phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Xuất phát từ những lí do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Kinh nghiệm xây dựng
và quản lý lớp chủ nhiệm đạt hiệu quả cao”.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng và đưa ra một số kinh nghiệm về biện pháp xây dựng và
quản lý lớp chủ nhiệm đạt hiệu quả cao, từ đó góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục ở Trường THPT Thọ Xuân 5 nói riêng và ở cấp học THPT nói chung.

1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Một số kinh nghiệm xây dựng và quản lý lớp chủ nhiệm đạt hiệu quả cao.
- Tập thể lớp B2 – Trường THPT Thọ Xuân 5.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp lí thuyết có liên quan đến thực tiễn:
Phương pháp này được tiến hành trên cơ sở tìm hiểu thu thập nghiên cứu phân
tích những thành tựu về lí thuyết đã có để làm tiền đề cho giả thuyết khoa học
mà mình đặt ra.
1


- Phương pháp điều tra khảo sát : Với phương pháp này, tôi chọn đối tượng
khảo sát là học sinh Trường THPT Thọ Xuân 5.
- Phương pháp thực nghiệm: Tôi chọn đối tượng thực nghiệm là học sinh lớp
B2 - Trường THPT Thọ Xuân 5 trong 2 năm học: 2015 – 2016 và 2016 – 2017 .
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sau khi khảo sát và thực nghiệm, tôi
tiến hành thống kê và xử lý các số liệu thu được liên quan đến đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1 Cơ sở lí luận của đề tài.
Trong hệ thống tổ chức của nhà trường phổ thông hiện nay, lớp học là đơn
vị cơ sở, mọi hoạt động của nhà trường đều được triển khai tại các lớp thông qua
mạng lưới giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm được Hiệu trưởng lựa
chọn từ những giáo viên có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín với học sinh, được
Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân công phụ trách những lớp học xác
định[1].
Đối với nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp sẽ là người thay mặt Ban
giám hiệu, thay mặt nhà trường chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn
diện của một lớp học sinh, một tập thể, một đơn vị hành chính của một trường
học. Giáo viên chủ nhiệm thường là giáo viên giảng dạy một môn học đồng thời

là người phụ trách, tổ chức, điều khiển mọi hoạt động của lớp, là nhân vật trung
tâm, là “linh hồn của lớp” [1].
Đối với học sinh, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi
nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và
các mối quan hệ ứng xử của các thành viên trong lớp phụ trách dựa trên đội ngũ
cán bộ lớp, cán bộ đoàn và tính tự giác của các học sinh.
Trong quan hệ với các lực lượng khác trong và ngoài nhà trường để phát
triển nhân cách học sinh, GVCN là cầu nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Xem xét về chức năng của GVCN, nhìn một cách tổng thể GVCN vừa có
chức năng lãnh đạo, tổ chức và quản lý, các chức năng này được tích hợp hài
hoà ở người GVCN. Người GVCN thực hiện chức năng quản lý khi đại diện cho
hiệu trưởng, Hội đồng nhà trường thực hiện các chủ trương kế hoạch chung của
trường, nhưng lại là người lãnh đạo khi phải xác định tầm nhìn cho sự phát triển
của học sinh trong lớp với tư cách là người đứng đầu tập thể lớp, lãnh đạo tập
thể lớp phát triển thành một tập thể thân thiện thực sự .
Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo viên chủ nhiệm tôi nhận thấy rằng bất
kì ai tham gia làm công tác chủ nhiệm cũng có một mong muốn làm thế nào để
học sinh của mình đạt được kết quả cao trong cả hai mặt trí dục lẫn đức dục. Do
vậy khi được phân công chủ nhiệm, bất kỳ giáo viên nào cũng sẽ đầu tư hết khả
năng, trí tuệ vào công tác giáo dục học sinh của mình với mong muốn để ngày
sau các em trở thành người có đủ đức - đủ tài để sắp xếp hành trang bước vào
đời.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường THPT Thọ Xuân 5 nằm trên vùng bán sơn địa với nhiều điều kiện
khó khăn, kinh tế xã hội phát triển chậm so với mặt bằng chung của cả nước.
Một số học sinh còn tâm lí ỉ nại, ít cố gắng vươn lên. Chất lượng học sinh đầu
2


vào thấp ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Mặt trái của xã hội,

của cơ chế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ len lỏi vào thế hệ trẻ. Những
yếu tố tiêu cực này đã có tác động không nhỏ tới tâm lí, định hướng, lí tưởng
của thanh niên học sinh, làm một bộ phận tuổi trẻ có những biểu hiện yếu kém
về đạo đức, lối sống … Nhiều tệ nạn phát sinh trên học đường, gây nên những
liều thuốc độc có hại cho sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Các
yếu tố tiêu cực này ít nhiều đã làm cho công tác chủ nhiệm của người giáo viên
gặp những khó khăn nhất định . Mặt khác, những tác động tiêu cực của đời sống
kinh tế xã hội thời kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến quan niệm,
nhận thức, thái độ và hành động của một bộ phận cha mẹ học sinh nói riêng,
người dân ở xung quanh vùng trương đóng nói chung. Nhiều phụ huynh quá
nuông chiều con em của mình, chưa hoặc không hợp tác, thậm chí do khoảng
cách địa lí và đặc thù của người dân tộc, nhiều gia đình có tư tưởng khoán trắng
cho nhà trường, cho giáo viên... Điều đó đã ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lí của
giáo viên và chất lượng giáo dục học sinh.
Trong đào tạo, các Trường Sư phạm chưa chú trọng đúng mức đến kĩ năng
làm công tác chủ nhiệm cho sinh viên nên nhiều giáo viên trẻ còn lúng túng với
công việc chủ nhiệm lớp. Bản thân người GVCN lớp cũng phải lo toan cuộc
sống đời thường với những bộn bề của cuộc sống điều đó đã phần nào làm hạn
chế sự nhiệt tình, khả năng sáng tạo của họ. Nhà trường ít có được sự quan tâm
phối hợp của cha mẹ học sinh do điều kiện về khoảng cách địa lí. Sự phối hợp,
hỗ trợ cho công tác giáo dục học sinh của các lực lượng trong và ngoài trường
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Công tác quản lý công tác chủ nhiệm
lớp chưa thực sự sâu sát và toàn diện. Cụ thể như: Việc lập kế hoạch chủ nhiệm
của nhà trường hầu như chỉ mang tính định hướng chung, chưa chi tiết, cụ thể.
Việc sắp xếp, bố trí GVCN chưa được nghiên cứu kĩ. Công tác chỉ đạo chưa sâu
sát, việc kiểm tra đánh giá thiếu bài bản và chưa được làm thường xuyên …[4].
Để xây dựng và quản lý lớp chủ nhiệm lúc đầu tôi gặp không ít những khó
khăn, vất vả vì học sinh lớp tôi phụ trách nằm rải rác ở tất cả các xã trong vùng,
với những thói quen, ý thức chấp hành nội quy khác nhau. Song với sự kiên trì
của bản thân và sự hỗ trợ nhiệt tình BGH, đoàn thanh niên, phụ huynh học sinh

