Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật ở trường phổ thông miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.18 KB, 15 trang )

PHẦN

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU

1

2

3

TRANG
2

1.1 Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của SKKN.

2
3
3
3
3

2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

2.1. Cơ sở lí luận.


3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng 4
kiến kinh nghiệm.
2.3. Giải pháp đã sử dụng.
5
2.4. Hiệu quả.
10
2.4.1. Hiệu quả chung.
10
2.4.2. Một số học sinh tiêu biểu
11
2.4.3. Bài học kinh nghiệm.
12
3. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

12

3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

12
13

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Khi những chùm phượng vĩ đỏ rực sân trường cũng là lúc kỳ nghỉ hè sắp
đến, học trò lớp 12 lưu luyến chia tay nhau trong buổi lễ tổng kết năm học. Các

em học sinh lớp 12A9 do tôi chủ nhiệm đã có một buổi liên hoan chia tay thật ý
nghĩa và cảm động. Cô, trò chúng tôi cùng ngồi ôn lại những kỷ niểm đã qua.
Nhìn 40 gương mặt thân quen tôi không thể nào quên được ngày đầu tiên bước
vào lớp, ngày đầu tiên được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 11A9. Khi đó
lớp 11A9 đứng cuối trong bảng thi đua của nhà trường, một lớp được đánh giá là
có khá nhiều học sinh cá biệt, học sinh đánh nhau, học sinh bỏ học, học sinh vô
lễ với giáo viên…Thú thực lúc đó tôi có chút nản lỏng nhưng vì nhiệm vụ và vì
trách nhiệm của người giáo viên đã mang trong mình “sứ mệnh trồng người”
nên tôi quyết tâm tìm hiểu cho bằng được nguyên nhân vì sao lớp lại có thành
tích “đáng nể” như vậy.
Đối tượng học sinh cấp THPT ở những độ tuổi khác nhau cũng có nhiều
hs khác nhau: có nhiều em rất ngoan, hiền và biết vâng lời thầy cô giáo. Nhưng
cũng có một số em thì ngang bướng, ngỗ nghịch… Trong đối tượng học sinh
này có những HS gọi là “học sinh cá biệt”. Đó là những học sinh luôn tạo ra
nhiều sự phiền hà và bận rộn hơn cho giáo viên. Để đưa các em học sinh cá biệt
này vào khuôn khổ không phải giáo viên nào cũng thành công trong việc giáo
dục và giảng dạy [ 3 ]. Như chúng ta đã biết, việc giáo dục phát triển nhân cách
học sinh là một nhu cầu cần thiết, bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức toàn
bộ cuộc sống, học tập hoạt động của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi tối ưu để
tiềm năng của học sinh được phát triển dưới sự giáo dục của giáo viên chủ
nhiệm. Thực chất vai trò của giáo viên chủ nhiệm gần như trồng cây, chăm sóc
vun trồng cây giống. Người làm vườn không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải
chăm sóc tạo điều kiện cho hạt giống nẩy mầm [ 3 ]. Cho nên, bản thân tôi là
một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn tâm niệm dạy dỗ giáo dục cho các em trở
thành những con người hữu ích cho xã hội, để xứng đáng với những hình ảnh
đẹp mà xã hội ban tặng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là
nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra những con
người sáng tạo”.
Công tác chủ nhiệm quyết định chất lượng dạy và học của Giáo viên và
học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã hoàn thành tốt

nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh.[ 3 ] Trong trường THPT, vai
trò của người giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm thay
mặt nhà trường trực tiếp quản lý học sinh, quản lý lớp học, trực tiếp giáo dục
học sinh để các em có ý thức, trách nhiệm trong học tập, trong cuộc sống để các
em trở thành người có ích cho xã hội. Tôi đã trăn trở, tìm hiểu và áp dụng nhiều
biện pháp để quyết tâm giáo dục những “học sinh cá biệt lớp 11a9”. Và không
phụ công tôi giờ đây các em đều trở thành những học sinh ngoan, chăm chỉ học
tập. Thật hạnh phúc khi chính những học sinh đó đã xin phép gọi tôi bằng “Mẹ”,
2


