Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SKKN một số biện pháp hỗ trợ giáo dục học sinh dân tộc trong xu thế đô thị hóa ở lớp 10a9 trường THPT ngọc lặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.71 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
PHẦN

I

II

III

NỘI DUNG

TRANG

MỞ ĐẦU

2

1. Lí do chọn đề tài

2

2.Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu


3

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

1. Cơ sở lí luận

3

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

4

3. Các giải pháp đã sử dụng

6

4. Hiệu quả cúa sáng kiến kinh nghiệm

10

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

11

1. Kết luận

11


2. Kiến nghị

12

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13

I. Mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài:
1


Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách nhanh chóng như hiện
nay thì đô thị hóa là quá trình tất yếu của tất các các nước trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra càng
nhanh. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà nó mạng lại thì những ảnh hưởng
mà quá trình đô thị hóa gây ra cũng không phải là nhỏ; đặc biệt là sự thay đổi
trong hệ giá trị, trong lối sống của người dân vùng đô thị hóa, nhất là vùng nông
thôn và miền núi.
Huyện miền núi Ngọc lặc của tôi hiện tại cũng là một vùng đang được đô
thị hóa. Cuối năm 2016, huyện có quyết định lên đô thị loại IV. Khỏi phải nói
người dân khắp nơi vui mừng khôn xiết vì từ đây huyện sẽ được đầu tư thêm
nhiều cơ sở hạ tầng, nhiều công trình mới sẽ được mọc lên như trung tâm
thương mại, các khu đô thị mới…Cũng chính vì thế người nông dân bị mất đất
rất nhiều, cộng thêm đời sống ngày càng cao nên người nông dân dần từ bỏ
ruộng nương, đất đồi để đi làm ăn xa là tất yếu vì thực tế quỹ đất làm ruộng đã

giảm, chỉ dựa vào đồng ruộng không đủ để trang trải chi phí. Hầu hết những
người đi làm ăn xa là những người có độ tuổi từ 18- 40. Với những người có gia
đình thường để lại con cho ông bà hoặc họ hàng nuôi, thậm chí để con ở nhà một
mình khi các em từ 14-15 tuổi. Và hệ lụy từ đó gây ra là những đứa trẻ lớn lên
như ‘ cây rừng, cỏ dại”, không có sự bảo ban, dạy dỗ, dìu dắt của bố mẹ, các em
tự làm mọi việc từ ăn uống, giặt giũ, đến tự do quyết định việc đi học, đi chơi
hay đi làm bất kì điều gì mình muốn và cũng tự do nhiễm những thói hư, tật xấu.
Nhất là khi các em bước vào cấp 3, đến một môi trường học tập môi trường sống
hoàn toàn khác biệt, trước sự cám dỗ của cuộc sống nơi đô thị phố núi, lại không
có sự định hướng thì những quan điểm sống lệch lạc rất dễ nảy sinh ảnh hưởng
không nhỏ đến việc học tập cũng như sự phát triển về đạo đức, nhân cách của
các em sau này.
Năm 2017, tôi được nhà trường giao cho chủ nhiệm lớp 10A9. Lớp tôi có
47 em nhưng có đến 39 là học sinh miền núi, vùng sâu, vùng 135 hầu hết có
hoàn cảnh như vậy. Và không chỉ trong lớp tôi mà nhiều lớp trong trường cũng
xuất hiện tình trạng này.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc giáo dục học sinh trong giai đoạn tuổi
dậy thì, nhất là với đối tượng học sinh dân tộc trong giai đoạn hiện nay, tôi xin
đề xuất sáng kiến: “Một số giải pháp hỗ trợ giáo dục học sinh dân tộc trong
xu thế đô thị hóa tại lớp 10A9 trường THPT Ngọc Lặc”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Từ những vấn đề thực tế đang tôi tại, tôi muốn đề xuất một số giải pháp
giúp hỗ trợ giáo dục đối với học sinh dân tộc trong xu thế chung của đô thị hóa
hiện nay, giúp các em đi đúng hướng, góp phần tạo tiền đề cho một tương lai,
một cuộc sống tốt hơn cho các em sau này.
3. Đối tượng nghiên cứu:
2


