Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh hoạt lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.19 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NGỌC LẶC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP CHỦ
NHIỆM THÔNG QUA TIẾT SINH HOẠT LỚP

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Cơng tác chủ nhiệm

THANH HỐ NĂM 2018
1


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU............................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................2
“Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh
hoạt lớp”.........................................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu:.....................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu:...................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu:...............................................................................3
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM..........................................4
1. Cơ sở lí luận...................................................................................................4
a. Kỹ năng sống là gì?....................................................................................4
b. Giáo dục kỹ năng sống là gì?......................................................................4
c. Tại sao phải giáo dục KNS cho học sinh?..................................................5
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.................5


3. Các giải pháp đã áp dụng...............................................................................6
3.1. Kịch bản 1: Tổ chức trò chơi...................................................................7
3.2. Kịch bản 2: Kể chuyện.............................................................................9
3.3. Kịch bản 3: Chiếu video “Quà tặng cuộc sống”...................................13
3.4. Kịch bản 4: Tổ chức sinh nhật tập thể...................................................16
3.5. Kịch bản 5: Tổ chức cuộc thi “ Tìm kiếm tài năng ”.............................18
4. Hiệu quả:......................................................................................................18
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................19
1. Kết luận........................................................................................................19
2. Kiến nghị.....................................................................................................19
2.1. Với các cấp quản lí....................................................................................19
2.2. Với giáo viên..........................................................................................20
Tơi xin chân thành cảm ơn!........................................................................20
DANH MỤC CÁC TƯ LIỆU THAM KHẢO....................................................21
1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mơi trường sống, hoạt động và học tập của giới trẻ ngày nay có sự thay đổi
đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế - xã hội và giao lưu
quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều, phức tạp ảnh hưởng quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Thực tiễn này khiến các nhà
giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm
đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh
(HS) trung học phổ thông (THPT).
Thật vậy, kỹ năng sống là điều hết sức quan trọng với tất cả mọi người, chứ
khơng riêng gì học sinh. Tuy nhiên, học sinh là đối tượng thường được nhắm
đến đầu tiên trong việc giáo dục kỹ năng sống, đặc biệt là học sinh THPT bởi
lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn mà các em có sự phát triển vượt bậc về mặt

thể chất và cũng có sự trưởng thành nhất định trong nhận thức; cách nhìn nhận
của người lớn đối với các em cũng có sự thay đổi: các em khơng cịn là trẻ con
nữa nhưng cũng chưa được nhìn nhận như một người trưởng thành. Trong khi
đó các em đã có những sự độc lập nhất định trong tư duy, trong hành vi ứng xử,
trong cách nhìn nhận những sự việc diễn ra quanh mình,... dẫn đến các em ln
muốn khẳng định mình, muốn chứng tỏ cho người lớn biết các em thực sự đã
trưởng thành, muốn được người lớn công nhận, được đưa ra ý kiến của cá nhân
mình…tuy nhiên, vì các em chưa nhận thức được một cách đầy đủ dẫn đến xuất
hiện những suy nghĩ, những cách hành xử không đúng, không phù hợp với lứa
tuổi, làm ảnh hưởng đến người khác thậm chí cịn có thể gây hại cho chính bản
thân các em[1].
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, bạo lực học đường ngày càng
gia tăng, học sinh tự tử vì nhiều ngun nhân… HS khơng hứng thú trong học
tập, đánh nhau trong trường, bị xâm phạm,bị lợi dụng,...Hơn thế nữa, hiện tượng
đi xuống về đạo đức trong nhà trường như vơ lễ với giáo viên, nói trống khơng,
chỉ chào thầy cơ dạy mình…cũng đang xảy ra ngày một nhiều. Trong gia đình,
nhiều em rất thiếu kỹ năng làm việc nhà, kỹ năng tự phục vụ bản thân. Ngoài xã
hội, hiện tượng các em ngu ngơ khi phải xử lý những tình huống của cuộc sống
thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng
kiến và dễ nản chí…cũng ngày một nhiều. Nguyên nhân là do các em khơng có
khả năng ứng phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, không biết giải
quyết xung đột, không tiết chế được cảm xúc bản thân. Theo các chuyên gia
giáo dục (GD), nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống (KNS).
Vấn đề HS thiếu KNS, thiếu tính tự tin, thiếu tự lập, sống thiếu trách nhiệm
với bản thân và gia đình, ích kỉ, vơ tâm… đang là những rào cản lớn cho sự phát
triển toàn diện của thanh thiếu niên khiến không chỉ các bậc phụ huynh và giáo
viên (GV) phiền lịng, mà đã trở thành vấn đề nóng của toàn xã hội trước xu thế
xã hội phát triển ngày càng năng động.[3]
2



Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho HS đặc biệt là HS phổ thông là điều
hết sức cần thiết cho tương lai các em, từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất từ
đó hình thành tính cách và nhân cách. Nhưng rèn luyện kỹ năng sống cho HS
như thế nào cho hiệu quả, thu hút được các em luôn là vấn đề trăn trở của các
nhà trường, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã hội hiện nay.
Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của HS, năm học 20112012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ
năng sống cho học sinh", tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các
em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.[3]
Là một GV trong nhà trường, trực tiếp đứng trên bục giảng, qua những
năm công tác tại trường Trung học phổ thông (THPT) Ngọc Lặc, tôi nhận thấy
rằng các em HS của trường THPT Ngọc Lặc rất thiếu và yếu về KNS. Các em
rất nhút nhát, không mạnh dạn tham gia các hoạt động tập thể, KN giao tiếp cực
kì hạn chế, KN giải quyết mâu thuẫn lại càng hạn chế hơn, ví như chỉ với mâu
thuẫn tình cảm nam nữ hay chỉ một xích mích nhỏ đã kéo ra đánh nhau,... Đặc
biệt hơn ngay trong lớp học do tơi chủ nhiệm đã có em HS nữ phải bỏ dở việc
học để ở nhà lập gia đình cũng chỉ vì thiếu những KNS cần thiết. Vì vậy tơi ln
trăn trở là làm thế nào để các em có được nhận thức đúng đắn về giá trị cuộc
sống cũng như có cách giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống một cách tốt đẹp
nhất. Cũng xuất phát từ đây, trong những giờ tôi lên lớp tôi luôn chú trọng việc
dạy học lồng ghép GD KNS cho các em HS thông qua bộ mơn của mình. Đặc
biệt trong cơng tác chủ nhiệm, đây là cơ hội tốt nhất để gần gũi và GD KNS cho
các em HS của lớp mình. Vì vậy trong công tác chủ nhiệm lớp 11A10 năm học
2016- 2017, tôi đã chủ động lên kế hoạch (KH) cho những tiết sinh hoạt lớp,
những buổi sinh hoạt tập thể,... để làm sao qua những hoạt động tập thể trên các
em có thêm được nhiều KNS cần thiết, từ đó giúp các em ngày một tiến bộ hơn.
Từ những thực trạng và mong muốn trên, cùng với những trải nghiệm và
kết quả đạt được trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là công tác GD KNS cho
các em HS lớp chủ nhiệm, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài:
“Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh

hoạt lớp”.
Kính mong được sự quan tâm, góp ý của đồng nghiệp để sáng kiến của tơi
thêm hồn thiện và vận dụng cho những năm học tiếp theo.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài ra đời nhằm GD KNS cho các em, qua đó giúp các em HS:
- Có khả năng giao tiếp, ứng xử một cách linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
- Làm chủ được bản thân, sống tự tin, năng động.
- Biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống.
- Biết cách giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống một cách dễ dàng.
- Sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và cộng đồng.
- Sống đồn kết, có tình cảm hơn, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình.
- Luôn biết kiềm chế cảm xúc, làm chủ được các hành vi ứng xử của bản thân.

3


3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được áp dụng cho học sinh lớp chủ nhiệm 11A10 năm học 20162017
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu, văn bản liên quan..
4.2. PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Thông qua các giờ sinh hoạt lớp, gặp gỡ trò chuyện với học sinh, tăng cường
mối liên hệ với cha mẹ học sinh, tìm hiểu hồn cảnh gia đình...
4.3. PP thống kê, xử lý số liệu:
Được tiến hành thông qua việc so sánh, đối chiếu số liệu về kết quả giáo dục
của lớp đạt được so với năm trước khi chưa được áp dụng SKKN
4.4. PP viết báo cáo khoa học.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận

Để GD KNS cho HS lớp chủ nhiệm đạt kết quả cao thì trước hết người
GVCN phải hiểu rõ một số khái niệm cơ bản sau:
a. Kỹ năng sống là gì?
- Quan niệm của Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của liên hợp
quốc( UNESCO):
+ KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia
vào cuộc sống hành ngày
+ Quan niệm khác coi KNS gắn liền với 4 trụ cột của giáo dục là : Học để
biết ( Learning to know) ; Học để tự khẳng định(Learning to be ) ; Học để chung
sống với người khác (Learning to live together ) và Học để làm(Learning to do)
- Quan niệm của Tổ chức y tế thế giới WHO : KNS là những kĩ năng thiết
thực mà con người cần để có cuộc sống an tồn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS
là những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng về giao tiếp để tương tác
hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình
huống trong cuộc sống hàng ngày
- Quan niệm của Quỹ nhi đồng liên hợp quốc(UNICEF) : KNS là cách tiếp
cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng
Tóm lại, KNS là năng lực tâm lí - xã hội của mỗi cá nhân, giúp con người
có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác
và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.[2]
Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế ở Việt Nam, người ta xác
định rằng có 13 KNS căn bản và quan trọng hàng đầu cho HS THPT gồm:
+ KN tự nhận thức
+ KN xác định giá trị
+ KN kiểm soát cảm xúc
+ KN ứng phó căng thẳng
+ KN tìm kiếm sự hỗ trợ
+ KN thể hiện sự tự tin
4



+ KN giao tiếp
+ KN thể hiện sự cảm thông
+ KN giải quyết mâu thuẫn
+ KN tư duy phê phán.[7]
b. Giáo dục kỹ năng sống là gì?

+ KN lắng nghe tích cực
+ KN thương lượng
+ KN hợp tác

Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích, có
kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội,
thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống
hàng ngày… [7]
GD KNS cho HS là việc làm rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành
và phát triển nhân cách của các em. GD KNS cần được tiến hành càng sớm càng
tốt và có thể bắt đầu ngay từ bậc tiểu học, thậm chí cịn có thể ở tuổi mầm non.
Bởi vì lứa tuổi này những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách đang dần
được hình thành.[7]
c. Tại sao phải giáo dục KNS cho học sinh?
Cần GD KNS cho học sinh vì:
- KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống
cá nhân
- KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội bền vững
- Chương trình hành động Dakar (Diễn đàn GD cho mọi người - Senegan
2000) yêu cầu mỗi quốc gia phải triển khai giáo dục KNS cho người học.[2]
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

Ngọc Lặc là một huyện nằm xa trung tâm của thành phố Thanh Hóa, cách
thành phố Thanh Hố khoảng 70 km về phía Tây. Đây là vùng đất có nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (dân tộc Mường, Dao, Thái,…). Trong
những năm gần đây, Ngọc lặc đang trên đà phát triển để trở thành trung tâm
của các huyện miền núi, là Đô thị miền Tây. Do vậy, sự phát triển của kinh tế,
sự xuất hiện của các công ty, các khu công nghiệp, các ngành dịch vụ, giải trí,
sự giao thoa giữa các nét văn hóa truyền thống với văn minh đơ thị...cùng với
sự phát triển bùng nổ về công nghệ thông tin...đang tạo ra nhiều vấn đề xã hội
ảnh hưởng trực tiếp tới các em học sinh THPT huyện nhà khi các em được học
trong một mơi trường hồn tồn mới lạ (lên cấp 3, các em sẽ rời gia đình bao
đời sống trong các thôn bản để ra trung tâm huyện học).
Trường THPT Ngọc Lặc là một trong ba ngôi trường trong huyện
(Trường THPT Dân Tộc Nội Trú Ngọc Lặc mới được thành lập và đi vào hoạt
động 1 năm nay) có học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm phần lớn: khoảng
90% số học sinh trong trường nên việc hình thành các KNS cho các em là cực kì
cần thiết. Những hạn chế về GD KNS cho các em ở các cấp học trước cộng với
điều kiện sống khó khăn; mơi trường sống là ở các làng xã xa xôi; ông bà, bố mẹ
và anh chị em trong gia đình lại là những người rất thiếu KNS nên mặc dù hiện
tại các em được học tập và sinh sống ở khu vực thị trấn nhưng việc giao tiếp với
5