và đội ngũ cán sự lớp, không bao lâu lớp tôi chủ nhiệm đã đi vào ổn định và đạt
hiệu quả rất tốt, điều đó được thể hiện ở tất cả các mặt hoạt động của trường, của
lớp.
2.3 Một số kinh nghiệm xây dựng và quản lý lớp chủ nhiệm đạt hiệu quả
cao.
2.3.1 Khi nhận lớp chủ nhiệm.
Buổi gặp gỡ, giao lưu, trò chuyện với học sinh trong lần đầu tiên là một điều
rất quan trọng không những về hiệu quả quản lý, giảng dạy, điều hành lớp học
mà còn về môi trường thuận lợi để học tập và sự hợp tác chặt chẽ giữa giáo viên
và học sinh. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên ấy người làm công tác GVCN cần phải:
Giới thiệu thật rõ về bản thân một cách thân thiện, cởi mở.
Hãy trình bày rõ ràng những điều mà thầy, cô mong chờ từ phía học sinh. Đó
là những gì học sinh làm được và không thể làm được. Thiết lập lên một số điều
lệ và quy ước đơn giản về hành vi, tư cách đạo đức học sinh. Ngoài ra giáo viên
3


còn phải đề nghị học sinh đề xuất những ý kiến riêng, nếu cảm thấy phù hợp thì
bổ sung, hoàn thiện các điều lệ, quy ước đã nêu ra [2].
Thầy cô hãy cố gắng nhớ tên học sinh càng nhanh càng tốt. Ngoài việc nhận
diện còn phải nhớ tên của học sinh. Cách tốt nhất là GVCN phải thường xuyên
điểm danh lớp học, thường xuyên gần gũi, tâm sự, động viên khích lệ học sinh
cố gắng trong học tập[2].
Tạo điều kiện giúp đỡ học sinh hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. Tổ chức lớp
học hợp lý trong việc phân tổ, phân chỗ ngồi.
Hãy cho học sinh biết và hiểu được chương trình dạy và học ở bậc THPT.
Thầy, cô phải có những phản ứng thật nghiêm khắc đối với những học sinh
có dấu hiệu vi phạm trong lần gặp gỡ đầu tiên. Cương quyết không chấp nhận
những học sinh có lời nói hoặc hành vi thể hiện sự định kiến hoặc gây chia rẽ
trong lớp nhằm tạo ra một môi trường lớp học an toàn và thân thiện giữa các học

sinh.
2.3.2 Trong công tác tuyên truyền.
Sau khi nhận lớp chủ nhiệm, giáo viên cần:
Quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lí giáo dục của Đảng,
Nhà nước, đồng thời phải phổ biến đến từng học sinh quy chế, điều lệ nhà
trường phổ thông, mục tiêu giáo dục của bậc học, của khối lớp và các kế hoạch,
chương trình hoạt động của nhà trường trong năm học và ở từng kì học để vận
dụng vào việc tổ chức hoạt động giáo dục học sinh.
Quán triệt nội quy trường lớp tới học sinh, tổ chức cho học sinh học nhiệm
vụ năm học.
Tích cực tuyên truyền những đến học sinh những kiến thức về pháp luật, luật
an toàn giao thông, về thái độ trung thực trong học tập và thi cử, về văn hóa giao
tiếp và ứng xử, văn hóa trang phục...
Phối hợp với BGH nhà trường tổ chức cho học sinh kí các bản cam kết như:
Cam kết phối hợp quản lý giáo dục của gia đình học sinh; Cam kết thực hiện
mùa thi nghiêm túc; Cam kết thực hiện các quy định trước, trong và sau Tết
Nguyên đán; Cam kết thực hiện trật tự an toàn giao thông; Cam kết thực hiện
bốn có và bốn không về phòng chống ma túy...
2.3.3 Trong công tác thu thập và xử lí thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm để
xây dựng hồ sơ học sinh.
Để giáo dục học sinh, giáo viên phải hiểu học sinh một cách toàn diện và cụ
thể, từ đó mới có thể có những tác động sư phạm thích hợp. Trái lại, nếu không
hiểu học sinh hoặc hiểu học sinh không đầy đủ, thiếu chính xác thì những tác
động sư phạm được lựa chọn sẽ không mang lại hiệu quả mong muốn, thậm chí
thất bại.
Để tìm hiểu và nắm được học sinh, giáo viên chủ nhiệm có thể vận dụng
nhiều cách thức sau:
Thu thập thông tin học sinh (Mẫu phiếu thu thập thông tin học sinh - Mẫu A
– Phụ lục ) [1].
Nghiên cứu hồ sơ học sinh (học bạ, sơ yếu lý lịch của bố mẹ, các bản tự

nhận xét và tự đánh giá định kỳ của học sinh các lớp trên, biên bản của hội đồng
kỷ luật (nếu có) [1].
4


Nghiên cứu các sản phẩm học tập, lao động… của học sinh (bài làm, báo
tường, nhật ký, các sản phẩm lao động…)[1].
Nghiên cứu các sổ sách, giấy tờ của lớp (sổ điểm danh, sổ điểm, sổ biên bản
sinh hoạt lớp, tổ, các giấy khen, bằng khen…)[1].
Quan sát hằng ngày về hoạt động, về thái độ, về hành vi của học sinh (ở
trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường…).
Đàm thoại với cá nhân và tập thể học sinh, với các giáo viên, các cán bộ
Đoàn về những vấn đề cần tìm hiểu. Trong “thời gian chết” trong lớp như nghỉ
giữa giờ các thầy, cô có thể ngồi “Tán gẫu” với học sinh bởi đây là lúc thầy, cô
có thể khai thác thông tin từ các bạn.
Thăm gia đình học sinh và trò chuyện với các bậc cha, mẹ học sinh...
Nhờ vậy, những thông tin thu được sẽ phong phú, cụ thể, có độ tin cậy, giúp
giáo viên chủ nhiệm nắm được các đặc điểm của học sinh và quá trình phát triển
của các bạn cũng như những nguyên nhân cơ bản tương ứng. Ở đây, có điều cần
chú ý là, phải liên tục tìm hiểu học sinh, liên tục thu những thông tin ngược;
phải xử lý một cách khoa học những thông tin này; tuyệt đối không hời hợt, tuỳ
tiện, chủ quan.
Những kết quả nghiên cứu, tìm hiểu học sinh sẽ tạo ra tiền đề quan trọng để
thực hiện công tác giáo dục học sinh một cách có hiệu quả.
2.3.4 Trong công tác xây dựng kế hoạch chủ nhiệm.
Để xây dựng được kế hoạch công tác hàng năm và học kỳ, giáo viên chủ
nhiệm phải nắm chắc và xử lý tốt hàng loạt thông tin về:
Các mục tiêu, các nhiệm vụ và kế hoạch công tác của toàn trường.
Các đặc điểm hiện nay của học sinh trong lớp cũng như những nét truyền
thống tốt đẹp và những khó khăn, hạn chế của lớp.

