Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN PHƯƠNG PHÁP GIÁO dục kỷ LUẬT TÍCH cực áp DỤNG tại TRƯỜNG THPT bỉm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 32 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay ngành giáo dục đang từng bước đổi mới theo hướng tiến bộ hơn,
tích cực hơn nhằm tạo ra con người Việt Nam trong thời đại mới, đáp ứng được
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh việc đổi mới về chương
trình học, đổi mới về phương pháp dạy học thì phương pháp giáo dục cũng có
nhiều thay đổi. Một trong những phương pháp giáo dục học sinh hiện nay đang
được triển khai và áp dụng trong ngành giáo dục là “Phương pháp giáo dục kỷ luật
tích cực”.
Trong cuộc sống, ai cũng có thể đã từng mắc lỗi, mắc lỗi là một phần của cuộc
sống, là một phần của quá trình học tập và trưởng thành của tất cả mọi người. Đa
số người lớn đều mong muốn con em, học sinh của mình có ý thức kỷ luật, giữ gìn
nề nếp tốt, chủ động, tự tin, là “con ngoan trò giỏi”. Tuy nhiên, làm thế nào để đạt
được điều đó luôn là câu hỏi khiến nhiều phụ huynh, giáo viên trăn trở, đặc biệt là
đối với những trẻ em thường bị coi là bướng bỉnh, hay quậy phá, mắc lỗi. Trong rất
nhiều trường hợp khi trẻ mắc lỗi, người lớn thường dùng các hình phạt hà khắc
như đánh đập, mắng chửi để mong muốn trẻ thay đổi, sửa sai và không phạm lại lỗi
đó nữa. Song kết quả thường không được như họ mong muốn. Thay vì làm theo ý
người lớn, nhiều trẻ em trở nên khó bảo hơn, lì lợm và chống đối; cũng có nhiều
trẻ trở nên khép mình hơn, trầm cảm và thiếu tự tin. Hậu quả là trẻ thường học tập
kém, phát triển không toàn diện về thể chất, tinh thần và mối quan hệ với người lớn
ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ngược lại, nếu cha mẹ, thầy cô có thể sử dụng các
phương pháp kỷ luật tích cực thì con sẽ vẫn thay đổi được hành vi không mong
muốn mà vẫn cảm thấy được yêu thương, tôn trọng, an toàn, được hiểu và cảm
thấy mình có giá trị, phẩm giá.
Tại trường THPT Bỉm Sơn, song song với phong trào thi đua dạy tốt học tốt, đổi
mới phương pháp dạy học, năm học 2018-2019 nhà trường đã triển khai chuyên đề
“Phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực” đến từng giáo viên, sau khi được tập huấn
tại sở giáo dục và đào tạo. BGH nhà trường khuyến khích và tạo điều kiện để giáo
viên áp dụng phương pháp mới trong quá trình giáo dục học sinh. Cá nhân tôi đã


áp dụng phương pháp này tại lớp 11B5 và một số lớp khác tại trường THPT Bỉm
Sơn, bước đầu đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía học sinh, phụ huynh
học sinh và các đồng nghiệp. Với kinh nghiệm hơn 20 năm làm công tác chủ
1


nhiệm và quá trình áp dụng phương pháp giáo dục mới tôi đã mạnh dạn viết thành
sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT
TÍCH CỰC ÁP DỤNG TẠI TRƯỜNG THPT BỈM SƠN” để phổ biến cho các
bạn đồng nghiệp và cho bản thân rút kinh nghiệm để làm tốt hơn nhiệm vụ của
mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này nhằm mục đích:
1.2.1.Tăng cường hiểu biết cho giáo viên về phương pháp giáo dục kỉ luật tích
cực và đặc điểm phát triển của HS trung học phổ thông.
1.2.2. Hỗ trợ GV thực hiện các biện pháp, vận dụng phương pháp giáo dục kỉ
luật tích cực trong dạy học và giáo dục HS.
Dù đã triển khai chuyên đề đến từng giáo viên nhưng nhiều giáo viên vẫn còn
lúng túng khi áp dụng vào các tình huống cụ thể. Một số giáo viên còn chậm đổi
mới trong việc xử lý tình huống. Các biện pháp phổ biến hiện nay khi xử lý kỷ luật
học sinh là phê bình trước lớp, hạ hạnh kiểm, ghi học bạ, phê bình trước cờ, đưa ra
hội đồng kỷ luật, đuổi học,…Giáo viên cần gần gũi các em, hiểu tâm tư tình cảm,
hoàn cảnh gia đình, bằng tình yêu thương sẽ dễ cảm hóa giáo dục học sinh.
1.2.3. Giúp phụ huynh học sinh thay đổi cách dạy dỗ con cái bằng các biện
pháp giáo dục kỷ luật tích cực. Bố mẹ cần quan tâm đến tâm tư tình cảm của các
con nhiều hơn, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các con. Khi các con mắc lỗi cần
tìm hiểu nguyên nhân và phân tích để chúng nhận ra cái sai cái đúng để trẻ tự điều
chỉnh hành vi. Động viên kịp thời khi các con tiến bộ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng học sinh THPT: Tôi áp dụng đề tài này tại lớp 11B5 và các lớp 11

của trường THPT Bỉm Sơn.
- Đối tượng là phụ huynh khối 11 trường THPT Bỉm Sơn. Qua các buổi họp phụ
huynh và các buổi tiếp xúc phụ huynh tôi tìm hiểu và nói chuyện về tính cách của
HS, về tâm tư nguyện vọng của các con và phương pháp giáo dục của gia đình từ

2


đó tôi giúp phụ huynh hiểu về tâm sinh lý tuổi mới lớn và phổ biến đến phụ huynh
phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Về lý thuyết: Tìm hiểu về phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực. Tìm
hiểu về thực trạng giáo dục con trẻ của các bậc phụ huynh và trong các nhà trường
hiện nay. Tìm hiểu về tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT.
1.4.2. Về thực nghiệm: Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin từ các bậc
phụ huynh, từ các em học sinh bằng các phiếu thăm dò, từ đó lựa chọn những
phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng giáo dục.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Những vấn đề cơ bản của phương pháp kỷ luật tích cực.[1]
2.1.1.1. Kỷ luật: Là những quy tắc, quy định, luật lệ mà con người phải thực
hiện, chấp hành và tuân theo.
*Kỷ luật tích cực:
- Là động viên
- Khuyến khích
- Hỗ trợ trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh
- Nuôi dưỡng lòng ham học
- Ý thức kỷ luật tự giác.
- Tự nhận hình thức kỷ luật, cam kết không tái phạm.
* Kỷ luật tích cực không phải là luôn chú ý kỷ luật học sinh, hoặc hình phạt

nặng hơn trước mà cần có những quan niệm giáo dục như:
-Việc mắc lỗi của học sinh được coi là lẽ tự nhiên của quá trình học tập, rèn
luyện và phát triển trong nhà trường.
3