bạn bè, với thầy cô giáo cũng như cách mà các em ứng phó với những tình
huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày... là rất hạn chế. Việc giao tiếp hạn chế
đã làm cho các em ngày càng rụt rè, tự ti, ít nói, khả năng diễn đạt kém,...Từ đó
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập của các em trong nhà trường cũng như
cơ hội của các em sau này khi ra ngoài xã hội
Mặt khác, lứa tuổi 14-15 (học sinh vào lớp 10) là lứa tuổi đang có sự mất
cân bằng về tâm sinh lí, muốn khẳng định mình, coi mình là người lớn, muốn
được đối xử như người lớn, muốn được độc lập trong suy nghĩ và hành động,

muốn thử sức mình và độc lập khám phá những cái mới để khẳng định mình là
người lớn…
Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay,
thế hệ trẻ như các em thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích
cực và tiêu cực, ln được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải
đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Xa gia đình
và có nhiều cám dỗ của xã hội …Nên chính giai đoạn này, nếu các em khơng có
được những kĩ năng sống cần thiết sẽ dẫn đến các em dễ có những hành vi
khơng đúng mực, dễ sa ngã nhất.
Mặc dù từ năm học 2011-2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng
cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh", tích cực lồng ghép dạy
học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.
Tuy nhiên với thói quen dạy và học chưa có tích hợp GD KNS trước kia, nhiều
GV cảm thấy rất khó khăn khi lồng ghép GD KNS cho HS vào giờ học. Hơn thế
nữa, do thời lượng của giờ dạy giới hạn và việc phải đảm bảo nội dung chương
trình học đã khiến cho nhiều GV bộ môn bỏ qua việc lồng ghép GD KNS vào
bài học hoặc nếu có thì chỉ hời hợt qua loa. Mặt khác, GD KNS cho các em HS
là rất cần thiết nhưng do mới được yêu cầu áp dụng rộng rãi nên còn chưa có tài
liệu chuẩn cho các nhà trường vận dụng. Nhiều trường học hiểu chưa rõ về
chương trình này lại càng hoang mang, khơng biết dạy cái gì và dạy như thế nào.
Nhiều GV bối rối không biết phải GD KNS cho HS ra làm sao, lồng ghép vào
khi nào và lồng ghép như thế nào cho hợp lí. Ngay cả chính bản thân một số GV
cũng chưa có đủ những KNS cần thiết để áp dụng vào cuộc sống thì việc vận
dụng các phương pháp GD KNS để truyền đạt nội dung tới các em HS lại càng
khó khăn.[7]
Việc thực hiện GD KNS cho học sinh trường THPT Ngọc Lặc cũng không
ngoại lệ. Tôi xin nêu một số trường hợp điển hình ở lớp 10A10 năm học 2015
-2016 như sau: Em Cẩm Linh khi được GV quan tâm và tìm hiểu về hồn cảnh
gia đình mình thì em ngượng ngùng không chia sẻ; chỉ mới là HS lớp 10 nhưng
em Huy Hoàng liên tục gây rối đánh nhau với các bạn, em Thương Hồi vì phút

bồng bột đã để lại hậu quả, kết quả phải bỏ học ở nhà đi lao động, em Phương
Thanh bỏ học đi làm ăn rồi quay trở lại trường học bỏ lỡ mất 2 năm tuổi trẻ…
Tất cả vấn đề này, nếu suy ngẫm một cách thật thấu đáo thì nguyên nhân phần
nhiều là do các em chưa có đủ KNS để có thể đối mặt được với những thách
thức, áp lực trong suộc sống.
6


Từ những vấn đề thực tiễn rất nhức nhối nêu trên, với vai trò là một GV
trong nhà trường, với tinh thần trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm
(GVCN), tơi thấy mình cần phải thực hiện việc GD KNS cho các em HS mà
trước hết là những HS lớp mình chủ nhiệm để các em có thể thích ứng với cuộc
sống hiện đại tốt nhất. Vì vậy tơi đã quyết định chọn đề tài này.
3. Các giải pháp đã áp dụng.
Việc đưa GD KNS vào giờ sinh hoạt lớp chủ yếu thông qua nội dung sinh
hoạt trong từng buổi nhằm làm tăng tính chủ động của HS trong lớp, phát huy
năng lực của từng cá nhân, nhấn mạnh vai trị của tập thể, để HS thấy được và từ
đó luôn ý thức được tinh thần cũng như KN làm việc nhóm trong q trình giải
quyết các vấn đề chung. Chính vì vậy, tơi xin đưa ra các kịch bản sinh hoạt lớp
mà tôi đã từng thực hiện với lớp chủ nhiệm trong q trình tơi được nhận nhiệm
vụ làm công tác chủ nhiệm như sau:
Mỗi tiết sinh hoạt lớp được chia thành 2 hoạt động chủ đạo.
Hoạt động 1 :
Lớp trưởng cùng với các tổ trưởng sơ kết tuần vừa qua. GVCN tuyên
dương, khen thưởng những HS có thành tích tốt trong tuần, nhắc nhở HS vi
phạm và nhận xét chung, phổ biến KH của tuần tới.( Hoạt động này chiếm tối đa
15 phút)
Hoạt động 2 : ( toàn bộ thời gian còn lại)
Tổ chức hoạt động tập thể theo chủ đề và kịch bản đã được GVCN và ban
cán sự lớp chuẩn bị trước.