Các đặc điểm của các gia đình học sinh, đặc biệt là các đặc điểm của các bậc
cha mẹ của chúng.
Các mục tiêu nhiệm vụ, kế hoạch công tác của tổ chức Đoàn trường.
Các đặc điểm hiện nay của địa phương, nơi trường đóng cũng như tình hình
chung của đất nước...
Từ những thông tin đã được xử lý, giáo viên chủ nhiệm phải dự đoán được
khả năng phát triển chung cũng như khả năng phát triển về từng mặt hoạt động
của lớp, gắn liền với những khả năng phát triển của tập thể và mỗi cá nhân học
sinh. Trong đó, giáo viên chủ nhiệm phải tính tới những thuận lợi, những khó
khăn và hướng khắc phục những khó khăn này.
2.3.5 Trong công tác xây dựng lớp học tự quản.
Ngay từ khi nhận lớp và ổn định lớp GVCN phải tìm hiểu và phát huy tính tự
giác của học sinh nhất là các em đã từng là cán sự lớp ở cấp 2. Hầu hết ban cán
sự lớp được các bạn giới thiệu, tự ứng cử. Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện
có những học sinh sẽ bị loại và bổ sung các học sinh khác có năng lực.
Ban cán sự lớp gồm có: Lớp trưởng: 01 học sinh; Bí thư chi đoàn:1 học sinh;
Thư kí lớp: 1 học sinh; Lớp phó: 03 học sinh (01 phụ trách học tập, 01 phụ trách
văn thể, 01 phụ trách lao động); Cờ đỏ: 1 học sinh; Tổ trưởng: 04 học sinh;
Nhóm trưởng: (mỗi bàn 1 học sinh).
5


Đây là những hạt nhân giúp giáo viên chủ nhiệm điều hành lớp trong phạm vi
quyền hạn của lớp. Do vậy, GVCN phải rất tập trung, chú ý để lựa chọn đúng
những em có năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, trung thực
Sơ đồ bộ máy tổ chức lớp chủ nhiệm[1].
GVCN

Thư kí lớp


Lớp phó HT

Lớp trưởng

Lớp phó văn thể

Tổ Trưởng

Bí thư CĐ

Lớp phó LĐ

Cờ đỏ

Nhóm trưởng

Sau đó GVCN cần giao nhiệm vụ cụ thể đến từng cán sự phụ trách chức
năng.
( Mẫu quy định chức năng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ tự quản trong lớp Mẫu
B – Phụ lục ) [1].
2.3.6 Trong công tác xây dựng và phát triển tập thể học sinh.
Tập thể được coi như môi trường, như phương tiện giáo dục học sinh, trong
đó, mỗi thành viên của nó có các điều kiện thuận lợi để phát triển nhân cách nói
chung, phát triển tài năng nói riêng. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm phải cùng các
lực lượng giáo dục, đưa lớp mình tiến nhanh và vững chắc theo mục tiêu đã đề
ra. Muốn vậy, trước hết, giáo viên chủ nhiệm cần đề ra những yêu cầu thống
nhất, nhất quán, hợp lý, vừa sức cho học sinh sao cho phù hợp với những yêu
cầu giáo dục chung của nhà trường, có tính đến những đặc điểm, những điều
kiện cụ thể của lớp. Ở đây, giáo viên chủ nhiệm phải giải thích cho học sinh hiểu
đầy đủ và đúng đắn những tiêu chuẩn, những quy tắc hành vi được thể hiện

trong các yêu cầu. Từ đó, làm nảy sinh trong học sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu
phải đạt và trình độ phát triển hiện có và kích thích các em có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn này.
Do tác động của những yêu cầu, trong tập thể học sinh xuất hiện những học
sinh tích cực. Đó là những học sinh tự giác, quyết tâm thực hiện tốt những yêu
6


cầu do giáo viên chủ nhiệm đề ra. Không những thế, những học sinh này lại
mong muốn thu hút cả lớp vào việc hoàn thành những yêu cầu đó. Vì thế, giáo
viên chủ nhiệm phải kịp thời phát hiện, lựa chọn một cách chính xác và tế nhị
những học sinh tích cực và bồi dưỡng những học sinh này trở thành những hạt
nhân đoàn kết, làm nòng cốt cho bộ máy tự quản, cho mọi hoạt động của lớp.
Tất nhiên những học sinh tích cực là lực lượng tiên tiến được cả lớp yêu mến,
tín nhiệm, nghĩa là được tập thể công nhận[4]. Dựa vào vai trò nòng cốt của các
học sinh tích cực, giáo viện chủ nhiệm lãnh đạo, tổ chức các hoạt động (học tập,
lao động, vui chơi, giải trí, thể dục thể thao...). Qua đó, thu hút toàn thể học sinh
tham gia tích cực, tạo ra và củng cố, phát triển những mối quan hệ lành mạnh
trong tập thể. Các hoạt động này gắn liền với việc tổ chức phong trào thi đua tập
thể theo từng đợt với những chủ để nhất định có ý nghĩa giáo dục. Trong đó, cần
có những hình thức hấp dẫn nhằm kích thích ở học sinh những nhu cầu hoạt
động, chính qua phong trào thi đua, giáo viên chủ nhiệm lớp phát huy được tính
tự giác, tính tích cực, lòng say mê và hứng thú học tập, tu dưỡng ở học sinh;
củng cố và phát triển được tình cảm tập thể, tình cảm thầy trò; gây được dư luận
lành mạnh; phát huy được truyền thống của lớp, của trường...
Trong quá trình xây dựng tập thể, rất có thể xuất hiện học sinh cá biệt tiêu
cực[4]. Điều quan trọng là, GVCN cần thấy rõ bản chất tiêu cực ở các em; phát
hiện chính xác các nguyên nhân; có những tác động về phía giáo viên chủ nhiệm
cũng như về phía tập thể một cách thích hợp; tuyệt đối không được cô lập
chúng, đẩy chúng xa rời tập thể và đối lập với tập thể.