-Việc quan trọng của ngành giáo dục là làm thế nào học sinh nhận thức được
bản thân, tự kiểm soát hành vi, thái độ trên cơ sở các qui định, nội qui…
-Như vậy người giáo viên là người phân tích đúng sai, đối chiếu các qui định
của những hành vi không đúng để học sinh nhận ra lỗi của mình để điều chỉnh
sữa đổi, tiến bộ không mắc lỗi lần sau.
* Giáo dục kỉ luật tích cực là:
- Những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật tự giác của HS.
- Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà HS phải tuân thủ.
- Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh.
- Dạy cho HS những kĩ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời.
- Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và
cuộc sống của các em.
- Dạy cho học sinh cách cư xử lịch sự, nhã nhặn, không bạo lực, có sự tôn
trọng bản thân, biết cảm thông và tôn trọng quyền của người khác.
2.1.1.2. Giáo dục kỷ luật tích cực [1]
Giáo dục kỷ luật tích cực là cách tiếp cận mang tính giáo dục, giúp xây dựng
sự tự tin, lòng tự trọng và tính trách nhiệm cao ở trẻ.
Giáo dục kỷ luật tích cực là giáo dục học sinh tự kiểm soát và tự tin để biết
cách thực hiện hành vi mong đợi; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần
của trẻ; có sự thỏa thuận giữa người lớn – trẻ em và phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý trẻ em.
Giáo dục kỷ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho các em tính tự giác
tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu
dài.


4


2.1.1.3. Cơ sở của giáo dục kỷ luật tích cực [1]
Giáo dục kỷ luật tích cực dựa trên cơ sở:
Những hiểu biết về sự phát triển tâm lý của học sinh trong từng giai đoạn lứa
tuổi;
Các lĩnh vực phát triển của học sinh: thể chất, nhận thức, cảm xúc, xã hội;
Những nhu cầu cơ bản của học sinh: an toàn, yêu thương, hiểu – thông cảm,
tôn trọng, có giá trị;
Tại sao học sinh “hư” và những cảm xúc của người lớn.
2.1.1.4. Giáo dục kỷ luật tích cực cung cấp cho giáo viên, phụ huynh [1]
Hiểu biết về một số cách giáo dục không phù hợp: trừng phạt – hiệu quả và
hậu quả;
Cách giáo dục tích cực: Hệ quả tự nhiên và logic, thời gian tạm lắng;
Phương pháp hình thành, thiết lập nội quy, nề nếp kỷ luật trong nhà trường,
lớp học, gia đình.
Kỹ năng lắng nghe tích cực;
Những nguyên tắc của khích lệ và củng cố hành vi tích cực ở học sinh;
Một số cách thức chế ngự căng thẳng và tức giận.
2.1.2. Phương pháp kỷ luật tích cực
2.1.2.1. Các đặc điểm của phương pháp kỷ luật tích cực [1]
Không bạo lực và tôn trọng trẻ; thực hiện các tác động giáo dục phù hợp với
nhu cầu, trạng thái của trẻ, giúp trẻ khắc phục nhận thức, hành vi chưa đúng của
bản thân.
Tạo cho trẻ có cảm giác an toàn, thân thiện và được tôn trọng bằng việc lắng
nghe tích cực và khích lệ trẻ, giúp họ có khả năng vượt qua các rào cản về tâm lý,
giảm bớt sự căng thẳng trong học tập và cuộc sống cá nhân
- Gia tăng năng lực hoạt động và cơ hội thành công cho trẻ bằng việc giáo

dục kĩ năng sống cơ bản (theo lứa tuổi) cho các em.
2.1.2.2. Phương pháp kỷ luật tích cực là gì? [1]
5


Phương pháp kỷ luật tích cực là biện pháp giáo dục học sinh không sử dụng
đến các hình thức bạo lực, trừng phạt mà thay vào đó là sử dụng những hình thức
kỉ luật tích cực, phù hợp để giúp học sinh giảm thiểu những hành vi không phù
hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát triển nhân cách một cách tốt đẹp, bền
vững.
2.1.3. Nguyên tắc thực hiện phương pháp kỷ luật tích cực. [1]
- Nguyên tắc 1: Vì lợi ích thực tế nhất của học sinh
- Nguyên tắc 2: Không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần
- Nguyên tắc 3: Khích lệ và tôn trọng lẫn nhau
- Nguyên tắc 4: Phù hợp với đặc điểm và sự phát triển của lứa tuổi học sinh
2.1.4. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT.
Học sinh THPT đang ở độ tuổi trưởng thành ở giai đoạn đầu của tuổi thanh
niên, ở độ tuổi này có những đặc điểm sau:
2.1.4.1. Về phát triển thể chất [2]
Cơ thể các em đã đạt đến mức phát triển của người trưởng thành, nhưng
chưa hoàn thiện so với người lớn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có
điều kiện phát triển mạnh. Ở độ tuổi này các em dễ bị kích động, thích bắt chước,
thích thể hiện là người lớn.
2.1.4.2. Về phát triển trí tuệ [2]
Hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí
tuệ. Cảm giác và tri giác của các em đã đạt đến mức độ người lớn. Khả năng quan
sát phát triển, tuy nhiên sự quan sát của các em thường phân tán, chưa tập trung
cao vào một nhiệm vụ nhất định.
2.1.4.3. Về phát triển nhân cách [2]
-Sự tự ý thức: Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân

cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa
tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc
điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Các em không chỉ nhận
6


thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội
tương lai. Ý thức làm người lớn khiến các em thích khẳng định mình, muốn thể
hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến
mình.
Với những đặc điểm đó, người lớn, thầy cô giáo cần phải lắng nghe ý kiến
của các em đồng thời cần giúp các em có sự nhìn nhận khách quan về nhân cách
của mình, tự nhận thức và xác định được giá trị của bản thân nhằm giúp cho sự tự
đánh giá bản thân được đúng đắn hơn, xác định được điểm mạnh, điểm yếu để tự
điều chỉnh hoàn thiện bản thân, tránh những suy nghĩ lệch lạc, phiến diện hoặc quá
ảo tưởng hoặc quá tự ti về bản thân dẫn đến các biểu hiện hành vi không tích cực.
-Sự hình thành thế giới quan: Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu
trong tâm lý tuổi học sinh THPT. Vì các em sắp trở thành người lớn, chuẩn bị bước
vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá tự nhiên, xã hội, về
các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Các em
quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu, cái đẹp, cái thiện, cái
ác, quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi
và nghĩa vụ trách nhiệm…
Để giúp các em điều chỉnh suy nghĩ tư tưởng lệch lạc, giáo viên phải khéo
léo, tế nhị khi phê phán những biểu hiện tư tưởng qua thái độ hành vi chưa đúng
đắn của học sinh, giúp các em thay đổi nhận thức, điều chỉnh hành vi thái độ của
mình. Giáo viên cần tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm, suy nghĩ của
học sinh, nguyên nhân của những hành vi không tích cực để giúp các em phát triển
đúng hướng. Tuyệt đối không dùng bạo lực.
-Hoạt động giao tiếp: Ở tuổi học sinh THPT các em có nhu cầu sống tự lập,

có nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể. Thích được giao lưu,
thích được tham gia các hoạt động tập thể. Tình bạn đối với các em ở độ tuổi này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình bạn thân thiết chân thành sẽ cho phép các em
nhìn nhận, điều chỉnh bản thân. Ở lứa tuổi này tình yêu cũng có thể bắt đầu nảy nở.
Cảm xúc của các em ở giai đoạn này rất phức tạp, dễ ảnh hưởng đến học tập, nhiều
em không làm chủ được bản thân dẫn đến học hành sa sút.
Giáo viên cấn hết sức bình tĩnh, coi đây là sư phát triển bình thường và tất
yếu trong sự phát triển của con người, tế nhị, khéo léo không nên can thiệp một
cách thô bạo như cấm đoán, kiểm điểm phê bình, bêu gương trước lớp…sẽ làm tổn
thương đến tình cảm và lòng tự trọng của các em. Giáo viên nên gặp gỡ khuyên
nhủ để các em xác định được nhiệm vụ học tập và có thái độ đúng đắn trong quan
7


hệ tình cảm với bạn khác giới. Giúp các em biết kìm chế những cảm xúc của bản
thân để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra ảnh hưởng đến học tập và tương lai
sau này.
Có thể nói lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ đặc biệt quan trọng trong cuộc
đời của mỗi con người. Các em đứng trước “ngưỡng cửa cuộc đời”, Giai đoạn này
có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại. Giáo viên và phụ huynh
phải hiểu tâm lý của lứa tuổi này để có những cách giáo dục phù hợp.
2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức trong trường phổ thông và giáo dục con em
trong các gia đình hiện nay.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay đang có những biến đổi mạnh mẽ, việc nuôi
dạy, giáo dục trẻ ở nhà và ở trường ngày càng trở nên thách thức hơn. Đa số người
lớn đều mong muốn con em, học sinh của mình có ý thức kỷ luật, giữ gìn nề nếp
tốt, chủ động, tự tin, là “con ngoan trò giỏi”.
Tuy nhiên, làm thế nào để đạt được điều đó luôn là câu hỏi khiến nhiều phụ
huynh, giáo viên trăn trở, đặc biệt là đối với những trẻ em thường bị coi là bướng
bỉnh, hay quậy phá, mắc lỗi. Trong rất nhiều trường hợp khi trẻ mắc lỗi, người lớn

thường dùng các hình phạt hà khắc như đánh đập, mắng chửi để mong muốn trẻ
thay đổi, sửa sai và không phạm lại lỗi đó nữa. Song kết quả thường không được
như họ mong muốn. Thay vì làm theo ý người lớn, nhiều trẻ em trở nên khó bảo
hơn, lì lợm và chống đối; cũng có nhiều trẻ trở nên khép mình hơn, trầm cảm và
thiếu tự tin. Hậu quả là trẻ thường học tập kém, phát triển không toàn diện về thể
chất, tinh thần và mối quan hệ với người lớn ngày càng trở nên tồi tệ hơn.
Trong thực tế, đa phần giáo viên đang rất nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ
trồng người, nêu gương sáng cho cho học sinh noi theo, là chỗ dựa tin cậy cho học
sinh bày tỏ tâm tư suy nghĩ tình cảm của mình những lúc khó khăn trong cuộc
sống. Các thầy cô giáo đã xử lý tinh tế khi học sinh phạm lỗi.
Tuy nhiên, không ít giáo viên đã sử dụng các hình thức kỷ luật không phù
hợp, làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của các em học sinh, gây hậu quả
nghiêm trọng. Gần đây, hiện tượng giáo viên sử dụng các biện pháp trừng phạt
thân thể và xúc phạm tinh thần của học sinh trong lúc dạy học vẫn xảy ra gây bức
xúc trong trong xã hội và gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngành giáo dục. Điển
hình như vụ việc xảy ra tại trường tiểu học An Đồng, huyện An Dương, thành phố
Hải Phòng phạt học sinh bằng cách bắt học sinh uống nước vắt từ giẻ lau bảng;
Hay vụ việc một học sinh tại trường THCS Duy Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình phải nhập viện vì bị tát 231 cái từ 23 bạn học trong lớp và từ cô giáo
8


khi học sinh này vi phạm kỷ luật. Còn nhiều vụ việc gần đây xảy ra trong ngành
giáo dục gây bức xúc trong dư luận.
Về phía gia đình, do ảnh hưởng của từ cha mẹ ông bà bởi cách giáo dục
trước đây là “thương cho roi cho vọt” nên khi con cái mắc lỗi, thì bố mẹ đánh thật
đau để chừa thói hư tật xấu. Điển hình như gần đây trên các phương tiện thông tin
vụ bé trai 10 tuổi tại Hà Nội bị bố và mẹ kế bạo hành vì chưa chăm học. Hay gần
nhất là vụ việc xảy ra tại Hà Tĩnh, một học sinh bị cậu ruột đánh cho đến tử vong
vì nghi ngờ cậu bé lấy trộm tiền.