bởi các em tâm sự nếu không có cô em sẽ không có được ngày hôm nay, không
có cô em đã nghiện game và bỏ học lâu rồi.
Có được những ân tình của thế hệ học trò như vậy tôi đã phải nỗ lực rất
nhiều. Chính vì lẽ đó, tôi xin được trình bày những kinh nghiệm giáo dục học
sinh cá biệt trong chính lớp tôi chủ nhiệm thông qua sáng kiến “Một số biện
pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 11A9 Trường THPT Ngọc Lặc”. Kính
mong được sự quan tâm, góp ý của đồng nghiệp để sáng kiến của tôi thêm hoàn
thiện và vận dụng cho những năm học tiếp theo.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giáo dục, uốn nắn, bồi dưỡng, giáo dục các em từ những học sinh cá biệt,
quậy phá, lười học… trở thành người có ích cho xã hội sau này.
Xác định các nguyên nhân chính đã dẫn đến một số em có hành vi chưa
đúng, chưa có động cơ học tập, có đạo đức phẩm chất chưa tốt…. Qua đó, giúp
cho các em định hướng được ý nghĩa của cuộc sống, định hướng được hành vi
và có động cơ học tập tốt hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các em học sinh thuộc dạng cá biệt trong lớp chủ nhiệm 11A9, có hành vi
xấu, hay gây gỗ, chửi thề, nói tục, ý thức học tập không có, kết quả học tập yếu
kém, lười học tập và không biết vâng lời thầy cô, bố, mẹ ….[ 2 ]

1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Tìm hiểu
nguyên nhân và lí do chính để trả lời cho câu hỏi: Vì sao các em học sinh đó trở
thành học sinh cá biệt ?
Quan sát, theo dõi quá trình học tập và hoạt động của các em học sinh cá
biệt trong lớp( trước, trong và sau áp dụng các biện pháp giáo dục). [ 2 ]
Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh cá biệt.
Trao đổi trực tiếp với gia đình, phụ huynh của các em học sinh thuộc dạng
cá biệt trong lớp 11A9, đề xuất những biện pháp áp dụng cho từng em học sinh.
Tùy điều kiện thực tế mà xây dựng các phương án khác nhau để thực hiện.
1.5. Những điểm mới của SKKN:
Bài viết này tôi đã tìm ra một số nguyên nhân khiến các em học sinh cá
biệt của lớp 11A9 trở nên “khó dạy”, bất an, dễ nóng nảy, kích động, mệt mỏi,
thiếu năng lượng, hay buồn vô cớ, khó tập trung, hay đánh nhau, vô lễ với thầy,
cô giáo…. Đồng thời phát hiện ra một số phương pháp đặc thù khác biệt để
giáo dục, hỗ trợ những học sinh “ cá biệt “.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
Ở lứa tuổi 16 - 17 (học sinh vào lớp 11) là lứa tuổi đang có sự mất cân
bằng về tâm sinh lí, muốn khẳng định mình coi mình là người lớn, muốn được
đối xử như người lớn, muốn được độc lập trong suy nghĩ và hành động, muốn
thử sức mình và độc lập khám phá những cái mới để khẳng định mình là người
lớn. [ 4 ] Lứa tuổi 17, lứa tuổi có nhiều thay đổi về cơ thể và nhân cách, nhiều
hoóc môn mới trong cơ thể bắt đầu xuất hiện, “lứa tuổi khủng hoảng” hay là
3


“thời kỳ quá độ” chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, lứa tuổi với nhiều khó
khăn, phức tạp trong cuộc đời của mỗi con người, lứa tuổi học tập và trưởng
thành, hoàn thiện và phát triển. Ở giai đoạn này có rất nhiều sự thay đổi về thể

chất và tinh thần khiến cho nhận thức và thể trạng của các em khác hẳn. Hiểu
được sự thay đổi về đặc điểm tâm sinh lý ở lứa tuổi này sẽ là một cơ sở lí luận
quan trọng để chúng ta giáo dục trẻ một cách hiệu quả.. Chính vì thế, nếu môi
trường tác động tốt thì các em sẽ có những hành vi và đạo đức tốt, còn ngược lại
thì sẽ rất tồi tệ, có thể các em sẽ hư hỏng, dối trá, mất tư cách, đạo đức
kém….Các em vẫn chưa có sự hiểu biết cuộc sống cộng với hoàn cảnh sống của
mỗi em khác nhau nên việc chuẩn bị kiến thức làm hành trang cho cuộc đời
mình sau này thường bị xem nhẹ. Các em rất dễ bị lôi kéo và không làm chủ
được bản thân mình hoặc nhiều lí do khác dẫn đến sao nhãng việc học tập.. Tất
cả đều do các em chưa nhận thấy được tầm quan trọng của việc học tập và thiếu
sự quan tâm, sát sao của gia đình. Nếu để chờ đến khi các em ý thức được điều
đó thì có lẽ đã quá muộn. Chính vì vậy mà vai trò của gia đình, nhà trường và
đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng trong việc giúp các em nhận
thức được vai trò của việc học tập: Học để lập thân, lập nghiệp và nâng cao chất
lượng cuộc sống. [ 5 ]
Tuy nhiên ở lứa tuổi này, các em cũng rất thích được tán dương, khen
ngợi. Vì vậy chúng ta cần những giải pháp thích hợp để giáo dục và định hướng
đúng đắn cho các em học sinh trong các hoạt động giáo dục, học tập và vui chơi
lành mạnh, phù hợp với lứa tuổi của các em. [ 4 ]
Đối với từng học sinh cá biệt, cần có những biện pháp riêng, phù hợp với
hoàn cảnh của từng em, mà từ đó mới hướng các em đi vào nề nếp. Muốn làm
điều đó giáo viên cần phải có những hiểu biết nhất định về từng hoàn cảnh,
từng nguyên nhân tạo nên những học sinh cá biệt đó và từ đó xây dựng các biện
pháp riêng cụ thể áp dụng cho từng em học sinh cá biệt.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Năm học 2017 – 2018 khi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 11A9. Lớp có tổng số 40 hs gồm 17 nữ và 23 nam, các em chủ yếu
sinh năm 2001, có 3 em sinh năm 2000. Đa số các em là người dân tộc thiểu số
sống ở khu vực 135(Khu vực kinh tế đặc biệt khó khăn) hoặc vùng cao, chỉ có
vài em sống cùng cha mẹ tại thị trấn Ngọc Lặc và một số xã lân cận trường học