- Học sinh dân tộc miền núi trong xu thế phát triển hiện nay tại lớp 10A9 trường

THPT Ngọc Lặc.
4. Nhóm các phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu lí luận.
- Phương pháp phân tích tổng quan các nguồn tài liệu đã thu thập được.
b. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh thông qua cá hoạt động học và hoạt
động tập thể
- Phương pháp điều tra: Xem học bạ, lí lịch, trò chuyện, trao đổi bộ môn, với
cha mẹ các em , với thầy cô giáo cũ hoặc qua trao đổi trực tiếp với học sinh, sử
dụng hình thức trắc nghiệm để hiểu rõ đặc điểm của từng em.
- Phương pháp thử nghiệm: Đưa ra một số giải pháp giáo dục và áp dụng vào
thực tế tại lớp 10a9- trường THPT Ngọc Lặc.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
1. Cơ sở lí luận:
1.1.Vai trò của giáo dục đối với trẻ em tuổi vị thành niên.
Giáo dục ở mỗi cấp học, mỗi lứa tuổi đều có những khó khăn riêng. Đặc
biệt, đối với cấp trung học phổ thông, khi các em bắt đầu lứa tuổi “ tập làm
người lớn” thì việc giáo dục lại càng khó khăn và phức tạp. Ở lứa tuổi này, cùng
với sự phát triển về thể chất , đời sống tinh thần, tâm lí, tình cảm cũng trải qua
nhiều biến đổi sâu sắc. Đồng thời với sự biến đổi như vậy thì khi lên cấp 3, các
em còn chuyển sang một môi trường mới, thầy cô, bạn bè, môi trường sinh hoạt
mới. Mặc dù giai đoạn dậy thì có tầm quan trọng như vậy nhưng ít người có hiểu
bíết về kiến thức, thái độ và hành vi liên quan đến sức khỏe cùng nhu cầu hỗ trợ
xã hội của lứa tuổi này. Nói chung tuổi dậy thì là một thời kì phức tạp. Bản thân
các em và người lớn cũng chưa thật sự hiểu rõ ràng. Các hậu quả của sự thiếu
hiểu cần thiết không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân các em mà còn
gián tiếp ảnh hưởng đến nguồn lực xã hội, tới sự phát triển kinh tế - xã hội và
tương lai của đất nước. Chính vì vậy gia đình, nhà trường và đặc biệt là giáo
viên chủ nhiệm có vài trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục học sinh , giúp

các em nhận thức được những điều đúng đắn, có những suy nghĩ tích cực, xác
định được mục tiêu của cuộc sống, là tiền đề cho sự phát triển ở tương lai.
1.2.Đặc điểm của học sinh dân tộc, miền núi trong xu thế đô thị hóa:
Trong bối cảnh sự phát triển kinh tế của đất nước, sự đô thị hóa ngày càng
được mở rộng, cuộc sống với rất nhiều cảm dỗ thì việc giáo dục trẻ em tuổi vị
thành niên lại càng phức tạp. Đặc biệt là trẻ em miền núi khi lần đầu tiên “ lên
phố” mà tôi gọi là những học sinh dân tộc trong xu thế đô thị hóa. Vậy những
học sinh dân tộc, miền núi hiện nay có gì khác biệt? Đó không còn là những
chàng trai, cô gái dân tộc“thuần túy” giản dị, ngây ngô với trang phục đặc
trưng, với chiếc xe đạp cọc cạch trên con đường đồi dốc ngoằn ngoèo hằng
ngày đến trường; thay vào đó là những chiếc xe xe đạp điện , xe máy phân khối
nhỏ, có điện thoại để sử dụng, biết diện nhiều quần áo đẹp, có tiền để tiêu vặt
hằng ngày và ít chịu sự quản lí của gia đình do hầu hết cha mẹ các em đã đi
làm ăn xa, lại được tiếp xúc với nhiều cái mới mẻ của phố xá. Trong khi đó,
3


trước đây khi còn học cấp 2, các em vốn đã quen với tập quán sinh hoạt từ nhà,
sống rất vô tư, đơn giản, ngại suy nghĩ. Cũng chính những nguyên nhân ấy là hệ
lụy cho nhiều những suy nghĩ, những hành động sai lầm, những cám dỗ mà có
thể các em sẽ mắc phải. Vậy làm thế nào để các em có thể phát triển tích cực về
nhân cách, cần phải có một biện pháp giáo dục hợp lí thì mới nâng cao được
hiệu quả.
2. Thực trạng vấn đề:
Trường THPT Ngọc lặc nằm ở trung tâm của huyện Ngọc lặc, một huyện có
phần lớn là người dân tộc thiểu số( chủ yếu là người dân tộc Mường )sinh sống.
Tuy là một huyện miền núi nhưng những năm gần đây huyện đã có những sự
chuyển biến không ngừng về kinh tế. Nhất là vào năm 2016, huyện đã được nhà
nước quyết định lên đô thị loại IV. Đó là một quyết định hết sức quan trọng giúp
cho sự phất triến cơ sở hạ tầng của toàn huyện. Song đi cùng với biến đổi đó là