Những vụ việc nổi cộm thời gian qua đã chứng tỏ một bộ phận giáo viên và
trong một số gia đình chưa được trang bị đầy đủ các phương pháp giáo dục khi học
sinh hoặc con em mình khi mắc lỗi. Vẫn còn sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể
và xúc phạm tinh thần của các em. Nguyên nhân này có thể kể đến là do:
-Một bộ phận các thành viên trong xã hội còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng
phong kiến. Quan niệm người lớn bắt trẻ em phải phục tùng, không được cãi lại.
Quan niệm này được truyền từ đời này sang đời khác và nghiễm nhiên nó trở thành
một biện pháp giáo dục mang tính chất phổ biến.
-Quan niệm sai lầm về giáo dục học sinh thông qua các hình thức kỷ luật.
Trong giáo dục truyền thống, quan niệm “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt
cho bùi” hoặc “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời” vẫn được hầu hết các bậc
phụ huynh và các thầy cô giáo áp dụng. Nhiều người đã sử dụng biện pháp trừng
phạt thân thể khi trẻ mắc lỗi với hi vọng làm cho trẻ sợ, trẻ sẽ không tái phạm.
-Thiếu hiểu biết về tâm sinh lý của học sinh. Mỗi học sinh lớn lên đều trải
qua các giai đoạn phát triển tâm sinh lý, quá trình phát triển đó có nhiều ảnh hưởng
đến thái độ hành vi của các em. Cha mẹ, thầy cô phải nắm được tâm sinh lý của
từng giai đoạn để có những phương pháp giáo dục phù hợp nhằm đạt được mục
tiêu giáo dục, tránh những sự việc đáng tiếc xảy ra.
-Thiếu sự quan tâm, tình yêu thương.
Gia đình-nhà trường-xã hội là 3 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển và
trưởng thành của một con người. Tuy nhiên, một số em do hoàn cảnh mà thiếu đi
sự quan tâm và tình yêu thương từ phía gia đình. Về phía nhà trường, một số giáo
viên còn nóng vội hoặc thiếu hiểu biết khi dùng các biện pháp xử phạt nặng, hi
vọng học sinh học tập tốt hơn, ít quan tâm đến tâm tư, tình cảm hoàn cảnh của các
em. Về phía xã hội, một số người lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của học sinh để lạm
dụng, bắt lao động quá sức, bạo hành.
Dùng bạo lực với trẻ không phải là việc làm bình thường hay là việc riêng
của cha mẹ, thầy cô mà đó là sự bất lực của người lớn, là sự vi phạm luật pháp Việt
Nam và quốc tế. Khi giáo viên, phụ huynh có hiểu biết về các biện pháp giáo dục
9



kỷ luật tích cực và vận dụng có hiệu quả thì thì các em sẽ được sống trong môi
trường an toàn, có tình yêu thương, các em sẽ trở thành những công dân có ích cho
xã hội.
2.3. Vì sao cần đưa phương pháp kỷ luật tích cực vào trường phổ thông.
a) Thực hiện phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực là phù hợp với Công
ước quốc tế về quyền trẻ và luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục học sinh của Việt
Nam
b) Thực trạng giáo dục đạo đức hiện nay trong nhà trường phổ thông.
c) Thực hiện phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực phù hợp với mục tiêu
giáo dục của Việt Nam là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, thẩm mỹ và nghề nghiệp”
d) Thực hiện phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực mang lại lợi ích cho học
sinh, giáo viên, nhà trường, gia đình và xã hội.
- Học sinh:
+Có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, luôn cảm nhận được sự quan tâm,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến từ thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh
+Học sinh nhận ra được lỗi lầm, hạn chế của họ để khắc phục, sữa chữa,
phát triển toàn diện bản thân
+Học sinh sẽ tích cực, chủ động hơn trong học tập và rèn luyện bản thân
+Học sinh tự tin trước đám đông, không mặc cảm tự ti về những khuyết
điểm, hạn chế của bản thân
+Học sinh phát huy được những tiềm năng, những mặt tích cực, điểm mạnh
của cá nhân.
- Giáo viên:
+Giảm được áp lực quản lý lớp vì học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỷ
luật. Giáo viên không phải nhắc nhở, mất nhiều thời gian theo dõi, giám sát việc
thực hiện kỷ luật của học sinh; đỡ mệt mỏi căng thẳng vì phải xử lý nhiều vụ vi
10



phạm kỷ luật, giải quyết nhiều vấn đề khúc mắc trong quan hệ với học sinh, gia
đình và nhà trường.
+Xây dựng được mối quan hệ thân thiện Thầy – Trò. Trò kính trọng, tin
tưởng và yêu quý thầy cô;thầy cô hiểu, thông cảm với khó khăn của trò, yêu
thương và hết lòng vì học sinh
+Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh
- Nhà trường: Thực hiện được mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục; tạo ra môi trường học tập thân thiện, an toàn tạo được niềm tin
đối với gia đình học sinh và xã hội.
- Lợi ích đối với gia đình: HS trở thành những người có đủ phẩm chất và
năng lực cho tương lai. Điều này làm cha mẹ HS yên tâm lao động và công tác, gia
đình hòa thuận, hạnh phúc.
- Lợi ích đối với xã hội: Giảm thiểu được các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo
hành, bạo lực ; tiết kiệm kinh phí quốc gia trong việc chăm sóc, điều trị và trợ giúp
giải quyết các tệ nạn trên góp phần nâng cao đời sống cộng đồng, xây dựng xã hội
phồn vinh.
2.4. Các giải pháp đã dùng để đưa phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực áp
dụng tại trường THPT Bỉm Sơn.
2.4.1. Xây dựng nội quy lớp học, quy chế khen thưởng và hình thức phê bình.
Ngay từ khi bước vào lớp 10 trường THPT Bỉm Sơn, tôi đã cho học sinh đặc
biệt là học sinh lớp chủ nhiệm cùng góp ý xây dựng nội quy của lớp, quy chế khen
thưởng thi đua và tự đưa ra hình thức phê bình khi học sinh mắc lỗi.
2.4.1.1. Học sinh tự xây dựng các giá trị cốt lõi để tạo nên một tập thể vững
mạnh. Bắt đầu từ ý tưởng của mỗi cá nhân, sau đó lấy ý kiến thống nhất
chung. Sau khi thống nhất cho các em xây dựng hệ thống giá trị cốt lõi của tập
thể lớp.
Qua cuộc họp tổ, họp lớp, cho các em được đưa ra ý kiến của mình. Các tổ

trưởng và cán bộ lớp lắng nghe để tổng hợp ý kiến. Tại lớp 11B5 các em đã xây
dựng các yếu tố tạo nên một tập thể vững mạnh gồm:

11


“YÊU THƯƠNG-TÔN TRỌNG-TRÁCH NHIỆM-TRUNG THỰC-ĐOÀN KẾT”.
Các em tự trang trí lớp học dựa trên các ý tưởng chung. Một tập thể lớp vững mạnh
thì mỗi cá nhân sẽ phát huy điểm mạnh của mình, đoàn kết giúp đỡ nhau để cùng
đạt đến thành công. Mặt khác, nếu mỗi cá nhân luôn được tôn trọng, thấu hiểu và
cố gắng hết mình thì tập thể lớp đó sẽ là một tập thể vững mạnh. Với ý tưởng đó,
các em xây dựng một sơ đồ hình cây, gốc rễ của nó là các giá trị cốt lõi mà các em
đã xây dựng, trên cành cây là các mảnh ghép, mỗi mảnh ghép là ước mơ, hoài bão
và mục tiêu của mỗi em. Các em tự đưa ra mục tiêu của mình, tự viết và dán lên
cành cây, để hàng ngày nhìn vào đó để cố gắng học tập, rèn luyện để đạt được mục
tiêu mà mình đã đề ra.