2.3.7 Trong công tác nâng cao thành tích học tập của học sinh.
Nâng cao thành tích học tập của học sinh là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu của giáo viên chủ nhiệm lớp. Thành tích học tập này không những thể hiện
kết quả nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn thể hiện ở kết quả phát triển năng
lực hoạt động trí tuệ nói chung và năng lực tư duy sáng tạo nói riêng. Giáo viên
chủ nhiệm cần thông qua tập thể lớp đề ra những yêu cầu học tập đối với học
sinh, xây dựng dư luận lành mạnh, làm cho mọi học sinh ý thức được nghĩa vụ
học tập của mình, xác định được động cơ học tập đúng đắn, thái độ học tập trung
thực, tìm tòi các phương pháp học tập tích cực để đạt được chất lượng học tập
cao nhất.
Đối với học sinh kém, giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân để
có thể giúp đỡ các bạn nâng cao thành tích học tập, ví như: nếu học kém do tinh
thần, thái độ không tốt thì cần có những biện pháp giáo dục thích đáng; nếu học
kém do năng lực nhận thức yếu, do có những lỗ hổng trong tri thức, do lúng
túng về phương pháp học tập thì cần dựa vào giáo viên bộ môn, vào tập thể lớp
để giúp đỡ cải tiến cách học, bổ sung thêm những tri thức cần thiết; nếu học kém
do điều kiện học tập ở gia đình không thuận lợi thì cần đề nghị gia đình quan
tâm tạo điều kiện...Đối với học sinh giỏi, nên thu hút học sinh vào các nhóm
ngoại khoá với tư cách là lực lượng nòng cốt, giới thiệu cho học sinh những
nguồn tài liệu và hướng dẫn học sinh sử dụng hợp lý và vừa sức...
2.3.8 Trong công tác tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, rèn luyện, bảo vệ
sức khoẻ.
Bên cạnh học tập và lao động của lớp, giáo viên chủ nhiệm còn phải quan
7


tâm tổ chức cho học sinh vui chơi, giải trí, rèn luyện thể lực, bảo vệ sức khoẻ
nhằm giúp học sinh mở mang trí tuệ, sảng khoái tinh thần, tăng cường sức khoẻ,
phát triển thể chất, vừa góp phần phát triển toàn diện con người, vừa tạo ra
những điều kiện thuận lợi để học tập tốt, lao động tốt, tu dưỡng tốt. Trong thực

tiễn, giáo viên chủ nhiệm có thể dựa vào các tổ chức Đoàn, Đội, các cơ quan văn
hoá, thể dục thể thao...để tổ chức các hoạt động.
Đồng thời, giáo viên chủ nhiệm phải dựa vào cơ quan y tế của trường, của xã
hội cũng như các giáo viên bộ môn tương ứng để giáo dục cho học sinh ý thức
gìn giữ vệ sinh, phòng bệnh, nhất là những bệnh về mắt, về cột sống; các biện
pháp bảo vệ môi trường, các biện pháp bảo vệ sự cân bằng sinh thái..
2.3.9 Trong công tác tổ chức giờ sinh hoạt lớp.
Xây dựng tiết học thân thiện, học sinh tích cực, GVCN đóng vai trò vừa là
nhà viết kịch bản vừa là đạo diễn và cũng là cá nhân tác động tích cực trong giáo
dục hoàn thiện nhân cách cho học sinh và hoàn thành nhiệm vụ tiết học[3]. Để
hoàn thành tốt tiết sinh hoạt, tôi xin đề xuất thực hiện các bước như sau:
Bước 1: Công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
Thu thập thông tin - Điều khiển gián tiếp; Rà soát nhiệm vụ giáo dục của tháng,
của tuần theo chủ đề; Nắm bắt tình hình hoạt động và học tập của toàn lớp trong
tuần thông qua các nguồn: Sổ đầu bài, thầy cô bộ môn và cán bộ lớp. Cần nắm
và phân loại các thông tin trong giờ học và ngoài giờ học: Tiến bộ, sa sút, yếu có
cố gắng, thiếu tập trung… và việc thực hiện nội quy của tập thể lớp cũng như
cá nhân học sinh trong lớp; Trao đổi, định hướng trước với cán bộ lớp về nhiệm
vụ của tiết sinh hoạt chuẩn bị thực hiện và kế hoạch tuần tiếp.
Bước 2: Tiến hành giờ sinh hoạt. Có thể chia thành những hoạt động lớn
* Hoạt động 1: Tổng kết và đánh giá hoạt động trong tuần
Đây là giờ sinh hoạt tự quản, giờ học sinh thực hiện phê và tự phê , tự đánh
giá các hoạt động của cá nhân và tập thể trong suốt tuần học. GVCN tiếp tục
nắm bắt tình hình lớp qua đó bổ sung thêm thông tin về sự tiến bộ hoặc sa sút
của mỗi học sinh trong lớp để động viên hay uốn nắn kịp thời.
Lớp Trưởng điều khiển lớp.
Các tổ trưởng báo cáo kết quả theo dõi thi đua của từng thành viên và cả tổ
trong tuần làm căn cứ xếp loại thi đua Từng thành viên.
Trên cơ sở của điều lệ trường trung học và quy chế 40 của Bộ giáo dục về
đánh giá xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT.

Trên cơ sở thực tiễn nhà trường và địa phương, căn cứ nhiệm vụ năm học
nhà trường xây dựng hệ thống các văn bản quy định một cách cụ thể.
Quy định về xếp loại hạnh kiểm học sinh của nhà trường(Thông tư
số 58/2011/TT-BGDĐT ngày 15/12/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT).
Quy định về xếp loại thi đua của đoàn trường.
Quy định về xếp loại thi đua của tập thể lớp.
Cờ đỏ báo cáo tình hình thực hiện nền nếp.
Thư ký lớp tổng kết hoạt động học tập của lớp thông qua biên bản sinh hoạt
lớp.
Mẫu biên bản sinh hoạt lớp (Mẫu C – Phụ lục ) [3].
8


Lớp trưởng tổng kết : Dựa trên quá trình theo dõi, quản lý lớp trực tiếp trong
suốt tuần học và qua báo cáo của các thành viên trong lớp. Cần nêu rõ những
mặt nổi bật trong tuần đồng thời vạch rõ những khiếm khuyết của tập thể, cá
nhân trong lớp. Cuối cùng đề xuất tuyên dương cá nhân điển hình của lớp cũng
như đề xuất phê bình cá nhân vi phạm với GVCN
* Hoạt động 2: Xây dựng kế hoạch tuần học tiếp theo
Dựa trên sự định hướng trước của GVCN, nhiệm vụ đặt ra của nhà trường và
đoàn trường, mục tiêu thi đua rèn luyện, lớp trưởng phát thảo kế hoạch thực hiện
bao gồm: nhiệm vụ phải thực hiện và mục tiêu phân đấu đạt được trên tính thần
khắc phục những mặc yếu kém tuần qua và phát huy những lợi thế đạt được của
tập thể lớp.Tập thể lớp trao đổi và đi đến phương án thực hiện.
* Hoạt động 3: GVCN góp ý, nhận xét và đánh giá
Dựa trên những thông tin thu thập được về hoạt động học tập của học sinh,
GVCN cần:
Đánh giá góp ý phương pháp làm việc của cán bộ lớp, uốn nắn điều chỉnh để
rèn luyện kĩ năng tự quản cho lớp.