như xã Ngọc Khê, xã Minh Sơn…[ 2 ]
[ 2 ]Tôi đã tìm hiểu sơ qua tình hình lớp và biết được: Năm lớp 10 các em
xếp cuối trong bảng thi đua của nhà trường (Trường có 18 lớp cơ bản và 12 lớp
chọn). Sau khi 1 tuần tìm hiểu nguyên nhân vì sao lớp lại xếp cuối tôi nắm được:
chủ yếu là lớp vi phạm nội quy nhà trường ở các lỗi trừ điểm nhiều như: đánh
nhau, sử dụng điện thoại, vô lễ với Giáo viên, nghỉ học vô lý do…điều đặc biệt
là các lỗi này đều chủ yếu do một số em vi phạm nhiều lần, các em luôn chống
đối, không tuân thủ có xu hướng gây hấn bằng lời nói. Đó là các em:

4


STT

Họ và tên

1

Vũ Đình Nam

2

Đàm Thị Thảo

3

Lê Tuấn Phương

4


Trịnh Đình Kiên

Ghi chú
Nghỉ học nhiều, hay ngủ trong giờ, không ghi
bài, đánh nhau.
Sử dụng điện thoại, hay đánh nhau, mất trật
tự, vô lễ với giáo viên.
Thường xuyên nghỉ học, đánh nhau, không
ghi bài, ngủ trong lớp, trang phục không đúng
quy định.
Sử dụng điện thoại, đánh nhau, vô lễ với giáo
viên, vi phạm luật an toàn giao thông.

* Nguyên nhân.
[ 3 ] Thông qua điều tra nguyên nhân từ phía nhóm bạn mà hs hay chơi,
bạn thân của học sinh; gặp trực tiếp gia đình, đến từng thăm gia đình hs, tâm sự
trực tiếp với bản thân học sinh, nói chuyện với giáo viên chủ nhiệm của các em
năm lớp 10, và qua theo dõi để ý, tôi biết được một số nguyên nhân khiến các
em trở thành học sinh cá biệt trong lớp là:
- Thứ nhất: Gia đình không hòa thuận dẫn đến bố mẹ ly hôn, phải sống
cùng ông, bà. Con cái tự do, sống theo ý muốn. Như em Vũ Đình Nam ở Làng
Chù - Cao Ngọc, em Lê Tuấn Phương ở làng Khén Ngoại – Vân Am.
- Thứ hai: Gia đình khá giả, bố, mẹ mãi lo việc làm ăn, không dành thời
gian lo cho con cái, khoán trắng việc giáo dục cho nhà trường. Em Trịnh Đình
Kiên ở Ngọc Sơn, em Đàm Thị Thảo ở Hưng Sơn - Ngọc Khê.
- Thứ ba: Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em phải là lao động chính,
trụ cột, đẫn đến các em mặc cảm, tự ti.
- Thứ tư: Ảnh hưởng của phim ảnh không lành mạnh, vì tò mò, bị rủ rê từ
những thanh niên ham chơi, lêu lỏng trong thôn/ xóm.
- Thứ năm: Được gia đình chiều mua cho điện thoại thông minh dẫn đến

các em ham chơi game(nghiện game), chơi facebook(nghiện Facebook). Các em
bị lôi cuốn bởi những phương tiện thông tin đại chúng, những tiêu cực và tệ nạn
xã hội.
Trên đây là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến học sinh trở thành “ học
sinh cá biệt” ở lớp 11A9. Các em không muốn học, ham chơi và trở nên khác
biệt vì nhiều lí do, hơn thế lại không được sự quan tâm, sát sao đúng mực của
gia đình nên hay bỏ học để đi chơi. Một số em khác không làm chủ được bản
thân bị một số đối tượng đã bỏ học lôi kéo dụ dỗ khiến các em không quan tâm
đến việc học chỉ ham chơi lâu dần thành quen. Mặt khác, do các em trong độ
tuổi tập làm người lớn, đây là lứa tuổi dễ dao động nhất nếu như có biện pháp
uốn nắn kịp thời các em sẽ đi theo hướng tích cực và ngược lại có thể trở nên hư
hỏng. Vì vậy nếu không giáo dục, không uốn nắn các em ngay từ đầu thì rất dễ
để cho các em không nắm vững kiến thức, không làm chủ được bản thân và
cũng sẽ khó trở thành người có tài, có đức phục vụ cho đất nước sau này.
2.3. Các giải pháp đã áp dụng.