Một góc lớp học được trang trí dựa trên ý tưởng của HS
2.4.1.2. Xây dựng nội quy lớp học.
Trong cuộc họp lớp đầu năm, tôi cho học sinh xây dựng nội quy lớp dựa trên
nội quy học sinh của nhà trường và tình hình riêng của lớp. Các tiêu chí sẽ được
lượng hóa thành điểm. Mỗi học sinh được tặng điểm ban đầu là 100 điểm. Nếu học
12


sinh thực hiện tốt sẽ được cộng điểm, nếu thực hiện chưa tốt sẽ bị trừ điểm. Mỗi tổ
sẽ có quyển sổ theo dõi riêng để tại lớp, hàng ngày mỗi người sẽ tự giác ghi vào sổ
những ưu điểm, nhược điểm, những vi phạm của mình, điểm trừ, điểm cộng (nếu
có). Sau mỗi tuần, các tổ trưởng sẽ tổng hợp điểm của các thành viên của mình.
Bầu chọn ra các thành viên xuất sắc để biểu dương khen thưởng.

Sau đây là bảng nội quy của lớp 11B5 đã xây dựng: (Xem phần phụ lục)
2.4.1.3. Xây dựng qui chế khen thưởng và hình thức phê bình.
Dựa trên tổng điểm mà mỗi học sinh đạt được, sẽ đưa ra hình thức khen
thưởng và phê bình. Điểm thưởng và điểm trừ do các em tự theo dõi và các bạn
giám sát nên các em rất tự giác và công bằng khách quan. Tôi vận động phụ huynh
xây dựng tự nguyện “quỹ khuyến học và thi đua khen thưởng” của lớp. Hàng tuần,
ban đại diện cha mẹ học sinh cử người đến dự sinh hoạt cùng lớp, trao quà cho
những bạn đạt trên 100 điểm.
-Những em có tiến bộ được biểu dương tại lớp và được nhận “tràng pháo
tay” từ cả tập thể lớp. Những học sinh nào còn vi phạm nội quy, bị trừ điểm tự
nhận hình thức đi tưới hoa, nhổ cỏ khu vực bồn hoa mà lớp được phân công chăm
sóc.
-Mỗi tổ đề cử ra 1 học sinh tiêu biểu để được khen thưởng.
-Các tổ cũng thi đua với nhau, dựa vào tổng điểm của các tổ và những việc
tốt làm được, số học sinh đạt điểm cao sẽ bầu chọn tổ tiêu biểu để được khen
thưởng.
-Những học sinh chưa thực hiện tốt thì tự giác làm bản tự kiểm điểm nói rõ
lý do vì sao chưa tốt và cách khắc phục. Đồng thời tự giác đi nhổ cỏ và tưới hoa
khu vực lớp được phân công.
2.4.2. Thiết lập mục tiêu học tập và rèn luyện.
Trước mỗi giai đoạn (VD: Đầu năm học, đầu kỳ 2,…) tôi cho các em tự viết
“phiếu xác lập mục tiêu” cho mình và sẽ lưu lại bản này tại lớp. Các em sẽ tự lên
kế hoạch thực hiện cho bản thân. Sau mỗi giai đoạn thực hiện (cuối kỳ 1, cuối
năm…), tôi lại cho các em tự đánh giá kết quả đã đạt được, so sánh với mục tiêu đã
đề ra xem mục tiêu nào đã đạt được và đạt bao nhiêu %, mục tiêu nào chưa đạt. Từ
đó tiếp tục xây dựng “Phiếu xác lập mục tiêu” cho giai đoạn tiếp theo. Việc đạt ra
mục tiêu theo từng giai đoạn, tạo ra động lực để khuyến khích học sinh luôn cố
gắng. Sau mỗi giai đoạn, tự nhìn nhận lại những ưu điểm, nhược điểm của bản thân
để tiếp tục cố gắng.
(Xem phần phụ lục)

13


2.4.3. Tăng cường sự giám sát nội quy lớp học của của học sinh.
-Làm nhật ký lớp bằng cách làm một quyển sổ để tại lớp, ghi những việc làm
tốt, những nhận xét của các thầy cô giáo và phát biểu cảm nghĩ của các em học
sinh.
-Việc thực hiện nội quy lớp học được giám sát, nhắc nhở bởi chính các thành
viên trong lớp, trong tổ.
-Các tổ trưởng theo dõi, nhắc nhở và giám sát nề nếp tổ mình bằng sổ theo
dõi riêng, đồng thời giám sát nề nếp của tổ khác.
-Giám sát việc thực hiện nội qui của học sinh thông qua đội thanh niên xung
kích.
-Giáo viên chủ nhiệm gần gũi học sinh, nhắc nhở các em thực hiện tốt nội
qui của trường của lớp.
Mỗi học sinh vừa là người “bị giám sát” vừa là người được tham gia giám
sát các bạn khác nên các em rất tích cực và tự giác.
2.4.4. Quan tâm hoàn cảnh của học sinh, phối hợp cùng phụ huynh trong việc
giáo dục học sinh.
Mỗi học sinh sống trong môi trường gia đình khác nhau, cách giáo dục con
cái của mỗi gia đình khác nhau. Vì vậy muốn đạt được mục tiêu giáo dục, giáo
viên phải biết được điều kiện hoàn cảnh của từng em. Trước khi nhận lớp chủ
nhiệm, tôi thường tìm hiểu trước về những hoàn cảnh học sinh, nhất là những
trường hợp đặc biệt thông qua giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn cấp 1, cấp
2 để kịp thời có những hỗ trợ động viên kịp thời. VD: Ở lớp 11B5 khi tôi nhận chủ
nhiệm lớp 10 có một học sinh mồ côi cả cha mẹ, tôi đã xuống thăm em, tặng sách
vở, bộ quần áo cho em trước khi khai giảng.
Trong quá trình giảng dạy, tôi dần tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh.
Vào những dịp đặc biệt tôi tổ chức cho cả lớp đến thăm nhà nhau để hiểu hơn về
hoàn cảnh của các bạn trong lớp. Như những dịp tết nguyên đán, cả lớp cùng đến