3.1. Kịch bản 1: Tổ chức trò chơi
* Những lưu ý khi tổ chức trò chơi cho các em HS lớp chủ nhiệm như sau:
- Khơng nên sa đà vào việc tổ chức các trị chơi mang tính giải trí đơn
thuần, sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung GD KNS trong giờ
sinh hoạt.
- GVCN phải chuẩn bị trước và tham khảo thêm các trò chơi cho phù hợp,
thay đổi nội dung và phương thức sinh hoạt để tránh nhàm chán. Có thể tham
khảo thêm ý tưởng từ chính các em học sinh.
Một số trị chơi có thể tiến hành trong giờ sinh hoạt nhằm GD KNS cho
HS
* Trò chơi 1: Mong muốn, hi vọng, quan tâm
- Yêu cầu:
+ GV: Chuẩn bị một cái hộp khơng có nắp đậy bằng thùng cacton có bọc giấy
và trang trí sinh động.( Việc này có thể có sự hỗ trợ từ trước của các bạn cán bộ lớp)
+ HS: Tất cả các HS trong lớp tham gia, mỗi em chuẩn bị một tờ giấy trắng
và một cây bút viết.
* Chú ý : Do số lượng học sinh nhiều nên có thể tiến hành trị chơi này
trong 2hoặc 3 tiết sinh hoạt và nên tổ chức ngay trong những tuần đầu tiên của
năm học. Việc này sẽ giúp GVCN nắm bắt được hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng
của HS lớp chủ nhiệm, từ đó có những biện pháp giáo dục phù hợp cũng như có
những động viên chia sẻ kịp thời những khó khăn của các em.
7


- Cách tiến hành:
+ Các em HS độc lập làm việc, ghi đầy đủ những mong muốn, hy vọng của
các em và những điều các em đang quan tâm đến vào tờ giấy của mình.(Để đảm
bảo tính riêng tư, các em không ghi tên lên tờ giấy)
+ GV yêu cầu lớp trưởng thu lại tất cả những mảnh giấy này để vào hộp,
sau đó yêu cầu mỗi HS ngẫu nhiên chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên

những mong muốn, hi vọng, quan tâm cho HS cả lớp cùng nghe.
+ GVCN chọn một HS lên viết ra những thơng tin đó lên trên bảng.
+ GVCN tổng hợp lại những mong muốn, suy nghĩ, tâm tư và nguyện vọng
của các HS. Từ đó GV đưa ra lời nhận xét, phân tích về những điều mà các em
đang cần và đang quan tâm, những mơ ước và hoài bão của các em HS. Từ đó
giúp các em thấy được những cái nào là thiết thực, là nhiệm vụ trước mắt, những
gì là tương lai xa để các em định hướng được suy nghĩ, hành động của bản thân
cho phù hợp với từng giai đoạn.
- Kĩ năng được hình thành và củng cố:
+ KN tự nhận thức và KN xác định giá trị bản thân: Được hình thành trong
hoạt động HS tự mình viết ra những mong muốn riêng của mình, nói lên những
điều mình hi vọng sẽ đạt được và cả những điều mà mình quan tâm đến
+ KN lãnh đạo : lớp trưởng được giao nhiệm vụ thu các mẫu giấy của các bạn
thể hiện vai trò lãnh đạo lớp.
+ Kĩ năng lắng nghe: Được hình thành khi GV nêu u cầu, thơng báo luật,
nội dung của trị chơi; HS phải lắng nghe để xác định rõ luật chơi và cách
chơi.Và quan trọng hơn hết, các em biết lắng nghe các thông tin được đọc ra từ
các mảnh giấy do chính các em và các bạn viết nên.
+ Kĩ năng thuyết trình: Được hình thành khi HS đứng dậy và đọc những
điều được ghi trong các mảnh giấy lấy ra từ trong hộp.
+ Kĩ năng giao tiếp và ứng xử: Được hình thành và củng cố thơng qua q
trình giao tiếp giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS trong q trình thực
hiện trị chơi.
* Trị chơi 2 : Vẽ khuôn mặt với các biểu cảm khác nhau
- Yêu cầu :
+ GV : chuẩn bị một số tờ giấy trắng nhỏ và phát cho HS
( Để trò chơi đạt được kết quả như mong muốn, GVCN nên có sự quan sát
nhanh trạng thái tâm lí hiện tại của HS trong lớp, từ đó phát giấy đúng đối
tượng mà mình mong muốn. Có thể phát ngẫu nhiên cho một vài em bình
thường trong lớp để khơng bị “lộ ý đồ”)