5


Với cương vị là một giáo viên chủ nhiệm nhiều năm trong nghề được tiếp
xúc với nhiều em và cũng đã được nghe nhiều tâm sự của các em, tôi không thể
không trăn trở khi đứng trước hiện tượng nhiều em “hoc sinh cá biệt” trong lớp
mình chủ nhiệm.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên tôi đã áp dụng một số biện pháp
sau:
Biện pháp thứ nhất: [ 3 ] Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh
để hiểu rõ từng hoàn cảnh cụ thế từ đó có biện pháp cụ thể, thích hợp với từng
em. Trước tiên là tôi sử dụng phiếu thăm dò(phụ lục), trao đổi với bạn bè thân
thiết của các em. Sau đó tôi đến thăm gia đình từng em một để nắm rõ, hiêu rõ
hoàn cảnh, môi trường mà các em đang sống bởi muốn giáo dục con người phải

hiểu một con người, đó là một trong những nguyên tắc giáo dục hiện đại đầu
tiên mà tôi sử dụng.
Khi đến nơi thì tôi đã phần nào lý giải được nguyên nhân vì sao các em lại
trở nên “ cá biệt” như vậy. Gia đình em Vũ Đình Nam thì bố, mẹ đã ly hôn. Em
sống cùng bà nội đã già yếu. Còn bố và mẹ đều đã có gia đình mới nên không có
thời gian dành cho em. Giờ thì tôi đã hiểu vì sao em rất ít khi cười, ánh mắt luôn
buồn rười rượi. Lên lớp, em toàn ngủ và hầu như không tham gia một hoạt động
nào do lớp, trường tổ chức. Bởi một phần do mặc cảm, tự ti nên em luôn thu
mình lại và chỉ cần 1 bạn nào đó vô tình chọc, ghẹo là em sẵn sàng nổi nóng và
đánh bạn. Ở nhà làm nông vất vả nên em không có thời gian để nghỉ ngơi,
không có thời gian để học bài dẫn đến em không thuộc bài và luôn buồn ngủ.
Đến nhà em, nhìn cảnh 2 bà cháu nương nhờ nhau trong ngôi nhà cũ, tôi hiểu
rằng mình cần phải có trách nhiệm và nhất định sẽ giúp em vươn lên hoàn cảnh
khóa khăn này.
- Gia đình em Đàm Thị Thảo, Trịnh Đình Kiên thì rất khá giả. Bố, mẹ bận
buôn bán, làm ăn và vắng nhà suốt nên hầu như không có thời gian cho con,
không quan tâm đến việc học của con mà phó mặc hoàn toàn cho nhà trường.
- Gia đình em Lê Tuấn Phương thì bố, mẹ luôn mâu thuẫn, bất hòa. Bố
em rất hay đánh mẹ em nên em chán chường bỏ bê việc học. Hay tụ tập cùng
đám thanh niên hư hỏng trong làng.
Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu tâm tư tình cảm, tính cách, sở thích của từng
em thông qua PĐT(phụ lục). Qua đó biết được những điểm mạnh của từng em
để phát huy, điểm yếu của từng em để khắc phục, hạn chế.[ 3 ], [ 1 ].
Biện pháp thứ ba: Đối với học sinh học kém, nhà trường cũng đã tổ chức
học phụ đạo thêm tôi cũng động viên các em nên theo, nếu học sinh có hoàn
cảnh khó khăn nhà trường sẽ không thu học phí. Đồng thời trên lớp cũng bố trí
chỗ ngồi cho các em sao cho hợp lí (em học tốt ngồi xen kẽ với em còn yếu để
hỗ trợ). Các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ đều có nhóm học sinh có học lực khá
được phân công để chữa bài tập hoặc giải đáp thắc mắc của học sinh. [ 3 ]
Biện pháp thứ tư: Đối với trường hợp học sinh hay đánh nhau, bản thân

tôi thông báo và kết hợp với gia đình học sinh gặp gỡ học sinh cố ý đánh bạn và
đến nhà trao đổi với gia đình cam kết. Trước khi gặp gia đình tôi đã tiến hành
gặp riêng 2 em đánh nhau tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại xảy ra như vậy. Tôi
muốn các em tự nhận ra vì sao mình sai? Nguyên nhân nào dẫn đến hành động
6