thăm nhà và có quà cho những bạn trong lớp có hoàn cảnh khó khăn. Những dịp
27/7 tổ chức cho cả lớp đến thăm nhà bạn có bố là thương binh. Dịp lễ nô en đến
chúc mừng gia đình các bạn theo đạo…Từ những việc làm này, tôi đã giúp các em
gần gũi nhau hơn, đoàn kết và chia sẻ cùng nhau những niềm vui nỗi buồn.
Trong mỗi lần họp phụ huynh (3 lần/năm), tôi triển khai rất nhanh những nội
dung cứng của nhà trường, sau đó dùng nhiều thời gian để nhận xét với phụ huynh
về ưu nhược điểm của từng học sinh để phát huy những ưu điểm của con, đồng
thời phối hợp cùng phụ huynh tìm cách giáo dục những học sinh còn phạm lỗi.
14


Ngoài 3 lần họp phụ huynh theo lịch chung của nhà trường, tôi còn tổ chức thêm 1
buổi thảo luận cùng phụ huynh với chuyên đề: “Xây dựng mối quan hệ tốt giữa
cha mẹ và con cái”. Trước buổi thảo luận, tôi đã khuyến khích các em viết thư cho
bố mẹ, nói những suy nghĩ của mình, những tâm sự và ước mong của mình. Giáo
viên chủ nhiệm sẽ thay học sinh gửi những lá thư đến bố mẹ trong cuộc họp. Có
những điều hàng ngày các con không dám nói trực tiếp với cha mẹ nhưng qua lá
thư các con đã mạnh dạn hơn khi bày tỏ và tâm sự với cha mẹ mình. Trong cuộc
họp nhiều cha mẹ đã rơm rớm nước mắt khi đọc thư con. Cũng trong cuộc thảo
luận, cha mẹ đã sôi nổi phát biểu ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm về cách nuôi dạy
con. Có những cha mẹ cũng thành thật chia sẻ do công việc bận rộn, do khoảng
cách nên chưa hiểu hết con, chưa gần gũi con. Và chắc chắn qua buổi thảo luận,
khoảng cách giữa cha mẹ và con cái sẽ dần được rút ngắn, cha mẹ sẽ dần thay đổi
để có cách dạy con phù hợp hơn.
2.4.5. Xây dựng tập thể lớp học thân thiện, đoàn kết, gắn bó.
2.4.5.1. Phân công các nhóm học tập.
Dựa vào lực học, tôi chia ra các nhóm học tập, phân công cho các em học
giỏi kèm các em học yếu hơn để giúp bạn trong học tập. Cán bộ lớp, cán bộ đoàn
thường xuyên nhắc nhở những bạn còn vi phạm nề nếp.
2.4.5.2. Tổ chức các buổi ngoại khóa.

Thông qua các buổi sinh hoạt đoàn viên, tôi tư vấn cho các em xây dựng các
chương trình ngoại khóa để các em bày tỏ ý kiến của mình.
Trong năm học tôi đã tổ chức thành công buổi ngoại khóa với chủ đề: “Điều em
muốn nói”, buổi ngoại khóa tôi có mời các thầy cô giáo bộ môn, đại diện phụ
huynh đến dự. Buổi ngoại khóa được các em xây dựng nội dung rất chu đáo, phân
công nhau chuẩn bị. Giữa các hoạt động có xen kẽ các trò chơi, các tình huống cần
thảo luận. Trong buổi ngoại khóa, các em đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình về
những mong muốn thầy cô, cha mẹ dành cho mình. Mạnh dạn đưa ra những quan
điểm của mình về tình cảm, tình yêu tuổi học trò, những khó khăn mà các em đang
gặp phải,…Các em cũng được nghe những tâm sự của các thầy cô, cha mẹ, những
lời khuyên bổ ích, những định hướng của những người đi trước.
Trong năm học tôi cũng đã tổ chức được buổi ngoại khóa với chủ đề: “Tư
vấn của người đi trước”. Trong buổi này, tôi mời những cựu học sinh-những người
đã đạt được thành công và trưởng thành từ mái trường THPT Bỉm Sơn đến dự. Tại
đây các em được nghe những câu chuyện vượt khó vươn lên, những định hướng
cho việc học tập và chọn nghề, những bí quyết và kinh nghiệm để thành công.

15


Học sinh lớp 11B5 đang chơi trò chơi lồng ghép trong buổi ngoại khóa

2.4.5.3. Tổ chức các hoạt động vui chơi, thể dục thể thao.
Các hoạt động vui chơi lành mạnh, mang niềm vui cho học sinh, tạo sự đoàn
kết giữa các em trong lớp. Trong năm học, tôi đã phối hợp với hội phụ huynh tổ
chức các em đi thăm quan tại rừng quốc gia Cúc Phương. Chuyến đi dã ngoại thực
tế đã giúp các em hiểu hơn về các kiến thức lý thuyết đã học ở nhà trường, thêm
yêu quê hương đất nước, có ý thức bảo về rừng và tài nguyên của đất nước. Giúp
các em gắn kết nhau hơn.


16


Ảnh chụp tại “cây Chò ngàn năm” trong chuyến dã ngoại của lớp 11B5 năm học 2018-2019

Sau các buổi học căng thẳng, tôi khuyến khích tổ chức cho các em các buổi
giao lưu, luyện tập thể dục thể thao như: bóng rổ, bóng đá…Không những giúp các
em rèn luyện sức khỏe, tạo không khí sôi động trong lớp mà còn giúp các em đoàn
kết hơn, gắn bó hơn với các bạn trong lớp.

Hình ảnh học sinh 11B5 trong buổi luyện tập bóng rổ.