+ HS : Số lượng tham gia khoảng 10 em / lần / buổi.
Cách tiến hành :
+ Các em HS sẽ vẽ vào tờ giấy trắng một khuôn mặt với đúng biểu hiện
cảm xúc hiện tại của mình( vui, buồn, giận dữ, thất vọng,…) và nộp lại.
+ GV sẽ lần lượt bốc ngẫu nhiên một khuôn mặt và yêu cầu HS đó thành
thật nêu ra lí do vì sao em lại vẽ khuôn mặt như vậy: Do chuyện gia đình hay
chuyện học hành trên lớp hay mối quan hệ bạn bè…
8


+ Sau khi lắng nghe một cách chân thành, GV sẽ mời một số bạn trong lớp
góp ý, thảo luận… và cuối cùng đưa ra lời khuyên bổ ích, phù hợp cho các em.
- Kĩ năng được hình thành và củng cố:
+ KN kiểm sốt cảm xúc: Được hình thành khi các em bình tĩnh nêu ra
được vấn đề mà bản thân gặp phải, biết suy nghĩ thấu đáo và tìm ra được hướng
giải quyết phù hợp để khơng có những cảm cúc tiêu cực ảnh hưởng đến bản
thân.
+ KN tìm kiếm sự hỗ trợ: Được hình thành khi HS nhận được những sự tư
vấn, phân tích hữu ích từ các bạn và cơ giáo. Từ đó giúp HS thấy được khi gặp
vấn đề, những tình huống khó khăn trong cuộc sống có thể tìm kiếm sự hỗ trợ
từ thầy cơ, bạn bè.
+ KN lắng nghe tích cực: Được hình thành khi các em biết lắng nghe
những vấn đề của các bạn, từ đó có những điều chỉnh hành vi, suy nghĩ phù hợp
hoặc có thể đưa ra những lời khuyên bổ ích cho các bạn.
+ KN thể hiện sự cảm thơng: Được hình thành khi các em biết được những
khó khăn mà bạn mình đang gặp phải. Từ đó có những sự sẻ chia, giúp đỡ, cảm
thơng cho bạn.
+ KN giải quyết mâu thuẫn: Được hình thành khi các em biết giải quyết
những vấn đề của các bạn có liên quan đến mình. Các em sẽ có cơ hội trao đổi
thẳng thắn dưới sự dìu dắt của cơ giáo để từ đó tìm được tiếng nói chung, kết