không kìm chế được bản thân như vậy? Bài học kinh nghiệm rút ra sau mỗi lần
đânhs nhau đó? [ 4 ], [ 5 ].
Đồng thời, Nhà trường đã phối kết hợp với các cơ quan an ninh trên địa
bàn để quản lý học sinh và xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm pháp
luật đặc biệt là những trường hợp xâm phạm đến thân thể của công dân, học sinh
(đánh người, đặc biệt là đánh người gây thương tích), để răn đe những người
chuyên gây rối trật tự xã hội, bắt nạt người khác...
Biện pháp thứ năm: Đối với học sinh có gia đình không hòa thuận hoặc
gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như em Vũ Đình Nam, em Lê Tuấn Phương tôi
thường hỏi han, tâm sự, quan tâm đến em nhiều hơn tạo mối quan hệ gần gũi để
hiểu được tâm tư nguyện vọng của em, để động viên khích lệ kịp thời. Tạo cho
các em có chỗ dựa vững chắc để em thấy được sự quan tâm của người thầy như
cha như mẹ của các em luôn dìu dắt em khi em vấp phải những khó khăn trong
học tập cũng như cuộc sống.
Khi các em mắc lỗi vì cứ lí do gì nhưng sau những buổi học sau tôi
thường gặp trao đổi riêng với từng em, hỏi thăm lí do không trách phạt ngay lúc
đó và lựa lời khuyên nhủ, động viên. Bởi tôi biết nguyên nhân dẫn đến các em
mắc lỗi là thiếu sự quan tâm, chia sẻ của gia đình, các em thiếu thốn tình cảm.
Các em cũng cảm thấy vui khi cô giáo quan tâm đến mình và cũng chia sẻ lí do.
[1 ], [3].
Tạo mối quan hệ thân thiện giữa các học sinh trong lớp để các em cảm
thấy vui vẻ khi đến lớp. Đôi khi có những mâu thuẫn giữa một số em trong lớp
thường là các em dấu GVCN. Tôi thường có một “điệp viên” thông báo tình

hình của lớp mà vẫn hoàn toàn bí mật đối với các em. Nên thường giải quyết kịp
thời những mâu thuẫn khi bắt đầu mới nảy sinh.
Biện pháp thứ sáu: Giao cho các em một số nhiệm vụ cụ thể trong lớp.
Từ những nhiệm vụ được giao đó, tạo cho các em có ý thức hơn trong học tập,
tư cách đạo đức của mình với tập thể , dần dần các em sẽ nhận ra những sai
phạm của mình với bàn bè xung quanh để mà sửa đổi thành những người tốt với
bản thân và với tập thể lớp.[ 3 ]
Phát hiện năng khiếu của học sinh để động viên khích lệ kịp thời đồng
thời giới thiệu vào các hoạt động phù hợp. nhiều em đánh bóng chuyền, đá bóng
rất tốt, hát hay, khéo tay...Giúp các em tham gia các hoạt động văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao của Đoàn trường tổ chức. Tôi đã tìm hiểu năng khiếu, sở
trường của từng em để phân công nhiệm vụ cụ thể. Em Đàm Thị Thảo có năng
khiếu văn nghệ nhưng lâu nay em bất hợp tác, do em không hòa đồng với các
bạn và luôn cho rằng mình không cần phải tham gia hoạt động tập thể. Tôi đã
tìm hiểu lý do và biết được em có xích mích với một bạn nữ trong đội văn nghệ
của lớp. Sau đó tôi đã động viên khuyến khích em tham gia và em đã rất năng
nổ, nhiệt tình, hòa đồng với các bạn.
Giáo viên phải tôn trọng học sinh, đồng thời phải có lòng tin với các em,
tin tưởng các em để giao một số công việc phù hợp của lớp cho các em phụ
trách.

7


GVCN và Đội văn nghệ lớp 11A9
Đoàn trường THPT Ngọc Lặc tổ chức giải bóng chuyền cho học sinh để
chào mừng ngày 26 tháng 3 – ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Nam
rất đam mê và thích thú vậy nên tôi đã mạnh dạn giao chức đội trưởng đội bóng
của lớp cho em và em có trách nhiệm hình thành và tập luyện cho đội bóng. Như
được cởi trói, lúc đầu em còn ngại ngùng nhưng dần dần em rất trách nhiệm và

vui vẻ, tích cực hướng dẫn các bạn trong lớp về chiến thuật và cách thức thi đấu.