Phát hiện và tuyên dương, động viên kịp thời các học sinh đã có sự cố gắng
phấn đấu trong tuần.
Phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những cá nhân sai phạm, chây lười,
lơ là trong học tập và thiếu tính thần trách nhiệm với tập thể. Phát hiện và ngăn
chặn kịp thời hiện tượng học sinh cá biệt.
Thưởng, phạt công minh đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút và ràng buộc
học sinh. Tiếp tục rút kinh nghiệm với những kết quả đạt được đồng thời góp ý
bổ sung kế hoạch hoạt động theo định hướng giáo dục đã có.
* Hoạt động 4: Hoạt động ngoài giờ lên lớp(NGLL):
Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết sinh hoạt ngoài thái độ nhẹ nhàng
GVCN cần định hướng cho lớp có những tiết mục văn nghệ thư giãn như: hát,
kể chuyện vui, tấu hài, những trò chơi nhỏ… cũng có thể tổ chức tặng quà sinh
nhật cho các em có ngày sinh thuộc tháng hoặc tuần đang sinh hoạt, đan xen hợp
lý, linh hoạt giữa các hoạt động. Có như thế giúp học sinh cảm thấy nhẹ nhàng
và thích thú tăng thêm hiệu quả giờ sinh hoạt lớp.
Phương pháp tổ chức hoạt động NGLL
Linh hoạt lựa chọn các phương pháp tích cực như: Phương pháp thảo luận
nhóm; phương pháp diễn đàn; phương pháp đóng vai; phương pháp giải quyết
vấn đề; phương pháp tổ chức các hoạt động giao lưu; phương pháp giao nhiệm
vụ; phương pháp tình huống, phương pháp trò chơi….. đồng thời sử dụng các kỹ
thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của từng chủ điểm.
Khi sử dụng các phương pháp trên, chú ý đến nội dung hoạt động cụ thể của
từng chủ điểm, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT.
Đối với mỗi lớp có một cách thiết kế tiết sinh hoạt khác nhau như: Đọc sách
báo, tạp chí, tác phẩm văn học, bình văn học ...; Trao đổi phương pháp học tập,
đố vui để học, phương pháp giải các bài tập khó...; Sinh hoạt tập thể, thi hùng
biện về chủ đề của tháng...; Sơ kết các hoạt động trong tháng, trò chơi...

9



2.3.10 Trong công tác phối hợp của giáo viên chủ nhiệm lớp với các lực
lượng giáo dục trong nhà trường và gia đình học sinh.
Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: Để giáo dục học sinh lớp mình phụ
trách, giáo viên phải dựa vào kế hoạch chung của nhà trường. GVCN phải thay
mặt nhà trường quản lý học sinh, truyền đạt mệnh lệnh của hiệu trưởng và nắm
vững tình hình của lớp về mọi mặt báo cáo cho Ban giám hiệu biết theo định kì
hoặc đột xuất những vấn đề cần thiết để nhà trường có hướng giải quyết kịp thời
…[1].
Phối hợp với các giáo viên bộ môn: Như chúng ta đã biết, mỗi thầy cô bộ
môn đều là một “Nhà giáo dục”, hiệu quả giáo dục của một lớp phụ thuộc một
phần quan trọng vào giáo viên bộ môn. Vì vậy GVCN phải là hạt nhân của sự
kết hợp với các giáo viên khác cùng thực hiện các tác động sư phạm đồng bộ tới
học sinh và tập thể học sinh. GVCN phải kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn
để nắm bắt năng lực học tập, ý thức tổ chức kỉ luật của học sinh lớp mình để kịp
thời uốn nắn, điều chỉnh. Trao đổi với giáo viên bộ môn về những học sinh có
hoàn cảnh và tính cách đặc biệt, đồng thời tiếp thu ý kiến của giáo viên bộ môn
phản ánh để cùng hỗ trợ, phối hợp tác động tới tập thể nói chung và từng học
sinh nói riêng. Phản ánh với giáo viên bộ môn về nguyện vọng của học sinh và
đề xuất với giáo viên bộ môn giúp lớp tổ chức, trao đổi kinh nghiệm học tập để
học sinh học tập môn học đó có kết quả hơn.
Phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong trường: Công đoàn, Đoàn thanh
niên, Ban nữ công của nhà trường phải có những hoạt động phối hợp cùng
GVCN trong giáo dục đạo đức, nề nếp, lối sống cho học sinh; tổ chức và đưa
học sinh vào các hoạt động xã hội nhằm tăng chất lượng giáo dục. Mặt khác
GVCN phải giúp đỡ cán bộ Đoàn và đóng vai trò là người bồi dưỡng, cố vấn tổ
chức các hoạt động giáo dục.
Phối hợp với phụ huynh học sinh: Đối với các trường THPT, học sinh là từ
các xã khác nhau về học tập và rèn luyện. Trong khi đó gia đình lại là môi
trường giáo dục - lực lượng giáo dục đầu tiên ảnh hưởng đến học sinh, có tác

động lớn đến suy nghĩ, việc làm của học sinh. Chính vì vậy GVCN cần phải có
những biện pháp khác nhau trong việc phối hợp với gia đình, dựa trên quan hệ
tình cảm, quan hệ huyết thống tác động giáo dục đến con em. GVCN cần phải
có nhiệm vụ giúp cha mẹ học sinh hiểu rõ chủ trương, kế hoạch giáo dục của
nhà trường và mục tiêu, kế hoạch phấn đấu của lớp. Trên cơ sở đó thống nhất
với gia đình về yêu cầu, nội dung, biện pháp và hình thức giáo dục.
2.3.11 Trong công tác tổ chức các buổi thảo luận về kĩ năng sống của học
sinh THPT.
Một thầy, cô muốn hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm
trước hết phải có tâm, có thấm lòng vì tình yêu thương con người, có sự độ
lượng, bao dung, đồng thời phải giỏi về tâm lí lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo
dục tinh tế. Cùng với nó, GVCN còn cần am hiểu và biết cách giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh. Đối với những học sinh có những biểu hiện lệch lạc về nhân
cách, GVCN chính là người thay mặt nhà trường cùng với gia đình có những
biện pháp “kéo” các bạn trở về với “cái thiện”, hay giúp các bạn học tập những
gương sáng xung quanh mình.
10