quả mâu thuẫn được giải quyết.
* Trị chơi 3: Tìm bạn bằng nửa trái tim
Nội dung:
GV Cắt những trái tim bằng bìa carton, tơ màu khác nhau cho đẹp.Sau đó
dùng kéo cắt trái tim ra làm 2 theo những đường răng cưa khác nhau. Một nửa
ghi chữ “ Nếu”, một nửa ghi chữ “ Thì”.[6]
Cách tiến hành:
+ GVCN chọn lớp trưởng làm người điều khiển trò chơi, hướng dẫn luật
chơi cho lớp trưởng. Sau đó cho lớp trưởng tổ chức trị chơi.
+ Chọn số HS nam và nữ bằng số trái tim đã cắt. Chia thành 2 nhóm.
+ Phát ngẫu nhiên cho mỗi HS một nửa trái tim. HS viết vào nửa trái tim
của mình theo yêu cầu( nếu, thì).
+ Sau khi viết xong, lớp trưởng hơ: “ Hãy tìm bạn bằng nửa trái tim”.
Người chơi nhanh chóng tìm ra bạn của mình bằng cách so nét cắt của nửa trái
tim sao cho khớp nhau.
+ Người điều khiển sẽ đọc từng câu (nếu…thì) trên từng trái tim. Sau đó
mời các bạn cịn lại trong lớp “ bình luận” để tìm ra cặp nào ấn tượng nhất.
Kĩ năng được hình thành và củng cố:
+ KN thể hiện sự tự tin: Được hình thành khi HS tự tin tham gia trị chơi
mà khơng trốn tránh, xấu hổ; khi lớp trưởng tự tin điều hành trị chơi thay
GVCN.
+ KN tư duy, sáng tạo: Được hình thành khi học sinh được thỏa ý viết tiếp
các mệnh đề “ nếu- thì” mà khơng phải lo lắng về tính đúng sai của nó.
9


+ KN hợp tác: Được hình thành khi các nhóm tham gia trò chơi đúng yêu
cầu, đúng luật đưa trò chơi đi đến thành công mà không bị “ vỡ trận”
+ KN lãnh đạo: Được hình thành khi lớp trưởng điều hành tồn bộ hoạt
động của các nhóm khi tham gia trị chơi.

3.2. Kịch bản 2: Kể chuyện
GVCN có thể kể những câu chuyện ngắn nhưng súc tích, giàu ý nghĩa, giàu
giá trị nhân văn để kể cho các em nghe. Qua đó các em thấy được sự gần gũi
giữa cơ và trị, đồng thời qua lời kể truyền cảm của cô giáo, các em cảm nhận
được sâu sắc những thơng điệp mà các câu chuyện đó đem đến.
Câu chuyện 1: Hai vương quốc. (Kịch bản này nên được thực hiện trong
những tuần đầu năm học )
Ngày xửa ngày xưa, có hai vương quốc là Rumpleland và Padoodleplace.
Một ngày tình cờ, cả hai vương quốc đều đưa ra một điều luật mới. Điều luật
cho rằng, khơng một ai có thể tưới nước trong vườn vào các ngày thứ Hai. Vua
Rumpleland chỉ đơn thuần cho dán điều luật mới này và yêu cầu binh lính đi
quanh thị trấn và bắt giữ tất cả người dân nào tưới nước trong vườn vào ngày
thứ Hai.
Ngày thứ Hai tiếp theo, các binh lính bắt được 12 người dân tưới nước
trong vườn. Người dân rất tức giận hỏi: “Tại sao Vua lại ra một luật lệ như thế
làm gì? Luật này chả có ý nghĩa gì cả, tại sao chúng ta lại khơng được tưới nước
trong vườn vào các ngày thứ hai?”
Những người dân thị trấn Rumpleland đều nghe nói tới việc bắt giữ này. Họ
vẫn quyết định phải tưới nước tại vườn chỉ để nhà vua biết rằng ông ta không thể
đàn áp họ như thế. Họ phân cơng nhau canh gác binh línhtrong khi hàng xóm
tưới nước cho khu vườn của mình. Nhưng trong vịng 2 tuần, khơng ai cịn nước
nữa, kể cả nước để uống. nước sông vùng Rumpleland đã cạn kiệt.
Tại Padoodleplace, Vua đã chính thức gặp những người dân trong vùng và
nói “ Nước trong vùng đã sắp cạn kiệt rồi, chúng ta nên làm gì đây? Nếu chúng
ta khơng bớt sử dụng nước, nước sông sẽ cạn kiệt. ”
Người dân đã đóng góp rất nhiều ý kiến. Cuối cùng có một người gợi ý
rằng khơng ai được tưới nước trong vườn vào các ngày thứ hai. Vua và những
người dân khác trong vùng suy tính một lúc. Cuối cùng, họ đưa ra quyết định kế
hoạch đó là kế hoạch tốt nhất nhằm hạn chế người dân sử dụng nước.Vị Vua đã
yêu cầu người dân trong vương quốc mình quay trở lại vùng và giải thích cho

những cơng dân khác.
Mọi người trong vùng Padoodleplace đều nghe nói tới điều luật này. Họ đã
hiểu tại sao họ cần phải sử dụng ít nước đi. Do đó, họ nhắc nhở bất cứ ai qn
khơng thực hiện theo điều luật. Do có sự nỗ lực của tất cả mọi người, tất cả
người dân đều duy trì được lượng nước họ cần dùng cho đến khi mùa mưa tới và
nước sông lại đầy.[2]
Câu hỏi suy nghĩ và thảo luận.
Câu 1: Em hãy nói cho bạn bên cạnh biết điều luật mới của 2 vương quốc ?
Câu 2: Em có suy nghĩ gì về cách nhà vua vùng Rumpleland thực hiện điều
luật và phản ứng của người dân vùng Rumpleland trước điều luật mới?
10