2.4.6. Phối hợp các giáo viên bộ môn, ban chấp hành đoàn trường, ban tư vấn
học đường trong giáo dục học sinh.
17


-Được sự đồng ý của ban giám hiệu nhà trường, tôi đã tổ chức một buổi
chuyên đề về giáo dục kỷ luật tích cực. Trong buổi chuyên đề, ngoài tìm hiểu về
phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực, sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp
giáo dục kỷ luật tích cực trong trường THPT, tôi đã nêu ra những tình huống cụ thể
để thảo luận, đặc biệt những hiện tượng đang nóng của ngành giáo dục được nói
nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó để các thầy cô giáo cùng
hiểu về sự cần thiết áp dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực và phối hợp
cùng nhau để giáo dục học sinh theo phương pháp tốt nhất.
-Trong năm học này, nhà trường cũng đã thành lập ban tư vấn tâm lý học
đường với thành phần gồm: Đại diện ban giám hiệu, đại diện ban chấp hành đoàn
trường, đại diện giáo viên chủ nhiệm,…Ban tư vấn thường xuyên hội ý để giúp
học sinh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc mà học sinh gặp phải trong quá trình
học tập và sinh hoạt xã hội. Là một thành viên trong tổ tư vấn, tôi luôn tích cực hỗ

trợ, giúp đỡ học sinh và đưa ra những lời khuyên xác đáng khi các em gặp khó
khăn hoặc giúp các em giải quyết các mâu thuẫn một cách hợp lý nhất.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau hai năm học áp dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong công
tác giáo dục học sinh tôi thấy đã có những hiệu quả rõ rệt.
2.5.1. Với hoạt động giáo dục:
+Giảm được áp lực quản lý lớp vì học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỷ luật.
Giáo viên không phải nhắc nhở, mất nhiều thời gian theo dõi, giám sát việc thực
hiện kỷ luật của học sinh; đỡ mệt mỏi căng thẳng vì phải xử lý nhiều vụ vi phạm
kỷ luật, giải quyết nhiều vấn đề khúc mắc trong quan hệ với học sinh, gia đình và
nhà trường.
+Xây dựng được mối quan hệ thân thiện Thầy – Trò. Trò kính trọng, tin tưởng
và yêu quý thầy cô;thầy cô hiểu, thông cảm với khó khăn của trò, yêu thương và
hết lòng vì học sinh
+Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh.
2.5.2. Với bản thân: Khi áp dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực
trong giáo dục học sinh, bản thân tôi đã có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn và sử dụng
18


linh hoạt trong các tình huống sư phạm nhờ vậy cảm thấy yêu quý các em học sinh
hơn, gần gũi các em hơn, mỗi tiết học thấy hiệu quả hơn. Các em cũng tin tưởng,
thường tâm sự những khó khăn vướng mắc và chia sẻ cùng tôi những niềm vui, nỗi
buồn vì vậy việc giáo dục học sinh cũng không còn thấy nhiều áp lực như trước.
2.5.3. Với các bạn đồng nghiệp: Sau khi được bồi về chuyên đề giáo dục kỷ
luật tích cực, nhiều bạn đồng nghiệp đã và đang áp dụng phương pháp này trong
giảng dạy và giáo dục học sinh và đều có những phản hồi tích cực.
2.5.4. Với nhà trường: Thực hiện được mục tiêu giáo dục, nâng cao chất

lượng và hiệu quả giáo dục ; tạo ra môi trường học tập thân thiện, an toàn tạo được
niềm tin đối với gia đình học sinh và xã hội.

3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Khi tôi đang viết đề tài này cũng là lúc báo chí và các phương tiện thông tin
đại chúng liên tục phản ánh về các vụ bạo lực học đường. Gần đây nhất là vụ một
cô giáo ở trường THCS Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội bắt học sinh quỳ
trước lớp và một cô giáo tiểu học ở Hải Phòng đánh học sinh trong buổi thi vì các
em làm bài chậm, cô lo sợ học sinh không hoàn thành bài thi. Hầu hết các trường
hợp này khi được phỏng vấn đều rất ân hận, vì lo lắng cho học sinh, vì muốn cho
các em tốt hơn nhưng giáo viên chưa biết cách xử lý tình huống, thậm chí là đã vi
phạm pháp luật. Đã đến lúc các thầy cô giáo cần được bồi dưỡng về các phương
pháp tích cực để giáo dục học sinh. Phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực cần thiết
và cấp thiết phải đưa vào các nhà trường.
Sau một thời gian áp dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực tại trường
THPT Bỉm Sơn, tôi nhận thấy đã có nhiều chuyển biến tích cực. Mối quan hệ giữa
nhà trường và học sinh, giữa thầy và trò, giữa trò và trò thân thiện cởi mở hơn.
Làm cho các tiết học trở nên hào hứng sôi nổi hơn, các hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường cũng đỡ áp lực hơn vì vậy hiện tượng học sinh vi phạm kỷ luật
cũng giảm rõ rệt. Năm học 2018-2019 cả trường THPT Bỉm Sơn không có vụ việc
nào bị đưa ra hội đồng kỷ luật, tỷ lệ học sinh khá giỏi cũng tăng lên. Tôi thấy việc
sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực là hướng đi tất yếu phù hợp với
19


quan điểm chỉ đạo của Đảng trong đổi mới giáo dục. Tuy nhiên, phải xác định
rằng “Kỉ luật tích cực” không phải là “cây đũa thần”, không phải là “chiếc chìa
khóa vạn năng”. Do vậy bên cạnh việc sử dụng nó như một giải pháp chủ công thì
còn phải linh hoạt, mềm dẻo kết hợp với hệ thống các giải pháp khác đi kèm để

việc giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao nhất.
3.2. Kiến nghị.
Việc áp dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực không thể thành công
nếu giáo viên thực hiện một cách đơn lẻ vì vậy tôi đề nghị sở giáo dục và đào tạo
cùng ban giám hiệu các nhà trường triển khai đồng bộ đến từng giáo viên. Ban
giám hiệu cần thống nhất một kế hoạch chung áp dụng cho các nhà trường. Sở giáo
dục và đào tạo chỉ đạo và giám sát việc áp dụng, tạo cơ hội để giáo viên chia sẻ
những khó khăn, những thành công và bài học kinh nghiệm. Để mỗi giáo viên hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình và “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, thực hiện
tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
XÁC NHẬN
CỦA HIỆUTRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 29 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Thu Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trang web: .
[2] Bộ giáo dục và đào tạo. Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông giai
đoạn 2: Tài liệu bồi dưỡng giáo viên THPT về giáo dục kỷ luật tích cực.