Đội tuyển bóng chuyền nam lớp 11A9( áo Xám)
(Đội trưởng Nam đang đập bóng).
Giao nhiệm vụ cho học sinh trong các giờ ngoại khóa hoặc hoạt động của
nhà trường tạo cho các em cơ hội để các em thấy được vai trò và trách nhiệm
của mình trong tập thể. Đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh.
Các em không còn cảm giác “cô đơn” trong tập thể.
Biện pháp thứ bảy: Một biện pháp cũng không kém phần quan trọng đó
là việc biểu dương, khen thưởng, kịp thời. [ 1 ]
8


Từ những nhiệm vụ được giao, biểu dương, khen thưởng, động viên các
em khi thực hiện tốt nhiệm vụ. Từ đó giúp cho các em hiểu được mình vẫn còn
có giá trị trong lớp, có khả năng thực hiện tốt các việc khác.
Biện pháp thứ tám: Tạo điều kiện để các em tham gia hoạt động xã hội,
hoạt động tình nguyện, hoạt động từ thiện nhân đạo.
Nhân nghĩa là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam, hãy cho đi tình yêu thương để nhận lại gấp trăm ngàn sự yêu thương đó.
Đó là tính nhân văn trong mối quan hệ giữa con người và con người. Hãy tổ
chức để các em tham gia nhiều các hoạt động xã hội, giúp đỡ mọi người trong
xã hội để các em nhận thấy mình thật giá trị và cuộc sống thật sự ý nghĩa. [ 4 ]
Thật vậy, khi một người không thực sự cảm nhận được giá trị của mình
trong cuộc sống thì hãy giúp họ tham gia các hoạt động xã hội, hãy giúp đỡ
những người khác khó khăn hơn mình, tôi nghĩ sẽ có tác động tích cực. [ 5 ]
Trường THPT Ngọc Lặc đóng trên địa bàn huyện miền núi nên ở đây còn
có rất nhiều hoàn cảnh đáng thương. Tôi đã liên hệ với địa phương và vận động
các em tham gia thăm hỏi, động viên những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn để giúp đỡ. Phối hợp với Đoàn thanh niên thôn Quang Thắng - xã

QuangTrung để tham gia tình nguyện làm đường nông thôn mới.

Thăm và tặng quà gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

9


Khi đưa các em học sinh lớp tôi chủ nhiệm đi cùng và gặp gỡ những con
người như vậy quả là một giải pháp giáo dục thực tế tốt hơn bất cứ cuốn sách lý
luận về đạo đức hay lý tưởng sống nào có trên trai đất. Sau vài lần đi giúp đỡ,
thăm hỏi các gia đình khó khăn tôi nhận thấy bản thân các em không còn buồn
với, chán, ham chơi thậm chí em còn hang say, mong tôi sẽ cho em tham gia các
hoạt động khác khi có thể. Tôi đồng ý và hướng dẫn em thành lập tổ chức giúp
đỡ trẻ em nghèo trong huyện với những chiếc áo mà các em không cần. Em rất
vui vẻ và tích cực tham gia, tổ chức do các em lập ra đã mang niềm vui đến cho
rất nhiều em nhỏ trong vùng. Mặc dù làm công tác xã hội, công tác nhân đạo rất
mệt nhưng các em thật vui và thấy cuộc sống của mình thật sự ý nghĩa.

Hoạt động tình nguyện làm đường nông thôn mới tại thôn Quang Thắng, Quang
Trung, Ngọc Lặc.
Có thể sự giúp đỡ của cô, trò chúng tôi không to lớn về vật chất, nhưng
chúng tôi tin rằng bằng tình cảm “ lá lành đùm lá rách”, thông qua các hoạt động
hết sức ý nghĩa giúp này giúp cách iểu thêm con người, về những hoàn cảnh khó
khăn để đồng cảm và sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ. Giúp các em trưởng thành hơn
trong suy nghĩ, từ đó có ý thức học tập thật tốt, tu dưỡng rèn luyện để trở thành
người có ích cho xã hội.
2.4. Hiệu quả:
2.4.1. Kết quả chung:
Đầu năm học (2017 - 2018) tôi nhận lớp chủ nhiệm 11A9 với kết quả:
năm lớp 10 xếp cuối trong bảng thi đua của toàn trường. Ngay từ đầu khi nhận

lớp tôi đã xây dựng cho mình một kế hoạch chủ nhiệm. Tìm hiểu nguyên nhân
vì sao lớp trở nên “cá biệt”? và áp dụng các biện pháp như đã trình bày trong
sáng kiến. Kết quả cuối năm học 2017 – 2018 lớp 11A9 đã vươn lên tốp 5 trong
bảng thành tích xếp loại thi đua của toàn trường. Lớp được tặng danh hiệu lớp
tiên tiến. [ 2 ]
10