Câu 3: Suy nghĩ của em về cách thực hiện điều luật mới của Vua
Padoodleplace và phản ứng của người dân trong vương quốc này?
Câu 4: Tại sao người dân mỗi vương quốc lại có phản ứng khác nhau trước
cùng một điều luật?[2]
- GV sẽ mời khoảng 2 hoặc 3 em học sinh đứng lên trình bày những suy
nghĩ của mình.
- GV sẽ phân tích thêm nội dung, ý nghĩa của từng câu trả lời để các em hiểu
rõ hơn từ đó rút ra được bài học cho bản thân.
Bài học rút ra từ câu chuyện: Qua câu chuyện, học sinh rút ra được bài học về
cách làm việc hiệu quả. Để có hiệu quả như mong muốn chúng ta cần phải biết đề
đạt nguyện vọng của mình, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác một
cách chân thành. Có như vậy, dù việc có khó đến đâu cũng có thể có cách giải
quyết thấu đáo, hợp tình hợp lí nhất.
Liên hệ thực tiễn( Đây là nội dung quan trọng nhất ):
+ GVCN cùng cả lớp thảo luận để đề ra một bản nội quy lớp hoàn chỉnh và
cách thực hiện hiệu quả những nội quy đó.
+ HS hiểu được ý nghĩa của việc đưa ra những nội quy đó và nghiêm túc, tự

giác thực hiện với tinh thần cầu thị nhất.
Kĩ năng được hình thành và củng cố:
+ KN làm việc hiệu quả: Đứng trước mỗi công việc nên từ từ tìm cách thực
hiện, lắng nghe, tham khảo ý kiến của nhiều người. Khơng nên nóng vội, chủ
quan chỉ làm theo ý kiến riêng của cá nhân mà hỏng việc.
+ KN tìm kiếm sự hỗ trợ: Trước khi đưa ra quyết dịnh nên chia sẻ, tâm sự,
tham vấn ý kiến của nhiều người, từ đó tìm ra phương pháp thực hiện tối ưu nhất.
+ KN giao tiếp: Thể hiện trong việc trình bày cũng như đối thoại với người
khác khi giải quyết công việc.
+ KN lắng nghe tích cực: Biết tơn trọng và quan tâm đến ý kiến của người
khác, nhờ đó làm cho việc giao tiếp, thương lượng và hợp tác của họ hiệu quả
hơn. Lắng nghe tích cực cũng góp phần giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa
và xây dựng.
+ KN hợp tác: Thể hiện trong việc cùng nhau giải quyết một vấn đề sao cho
đạt hiệu quả nhất.
Câu chuyện 2: Ngọn nến
Một tối mất điện, ngọn nến được đem ra đặt giữa phòng. Người ta châm lửa
cho ngọn nến và nến lung linh cháy sáng. Nến hân hoan nhận ra rằng ngọn lửa
nhỏ nhoi của nó đã mang lại ánh sáng cho cả căn phòng. Mọi người đều trầm
trồ: “ Ồ, nến sáng q, thật may, nếu khơng chúng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì mất”.
Nghe vậy, nến vui sướng dùng hết sức mình đẩy lùi bóng tối ra xung quanh.
Thế nhưng, những dịng sáp nóng đã bắt đầu chảy ra, lăn dài theo thân nến.
Nến thấy mình càng lúc càng ngắn lại. Đến khi chỉ cịn một nửa, nến giật mình:
“ Chết mất, ta mà cứ cháy mãi thế này thì chẳng bao lâu sẽ tàn mất thôi. Tại sao
ta phải thiệt thịi như vậy?”
Nghĩ rồi, nến nương theo một cơn gió thoảng để tắt phụt đi. Một sợi khói
mỏng manh bay lên rồi nến im lìm.
11















×