20


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN MÀ TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
CẤP PHÒNG GD VÀ ĐT, CẤP SỞ VÀ CÁC CẤP CAO HƠN ĐÁNH GIÁ TỪ
LOẠI C TRỞ LÊN

1. Năm học 1997-1998 được loại C cấp sở GD & ĐT với đề tài: “Phương pháp giải
nhanh một số bài toán hóa học”.
2.Năm học 2001-2002 được loại C cấp sở GD & ĐT với đề tài: “Một số quá trình
hóa học phụ thuộc vào các tiến hành phản ứng”.
3. Năm học 2004-2005 được loại C cấp sở GD & ĐT với đề tài: “Đổi mới phương
pháp kiểm tra đánh giá môn hóa”.
4. Năm học 2007-2008 được loại C cấp sở GD & ĐT với đề tài: “Phương pháp giải
nhanh bài toán hóa học điện phân”
5. Năm học 2009-2010 được giải C cấp sở GD & ĐT với đề tài: “Sử dụng phương
trình ion rút gọn để giải nhanh bài toán hóa học”
6. Năm học 2012-2013 được loại B cấp sở GD & ĐT với đề tài: “Ứng dụng công
nghệ thông tin và dạy học truyền thống trong bài photpho lớp 11”.
7. Năm học 2014-2015: Được hội đồng khoa học sáng kiến kinh nghiệm tỉnh
Thanh Hóa xếp loại B đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin và dạy học truyền
thống trong bài photpho lớp 11”. Đề tài được phát triển tiếp từ đề tài năm 20122013.
8. Năm học 2017-2018: được loại B cấp sở giáo dục với đề tài: “Dạy học gắn liền
với sản xuất kinh doanh tại địa phương: Sử dụng hiệu quả phân bón hóa học, nhằm
tăng năng suất cây dứa trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn.”

PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1:

PHIẾU XÁC LẬP MỤC TIÊU
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2018-2019
21


(Dành cho học sinh)
Họ và tên:………………………………………………….Lớp 11B5.
-Những mục tiêu con đã đạt trong học kỳ 1:

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
-3 mục tiêu quan trọng con sẽ phấn đấu trong học kỳ 2:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
-Những việc con cam kết sẽ làm để hoàn thành mục tiêu đề ra
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
-Những điều con mong muốn các thầy cô giáo hỗ trợ con
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
-Những điều con mong muốn bố mẹ hỗ trợ con
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
-Trường đại học con mong muốn dự tuyển năm 2019-2020.
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………..
Phụ lục 2:

PHIẾU XÁC LẬP MỤC TIÊU
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2018-2019
(Dành cho cha mẹ)

Phụ huynh em:………………………………………………….Lớp 11B5.
22



-Những điểm tích cực của con mình:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
-3 mục tiêu quan trọng mà quý vị muốn con mình đạt được trong học kỳ 2:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
-Những việc mà quý vị cam kết sẽ làm để giúp con hoàn thành mục tiêu đề ra
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
-Những điều quý vị mong muốn các thầy cô giáo hỗ trợ con mình
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
-Quý vị đã giành thời gian nói chuyện tâm sự cùng con hàng ngày chưa?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
-Trường đại học quý vị mong muốn cho con theo học sau khi tốt nghiệp THPT
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

Phụ lục 3:

BẢN TỰ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
NĂM HỌC 2018-2019
(Dành cho học sinh)


Họ và tên:………………………………………………….Lớp 11B5.
23


-Những mục tiêu con đã đề ra trong năm học 2018-2019:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
-Những kết quả con đã đạt được trong năm học 2018-2019
*Về học lực:
Các môn con cảm thấy hài lòng:……………………………………………………
Các môn con chưa đạt:………………………………………………………………
Nguyên nhân:………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………
*Các mặt khác: …………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
-3 mục tiêu quan trọng con sẽ phấn đấu trong năm học 2019-2020:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
-Những việc con sẽ làm để đạt được mục tiêu:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….

Phụ lục 4: Bảng quy chế thi đua do tập thể lớp 11B5-THPT Bỉm Sơn xây dựng
THÔNG BÁO VỀ VIỆC THEO DÕI XẾP LOẠI THI ĐUA, KHEN
THƯỞNG VÀ MỨC ĐỘ PHẠT HỌC SINH VI PHẠM NỘI QUI NỀ NẾP,
HỌC TẬP.

A.Tính điểm để xếp loại hạnh kiểm
24


1/ GIỜ GIẤC: Bắt buộc buổi sáng 6 giờ 55 phút có mặt tại lớp học. Buổi chiều:
14 giờ .
- Đi học muộn: Trừ 1 điểm/ buổi. - Vào muộn 1 tiết: Trừ 1 điểm / lần
- Nghỉ học chính khoá, lao động, hoạt động ngoại khoá: Vô lý do (bỏ học) : Trừ 1,5
điểm mỗi lần.
* Nghỉ học bồi dưỡng buổi chiều vô lí do từ 1- 2 buổi : trừ 1 điểm.
* Nghỉ học bồi dưỡng buổi chiều vô lí do từ 3-4 buổi : trừ 4 điểm.
* Nghỉ học bồi dưỡng buổi chiều vô lí do từ 5 buổi trở lên : trừ 6 điểm.
2/ TRANG PHỤC: Không nhuộm tóc, không mặc quần thun bó, áo phông không
cổ, không trang điểm. Phải đeo thẻ, sơvin, đi dép quai hậu, hoặc giầy. Học sinh
nam phải cắt tóc ngắn giản dị (không cắt trọc). Phải đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp
điện.
(Thẻ, sơ vin, giày dép) Thiếu hoặc thực hiện không nghiêm túc: Trừ 1 điểm/ 1 lần
vi phạm
3/ VỆ SINH, BẢO QUẢN CƠ SỞ VẬT CHẤT:
* Trực nhật ở lớp hàng ngày có trách nhiệm làm vệ sinh lớp học và đổ rác đúng nơi
quy định trước khi vào 15 phút đầu giờ (buổi sáng) và trước 5 phút đầu giờ (buổi
chiều), đóng và chốt tất cả cửa kính, cửa chớp, khóa cửa ra vào của phòng học khi
ra tập thể dục hoặc lên các phòng bộ môn để học, ngắt điện ở tất cả các thiết bị
dùng điện khi ra khỏi phòng.
- Không trực nhật hoặc không trực tuần: Trừ 1 điểm/buổi
-Trực nhật hoặc trực tuần không hoàn thành: Trừ 0,5 điểm/ 1 buổi.
- Ăn quà: Trừ 1 điểm /1 lần.
- Ném phấn, xịt bình nước lau bảng đùa bạn, ném máy bay, không tắt quạt, tắt điện,
đóng cửa sổ khi ra khỏi phòng, trước khi về: Trừ 1,5 điểm/ 1 lần.
25



×