Tập thể lớp tiên tiến năm học: 2017 - 2018
2.4.2. Một số học sinh tiêu biểu:
1. Em Vũ Đình Nam (làng Mỏ, xã Mỹ Tân): Năm lớp 10 là học sinh cá
biệt, ngỗ ngược, em hay đánh nhau, nghỉ học..., Nam được sinh ra trong gia đình
bố mẹ đã ly hôn. Cả bố, mẹ đều có gia đình riêng, em ở với bà nội già, yếu. Em
trở thành trụ cột gia đình, cuộc sống gia đình đã khó khăn giờ trở nên khó khăn
nhiều hơn, em phải phụ giúp bà làm nương, rẫy để kiếm. Nên thời gian đầu Nam
rất hay nghỉ học, tỏ thái độ chán chường. Từ khi tôi áp dụng các biện pháp giáo
dục phù hợp, động viên chia sẻ, tạo điều kiện, được bạn bè hiểu và cảm thông
em đã vui vẻ trở lại và ý thức hơn trong học tập, em không còn đánh nhau, nghỉ
học vô lý do, chăm chỉ học tập. Từ một học sinh cá biệt cuối năm em đã đạt
danh hiệu học sinh tiên tiến học kỳ II .
2. Em Đàm Thị Thảo (thôn Hưng Sơn – xã Thúy Sơn): là một học sinh cá
biệt, có những biểu hiện bất cần, chán nản trong học tập, nghiện Facebook, thích
đánh nhau, ăn diện .... vì gia đình khá giả nhưng bố mẹ bận làm ăn không quan
tâm đến em, đáp ứng mọi đòi hỏi vật chất ở em. Sau một thời gian dài được
động viên chia sẻ và bạn bè an ủi, em đã có tiến bộ rõ rệt trở thành học sinh bình
thường, luôn có ý thức thực hiện tốt các nội quy chung của lớp và nhà trường.
Sau những lần tình nguyện, thăm gia đình có hoàn cảnh khó khăn em đã ý thức
được giá trị của bạn thân, trân trọng cuộc sống không còn ăn diện lẵng phí, tập
trung học tập, hòa đồng cùng các bạn trong lớp, tích cực trong cương vị lớp phó
văn thể của lớp.

3. Em Lê Tuấn Phương (Làng Kén ngoại – Vân Nam): Do bố mẹ không
hòa thuận, em luôn buồn chán, bất mãn, mặc cảm, tự ti không chịu học. Sau khi
phát hiện ra, động viên, phân tích nhiều lần các em đó đã có sự thay đổi rõ rệt
trong cách nghĩ và vươn lên với kết quả thật bất ngờ về mặt học tập, cuối năm
lớp 11 Phương đã đạt danh hiệu học sinh tiên tiến.
4. Em Trịnh Đình Kiên ( Làng Kim Thủy – Ngọc Sơn): Thường xuyên vi
phạm luật giao thông, bỏ bê việc học, xa rời tập thể, nhiều hôm đến lớp không
có vở ghi, ngủ trong giờ, bản thân không làm chủ trước những suy nghĩ và hành
động của mình (uống rượu say, không đi học buổi chiều theo lịch), thậm chí em
cũng dự tính bỏ học giữa chừng. Sau khi nghe học sinh báo lại và giáo viên bộ
môn phản ánh, nhiều lần tâm sự, tiếp xúc, tìm hiểu nguyên nhân và hoàn cảnh
gia đình. Bằng phương pháp và kinh nghiệm vốn có của mình tôi đã giúp em
11


nhận thức được tầm quan trọng của việc học với tương lai phía trước. Em đã ổn
định được tâm lí và học tập bình thường trở lại.
2.4.3. Bài học kinh nghiệm
Muốn giáo dục học sinh cá biệt, giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Nhiệt tình, yêu nghề, phải luôn tự bồi dưỡng trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, kĩ năng ứng xử, hiểu được tâm lí học sinh dân tộc thiểu số, đổi mới
phương pháp giảng dạy để lôi cuốn học sinh, có phương pháp dạy phù hợp với
đối tượng học sinh có học lực yếu và người dân tộc thiểu số, tạo được sự tin
tưởng của phụ huynh học sinh.
- Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với đoàn thể và với địa
phương để tạo ra môi trường giáo dục tốt.
- Phải xây dựng được sự đoàn kết, thương yêu giúp đỡ của học sinh trong
lớp qua các phong trào. Tạo cho các em động cơ học tập. Trong việc uốn nắn các
em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không
dùng lời lẽ nặng nề với các em, hiểu được tâm lí của học sinh đặc biệt là học