Muốn vậy, GVCN cần phải tổ chức các buổi dạy và thảo luận về kĩ năng
sống cơ bản của học sinh THPT, lồng ghép việc dạy kĩ năng sống qua các bài
dạy kiến thức, các buổi sinh hoạt để giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh.
Bên cạnh đó GVCN còn phải tổ chức các buổi thảo luận về các hành vi lệch
chuẩn của người học sinh, trong đó GVCN phải chỉ ra được những hậu quả của
những hành vi đó để học sinh có thể nhận thức đúng/sai và khắc phục những
hành vi của mình.
2.3.12 Trong công tác đánh giá, xếp loại học sinh.
Nhận xét đánh giá, xếp loại học sinh là một khâu quan trọng của quá trình
giáo dục toàn diện, phản ảnh kết quả, hiệu quả của một thời kì, một giai đoạn tổ
chức hoạt động của tập thể, cá nhân, của sự nêu cao ý thức trách nhiệm của giáo

viên làm công tác chủ nhiệm.
Nhận xét, đánh giá, xếp loại học sinh trên cơ sở thường xuyên cập nhật
thông tin về học sinh, theo dõi quá trình học tập và rèn luyện, sự phấn đấu vươn
lên từng bước của học sinh. Những thông tin về sự tiến bộ hay chậm tiến của
học sinh, phát hiện những điểm yếu, điểm mạnh của học sinh.
Nhận xét, đánh giá, xếp loại học sinh phải dựa vào việc nắm bắt đặc điểm
tâm lí, ý thức đạo đức và tác phong của học sinh, nắm bắt các mối quan hệ của
học sinh để phát huy tính tích cực, định hướng uốn nắn, khắc phục những sai
lầm, hạn chế của học sinh.
Nhận xét, đánh giá, xếp loại phải thể hiện tính khách quan, trung thực, công
bằng, công khai. Đánh giá đúng mức, căn cứ vào tiêu chuẩn chung được qui
định, gắn đánh giá học sinh với phong trào thi đua, với công tác tuyên dương,
khen thưởng để tạo động lực cho học sinh vươn lên.
Đảm bảo thống nhất về cơ bản giữa việc tự đánh giá của cá nhân học sinh,
đánh giá của tập thể lớp và đánh giá của các lực lượng giáo dục nói chung, tránh
cực đoan trong nhận xét, đánh giá học sinh. Hàng tháng, hàng kì GVCN phải
tiến hành nhận xét, đánh giá, xếp loại học sinh.
GVCN có thể đưa ra mẫu phiếu đánh giá xếp loại (Mẫu D – Phụ lục ) [1].
2.3.13 Trong công tác khen thưởng và xử phạt
* Đối với công tác khen thưởng:
GVCN phải có những việc làm thiết thực trong việc động viên, khen thưởng
học sinh nhằm khuyến khích, khơi gợi những nhân tố tích cực trong các em,
giúp các em hiểu rõ phẩm chất, năng lực và tính cách của mình. Từ đó, các em
sẽ tin tưởng ở bản thân mình, hình thành ở các bạn nguyện vọng phấn đấu để trở
thành người tốt hơn. GVCN phải khơi gợi ““Tinh thần đồng đội” và suy nghĩ
quyền sở hữu của học sinh “chúng ta là một lớp học đoàn kết nhất, một lớp học
tốt nhất”” [4].
Muốn làm được điều đó GVCN hàng tuần, hàng tháng, hàng kì phải cập nhật
liên tục để phát hiện ra những nhân tố tích cực vươn lên trong học tập và rèn
luyện để khen thưởng, động viên, khuyến khích kịp thời. Có thể có những phần

thưởng nhỏ để khích lệ học sinh. Có những lúc GVCN phải có những lời tuyên
dương, động viên, khen thưởng bằng lời, bằng cách cho điểm tốt để có hiệu quả
giáo dục tức thời như: học sinh trong lớp có biểu hiện hành vi tốt, sáng tạo, có
tinh thần xây dựng bài học, có trách nhiệm trong công việc được giao... Việc làm
11


này có một sức lan tỏa rất lớn đối với các bạn vì các bạn luôn khao khát được
khẳng định mình và mong muốn người khác thừa nhận những việc làm tốt của
mình.
* Đối với công tác xử phạt:
Bên cạnh chế độ khen thưởng thì GVCN cũng phải có những hoạt động xử lý
sau vi phạm đối với học sinh lớp chủ nhiệm. Việc làm này cũng có chức năng
tương tự như việc khen thưởng. Giáo viên xử phạt là để học sinh ý thức được
hành vi sai trái của mình để tự tìm cách điều chỉnh. Nhưng trong quá trình xử
phạt GVCN cũng cần phải linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức khác nhau,
đúng người, đúng tội, được sự đồng tình, cảm phục từ học sinh, lúc ấy việc
trừng phạt mới có tác dụng. Ví dụ: cũng một biểu hiện hư như nhau nhưng có
học sinh phải phê bình nghiêm khắc, có học sinh thì nhắc nhẹ, có khi chỉ nhắc
chung chung hoặc có khi phải gián tiếp, có khi thông qua bạn bè, gia đình, tập
thể...
Đối với những học sinh có hành vi lệch chuẩn nhiều lần đã được giáo dục,
giúp đỡ mà không tiến bộ thì GVCN cần xin ý kiến của cấp trên và tiến hành
việc kỉ luật theo các bước từ dưới lên trên để giữ vững kỉ cương, khuôn phép của
lớp học và có tác dụng răn đe đối với học sinh khác.
Tóm lại, mỗi hình thức và phương pháp giáo dục đều có mặt mạnh và thuận
lợi riêng. Vì vậy GVCN không nên quá cứng nhắc, lạm dụng hoặc phủ định
hoàn toàn phương pháp, hình thức nào. Điều quan trọng là mức độ sử dụng các
phương pháp, sự linh hoạt trong việc vận dụng các hình thức giáo dục vào từng
hoàn cảnh cụ thể.

2.4 Hiệu quả áp dụng đề tài.
2.4.1 Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục học sinh.
Quá trình thực hiện các biện pháp xây dựng và quản lý lớp chủ nhiệm đạt
hiệu quả cao đến nay đã hết 2 năm học. Tập thể lớp B2 do tôi làm chủ nhiệm đã
đạt được nhiều thành tích cao, phát huy được những sáng kiến do tôi đề xuất.
Kết quả phấn đấu của cô và trò đã được BGH cũng như giáo viên và học sinh
trong trường ghi nhận.
Từ những biện pháp được áp dụng và phát huy trong nhiều năm đặc biệt là
năm học 2015 – 2016 và 2016 – 2017, tôi nhận thấy các em mặc dù bước đầu
còn bỡ ngỡ song bây giờ các em luôn có ý thức đoàn kết, yêu thương, nhắc nhở
giúp đỡ nhau trong mọi mặt. Hiện nay lớp B2 đang là một trong những lớp dẫn
đầu về mọi mặt.
2.4.1.1 Về đạo đức.
Trong lớp 100% học sinh thự hiện nghiêm túc nội quy trường, lớp. Lớp B2
không bao giờ có tình trạng mất cắp đồ, không có hiện tượng gây gỗ đánh nhau,
ý thức phòng chống nhiều tệ nạn xã hội trong học đường cũng được các em thực
hiện tốt, các phong trào thi đua của nhà trường, của Đoàn trường đã được tập thể
lớp tự giác, nhiệt tình tham gia. Đa số các em trong lớp chăm ngoan, ý thức rèn
luyện tu dưỡng đạo đức tốt, các em luôn đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau

12


trong học tập. Các em luôn phát hiện và báo cáo với giáo viên chủ nhiệm kịp
thời những hành vi, vi phạm của các bạn để ngăn chặn.
Bảng thống kê kết quả xếp loại hạnh kiểm:
XLHK

Năm học 2015 - 2016


Năm học 2016 - 2017

Số lượng

%

Số lượng

%

Tốt

39

90,7

43

100

Khá

4

9,3

0

0


Trung bình

0

0

0

0

Yếu

0

0

0

0

2.4.1.2 Về học tập.
Lớp B2 đã thực sự dấy lên phong trào thi đua giành nhiều điểm tốt, do đó
trong 2 năm học, số học sinh khá, giỏi không ngừng tăng lên.
Bảng thống kê kết quả xếp loại học lực:
XL HL

Năm học 2015 - 2016

Năm học 2016 - 2017


Số lượng

%

Số lượng

%

Giỏi

2

4,7

5

11,6

Khá

35

81,4

38

88,4

Trung bình


6

13,9

0

0

Yếu

0

0

0

0

Kém

0

0

0

0

Bảng tổng hợp kết quả thi chọn HSG cấp trường của lớp B2:
Xếp giải


Năm học 2015 - 2016

Năm học 2016 - 2017

Nhất

3

4

Nhì

4

5

Ba

6

8

Khuyến Khích

15

14

13



2.4.1.3 Về lao động.
Từ việc xây dựng và quản lớp tốt nên lớp B2 đã thực sự tự giác và đạt
hiệu quả cao trong các buổi lao động đặc biệt là đối với khu vực tự quản của
lớp do nhà trường phân công, lớp luôn được tuyên dương về kết quả lao
động.

Hình ảnh học sinh lớp B2 quét dọn khu vực tự quản và lao động theo khu vực
được phân công.

2.4.1.4 Hoạt động đoàn.
Được tiến hành song song với các hoạt động trên nhưng là hoạt động bề nổi
nên đôi khi các em còn e dè. Đầu năm học lớp 10 các hoạt động này phải do
giáo viên chủ nhiệm chỉ định, đôi khi phải ép các em thực hiện. Song chỉ trong
một thời gian ngắn, tất cả các hoạt động trên các em đã tự giác tham gia rất nhiệt
tình và có ý thức trách nhiệm cao, đạt được những kết quả rất khả quan. Đa số
các em tự giác tham gia viết bài trong các cuộc thi do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
tổ chức.
Bảng tổng hợp kết quả lớp B2 đạt được ở cấp Đoàntrường, Huyện Đoàn:
Giải văn nghệ

Giải TDTT

Năm học
Nhất

Nhì

Ba


Nhất

Nhì

Ba

Giải cuộc
thi “Em yêu
lịch sử Xứ
Thanh

Giải viết bài
“Học tập và làm
theo tấm gương
Hồ Chí Minh”
cấp trường

2015 - 2016

0

0

1

1

2


4

0

0

2016 - 2017

0

1

0

3

3

2

5

4

Khen thưởng
chung
Huyện
Đoàn
Đoàn
trường

Giấy
khen
Giấy
khen

Giấy
khen
Giấy
khen

2.4.1.5 Về hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Trong 2 năm học, tôi đã thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên
lớp cho học sinh lớp B2 thông qua các tiết sinh hoạt cuối tuần với nhiều chủ đề
khác nhau. Mặt khác, lớp còn tham gia các hoạt động do trường và Đoàn trường
tổ chức. Kết quả, 100% học sinh tham gia rất nghiêm túc, nhiệt tình.

14


Một số hình ảnh về học sinh lớp B2 tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

2.4.1.6 Về hoạt động sinh hoạt lớp.
Tôi thực sự yên tâm về ý thức tự quản của lớp trong các buổi sinh hoạt đầu
tuần; 15 phút đầu giờ hoặc sinh hoạt cuối tuần, ngay cả khi tôi không có mặt tại
lớp. Hiện nay, đội ngũ cán sự lớp đã hoàn toàn tự quản các buổi, các giờ sinh
hoạt, cũng thông qua các giờ sinh hoạt lớp tôi đã để các em được trình bày
những tâm sự, nguyện vọng của mình, tự đánh giá nhận xét nhau, giáo viên chủ
nhiệm chỉ làm cố vấn, người dự, lắng nghe các ý kiến và bổ sung, nhận xét, giải
quyết kịp thời những băn khoăn thắc mắc của các em, khen - chê công bằng để
tạo nên được không khí lớp học dân chủ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.


15


Một số hình ảnh ghi lại hoạt động của lớp trong các tiết sinh hoạt.

2.4.1.7 Về kĩ năng sống.
100% học sinh lớp B2 đã có những chuyển biến tích cực về kĩ năng sống của
học sinh THPT. Đa số các em, đặc biệt là học sinh nữ đã có nhận thức đúng đắn
về giáo dục giới tính, về tình yêu ở lứa tuổi học trò. Do vậy, lớp tôi không có
hiện tượng học sinh yêu sớm, không có hiện tượng học sinh bỏ học ở nhà lấy
chồng. Mặt khác, một số kĩ năng cần thiết như: Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ
năng hợp tác, kĩ năng kiềm chế cảm xúc, kĩ năng giao tiếp... được học sinh lớp
B2 phát huy một cách tối đa.
2.4.1.8 Hiệu quả của sự phối kết hợp giữa GVCN và gia đình học sinh.
Nhằm mục đích nâng cao thành tích học tập cho học sinh lớp chủ nhiệm, tôi đã
tích cực vận động gia đình học sinh cùng tham gia công tác quản lý, giáo dục
đạo đức cho học sinh và khuyến học – khuyến tài. Ngoài nguồn quỹ lớp, gia
đình phụ huynh học sinh Nguyễn Lê Minh Anh đều có phần thưởng dành cho
học sinh đạt thành tích cao của lớp. Đây thực sự là một việc làm có ý nghĩa giúp
học sinh lớp B2 có thêm động lực để phấn đấu.

Hình ảnh huynh trưởng của lớp chủ trì cuộc họp phụ huynh, bàn về giải pháp quản lý và giáo
dục cho học sinh lớp B2.
16


Hình ảnh bác Lê Thị Thúy – Phụ huynh học sinh Nguyễn Lê Minh Anh, trao phần thưởng cho
học sinh lớp B2 vào cuối mỗi năm học.