sinh dân tộc thiểu số; Xem học sinh như con của mình, chia sẻ vui buồn, cùng
lắng nghe ý kiến học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.
Tóm lại giáo viên chủ nhiệm cần tạo ra sự mật thiết giữa thầy và trò, giữa
học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ học tập trong suốt thời gian ở
lớp để các em đến lớp đều đặn bằng sự tự nguyện và cảm thấy tiếc nuối khi phải
nghỉ học, bỏ học. Đó cũng là lúc ta hoàn thành thành một phần vai trò của mình
trong công tác chủ nhiệm.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trong suốt những năm làm GVCN, qua việc áp dụng một số biện pháp
giáo dục học sinh cá biệt , với tâm huyết của người làm nhiệm vụ “ trồng người
” cho đất nước. Tôi nhận thấy đây là nhiệm vụ rất khó khăn và không dễ thành
công. Thực tế trong những năm qua, với những vấn đề ấy, bản thân tôi đã được
các em học sinh cá biệt tôn trọng. Ban đầu các học sinh cá biệt sống rất tách rời
tập thể, thấy cô giáo thì ghét cay, ghét đắng, xong dần dần, tôi đã giúp cho các
em hiểu được vấn đề và hiện nay đa số các em sống rất gần gũi với lớp. Đặc biệt
bất kỳ chuyện gì xảy ra, dù lớn hay nhỏ các em này cũng đều tâm sự và chia sẻ
với tôi từ niềm vui đến nỗi buồn. Chính đều đó dần dần, tôi đã giúp các em tránh
được tự ti và mặc cảm ban đầu.
Mức độ vi phạm của các em học sinh cá biệt giảm đáng kể so với đầu năm
học. Đối với bốn học sinh cá biệt mà tôi đã chủ nhiệm, nay các em đã sắp ra
trường để đi tiếp con đường mà các em lựa chọn . Nhìn chung các em đó đều có
những tình cảm thân thiện với cô giáo chủ nhiệm, trong buổi liên hoan chia tay
lớp có em đã khóc và tâm sự “ nếu không có cô, không được gặp cô em sẽ
không có ngày hôm nay, cô như một nghười mẹ thứ hai của em”. Đó chính là
phần thưởng quí giá, là niềm hạnh phúc nhất đối với tôi.

3.2. Kiến nghị
12



Thông qua đề tài này tôi cũng xin đề xuất một số kiến nghị như sau:
- Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp có học sinh cá biệt: Phải thật sự tích
cực, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, phải yêu nghề mến trẻ, có niềm tin tuyệt đối
vào sự chuyển biến nhân cách của học sinh, có trình độ chuyên môn vững vàng,
năng lực sư phạm tốt; có sự cảm thông và sẻ chia, có nghị lực vượt mọi khó
khăn trong cuộc sống. Hơn thế, giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực sự là người
sâu sắc, tế nhị, phải biết xử lý thông tin tốt, linh hoạt, sáng tạo trong phương
pháp giáo dục...
- Đối với giáo viên bộ môn: Có phương pháp dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh, yêu nghề, và phải có sự nhiệt tình trong công việc. Bên cạnh
những việc kế thừa những tinh hoa của truyền thống giáo dục cổ điển thì giáo
viên đổi mới phương pháp nhằm tránh sự nhàn chán , tạo sự cuốn hút học sinh.
Một số cách đổi mới tiết dạy: gợi mở, không áp đặt cho học sinh nêu ý kiến cá
nhân về một vấn đề nào đó (trong phạm vi các vấn đề xã hội). Trong bài giảng,
cần có sự lồng ghép nhẹ nhàng các vấn đề thời sự , cập nhật thông tin cho học
sinh thảo luận, đề xuất quan điểm của mình
- Đối với gia đình có học sinh: Phải luôn quan tâm, động viên các em
để nắm được tâm tư nguyện vọng của các em từ đó tìm giải pháp thích hợp để
điều chỉnh, phải thực sự tích cực tự giác phối hợp với nhà trường và xã hội,
đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Đối với Ban Giám Hiệu (BGH) nhà trường:
+ Ban giám hiệu nhà trường cần có những can thiệp cần thiết khi giáo
viên gặp khó khăn trong việc tiếp cận với gia đình học sinh cá biệt, hoặc tạo
điều kiện thuận lợi để giáo viên liên hệ làm việc với các ban ngành ( Phụ nữ,
Hội nông dân …) khi cần thiết để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn .
+ Cần tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động ngoại khóa về chủ đề học tập,
vấn đề nóng của xã hội, các kỹ năng sống…dưới nhiều hình thức khác nhau như
các câu lạc bộ, cuộc thi,... trong trường học để công tác giáo dục thường xuyên

và hiệu quả hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi trong việc giáo dục “học
sinh cá biệt”. Song vẫn còn nhiều hạn chế rất mong được sự góp ý, chia sẻ từ
quý thầy cô giáo để tôi tiếp tục hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ngọc Lặc, ngày 20 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do mình
viết không sao chép của người khác.
Người viết sáng kiến

Đỗ Thu Hà
13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tình huống sư phạm trong công tác Giáo Dục học sinh THPT.
Tác giả: Bùi Thị Mùi.
2. Sổ theo dõi năm lớp 10A9, 11A9: sổ chủ nhiệm, sổ điểm, sổ nề nếp của
nhà trường, xếp loại thi đua.
3. Tài liệu tập huấn Giáo viên chủ nhiệm và công tác tư vấn tâm lý – giáo
dục cho học sinh trung học. (PGS.TS Đinh Thị Kim Thoa – chủ biên. Bộ
GD&ĐT năm 2013).
4. Tư vấn tâm lý tuổi vị thành niên. Tác giả Nguyễn Công Khanh.
5. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet:
- Nguồn: https:/giadinh.vnexpress.net/
- Nguồn:

14



15



×