2.4.1.9 Tổng hợp các thành tích cấp tỉnh của cá nhân và tập thể lớp B2 đạt
được trong 2 năm học.
Trong 2 năm học, học sinh lớp B2 đã đạt được những thành tích đáng tự
hào.
Bảng kết quả cụ thể:
HSG

KHKT

Liên môn

QP - AN

Giải cuộc thi “Em
yêu lịch sử Xứ
Thanh

Khen thưởng
chung của nhà
trường

3

0

0

Lớp tiên tiến xuất
sắc toàn diện


2

2

Lớp tiên tiến xuất
sắc toàn diện

Năm học

2015 - 2016

0

2

2016 - 2017

3

2

3 (Có 01 bài thi
được chọn gửi dự
thi cấp Quốc gia)

2.4.1.10 Tổng hợp xếp loại thi đua toàn diện của lớp B2.
Qua việc theo dõi và đánh giá thi đua của nhà trường trên tất cả các lĩnh
vực, lớp B2 luôn giữ vững được vị trí tốp đầu của mình. Cụ thể:
Năm học 2015 - 2016


Năm học 2016 - 2017

Học kì I

Học kì II

Học kì I

Học kì II

Xếp thứ 3 toàn
trường

Xếp thứ 1 toàn
trường

Xếp thứ 1 toàn
trường

Xếp thứ 1 toàn
trường
17


2.4.2 Hiệu quả đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
Đối với bản thân, tôi nhận thấy mình đã đúc rút được một sáng kiến hữu
ích, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng và quản lí lớp chủ nhiệm ở trường
THPT Thọ Xuân 5.
Đối với đồng nghiệp trong nhà trường, đã có một số đồng chí sử dụng cách
làm của tôi và cũng đã đạt được những kết quả rất khả quan.

Đối với nhà trường, BGH đã cho thí điểm sáng kiến của tôi ở một số lớp
học, đồng thời tiếp tục rút kinh nghiệm và bổ sung để có thể áp dụng phổ biến
hơn ở những năm học sau.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1 Kết luận.
Từ những giải pháp đúc kết từ kinh nghiệm của bản thân và hiệu quả của đề
tài, tôi rút ra được một số kết luận như sau:
Thứ nhất, để cho tập thể lớp mình chủ nhiệm thực sự đạt hiệu quả cao thì
quan hệ thầy - trò, trò - thầy có vai trò hết sức quan trọng. Bản thân GVCN phải
đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời. Có như vậy các em mới thật sự tin cậy vào
giáo viên, tự tin phấn đầu rèn luyện và mạnh dạn sáng tạo hơn, đoàn kết tự giác
trong học tập và rèn luyện đạo đức tác phong.
Thứ hai, hầu hết những lớp do tôi phụ trách các em đều có ý thức tự giác
thực hiện nội qui nền nếp trường học, lớp học, số học sinh vi phạm nội quy, quy
chế giảm, nền nếp lớp đều đi lên. Trong học tập và các hoạt động khác của lớp
đã thực sự dấy lên được những phong trào thi đua sôi nổi và đã đạt được những
kết quả rất khả quan, chứng minh cho tính đúng đắn của những giải pháp tôi đã
đưa ra.
Thứ ba, để đạt được kết quả trên trước hết GVCN phải là người nhiệt tình
tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, không thiên vị, có lòng vị tha,
quan tâm đến học sinh như chính con em mình và thực sự là người mẹ thứ hai cả
các em. GVCN phải có cái nhìn toàn diện, xây dựng kế hoạch cụ thể từ ngay
những ngày đầu nhận lớp, có như vậy ta mới đáp ứng được những yêu cầu và
nhiệm vụ mà xã hội đã tín nhiệm, giao phó.
Thứ tư, những kết quả và việc làm trên mang tính chất bước đầu. Song tôi đã
giúp các em bước đầu hiểu biết về một tổ chức lớp học phát triển toàn diện, hiểu
rõ vai trò và chức năng của từng thành viên trong tập thể lớp để tập thể lớp phát
triển một cách toàn diện.
3.2 Những kiến nghị, đề xuất.
Mỗi giáo viên trong chúng ta muốn thành công trong công tác giáo dục học

sinh lớp mình phụ trách cần phải có sự nỗ lực, kiên trì, phải biết kết hợp sử dụng
các phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh. Hay nói cách
khác, nhà giáo là một con người trí tuệ, đức độ, giàu lòng nhân ái, khoan dung,
có vai trò như là người cha, người mẹ ….

18


Mặt khác, GVCN cũng cần phải có sự kết hợp với giáo viên bộ môn tại lớp,
với Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, Ban giáo dục nề nếp và cả phụ huynh học
sinh, để từ đó giáo dục các em phát huy tinh thần học tập và rèn luyện tốt.
Mặc dù rất cố gắng nhưng ắt hẳn trong qua trình thực hiện đề tài chúng tôi
không thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy chúng tôi mong nhận được sự đóng
góp của quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện tốt hơn nhằm áp
dụng vào công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả cao hơn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường cùng các đồng nghiệp
đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Hoa

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
–&&
[1]. Tài liệu hỗ trợ giáo viên tập sự về công tác chủ nhiệm lớp – GS.TSKH
Nguyễn Văn Hộ (Năm 2010)
[2]. Sổ tay giáo viên năm học 2014 – 2015. Những vấn đề tâm huyết và giáo dục
kĩ năng sống trong ngành Giáo dục hiện nay (Nhà xuất bản Lao động – Xã hội)
[3]. Lê Thị Hạnh, Giáo viên Trường THPT Thọ Xuân 5, Huyện Thọ Xuân, Tỉnh
Thanh Hóa – “ Kinh nghiệm Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt
lớp chủ nhiệm”. SKKN năm học 2013 – 2014.
[4]. Nhiều bài viết có liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp trên trang
Google.com.
[5]. Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011) (Ban hành kèm theo
Thông tư số: 12/2011/TT- 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
[6]. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học Sư phạm – Lê Văn Hồng (chủ biên) (Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội).


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Hoa.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THPT Thọ Xuân 5.

TT
1.


Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Kinh nghiệm khai thác chất
nhân bản trong truyện ngắn

Sở Giáo dục C
và Đào tạo

2010

“Người trong bao” của SÊ
KHÔP để góp phần vào việc
giáo dục quan niệm sống cho
2.

học sinh

Sử dụng một số phương pháp
và kĩ thuật dạy học nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh Sở Giáo dục C
qua bài “ Tại lầu Hoàng Hạc và Đào tạo
tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng” (Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng) - Lí Bạch (tiết
43, Ngữ Văn 10 – Ban cơ
bản)

2013

* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------



×