những sự biến đổi tất yếu khách quan về nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố con
người. Đó là sự thay đổi về quan điểm sống, về cách nhìn nhận cũng như về đạo
đức của đa phần học sinh ở lứa tuổi cấp 3.
Theo thống kê của nhà trường, mấy năm gần đây, từ giữ học kì 1 đến cuối
năm lớp 10, số học sinh bỏ học, vi phạm nội quy tăng lên rất nhiều. Trong số đó
hơn một nửa là học sinh dân tộc ở các xã vùng sâu. Vậy nguyên nhân là do
đâu?
Năm 2016, tôi được Ban giám hiệu nhà trường giao chủ nhiệm lớp 10A9
lớp có tổng số 47 học sinh, chỉ có 3 học sinh là người kinh ở gần trường, còn lại
là các em người dân tộc thiểu số, nhà cách trường từ 10km trở lên và có đến 30
em nữ đều là dân tộc. Hầu hết các em sống với ông bà, họ hàng, thậm chí ở nhà
một mình, một vài em ở trọ do nhà quá xa, đường khó…Nói chung ở lớp tôi có
rất nhiều vần đề phức tạp, việc giáo dục kiến thức cho các em là quan trọng
nhưng với đặc thù của lớp học như vậy thì việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho
học sinh là điều quan trọng hơn, nhất là với học sinh nữ ở vùng dân tộc trong
giai đoạn phát triển đặc biệt này.
Về thuận lợi: Hầu hết các em nữ đều các em có sức khỏe tốt, thật thà, lễ phép.
Nhiều em có phương tiện đi lại như xe đạp điện nên ít phải lo lắng về quãng
đường đi của các em như trước đây. Đa số bố mẹ các em đều có điện thoại nên
việc trao đổi về viêc học tập và rèn luyện của các em cũng dễ dàng hơn.
Về khó khăn:
Thứ nhất :Đa số các em là người dân tộc thiểu số trình độ nhận thức còn gặp
nhiều hạn chế. Mặt khác, lần đầu tiên các em xa nhà, tiếp xúc với một môi
trường hoàn toàn mới, thấy nhiều bạn nữ ở phố mặc quần áo đẹp,” môi son má
phấn”, thậm chí có “người yêu” nên cũng rất dễ nảy sinh tử tưởng “học đòi” .
Vào tháng thứ 2 sau khi tôi nhận lớp thì đã xuất hiện 4-5 em từ chỗ ăn mặc giản
dị, giờ đã bắt đầu biết diện quần áo đẹp, tô son đỏ chót ( L.Anh, Dung,
H.Quỳnh, Nguyệt…), hỏi lấy tiền ở đâu mua son, các em chỉ cười bẽn lẽn; có
vài em thường nghỉ học không có lí do, tôi điện đến thì phụ huynh bảo rằng em
không đi học vì không có xe đạp điện, “giờ các bạn đều đi xe đạp điện hoặc xe

máy, mình con đi xe đạp xâu hổ lắm!”. Trong lớp còn xuất hiện cả tình trạng 1
bạn Nữ ( em G) móc nối với em học sinh nữ lớp khác để lấy trộm xe đạp của
4


bạn cùng lớp,giấu đi để bán lấy tiền mua điện thoại, đi chơi nhưng chưa kịp bán
xe thì bị phát giác.
Thứ hai: Vì cha mẹ đi làm xa, chủ yếu làm công nhân nên thường cho con tiền
tiêu vặt, sắm điện thoại cho con mục đích để dễ liên lạc và quản lí. Chính vì
vậy, việc sử dụng điện thoại của các em là không thể kiểm soát. Cộng với sự
phát triển của công nghệ thông tin – sóng wifi, 3G, 4G có ở khắp nơi, dễ dàng
truy cập mạng internet nên tình trạng các em lên mạng, thu thập những thông tin
sai lệch và từ đó có những cái nhìn lệch lạc là rất dễ dàng. Theo tìm hiểu và trao
đổi trực tiếp, trong lớp có đến 32 bạn có điện thoại thông minh, nhiều bạn
thường xuyên lên facebook đăng startut về tình yêu, thất tình, buồn phiền…
hoặc vào những trang web “ không chính thống”. trong các giờ học trên lớp, thi
thoảng lại có vài em sử dụng điện thoại để nhắn tin, vào facebook; các em chỉ
dừng lại khi bị thầy cô phát hiện.
Thứ ba: Nhiều em ở nhà một mình hoặc ở trọ, lại có xe đạp điện nên việc đi học,
đi chơi rất tự do, không có người quản lí. Nhiều hôm nhà trường nghỉ học buổi
chiều, hoặc những buổi đi lao động về sớm, các em thường tụ tập, đi chơi rồi về
nói dối bố mẹ,ông bà.
Thứ tư: Một trong những nguyên nhân quan trọng nữa là do nhận thức của cha
mẹ,ông bà của các em còn hạn chế, chỉ quan tâm đến cái ăn, cái mặc của con mà
ít quan tâm đến đời sống tình cảm, hoặc quá chiều con, thật thà, “ dễ bị con lừa”
nên thường cho con tiền nhuộm tóc, mua quần áo đẹp, mua điện thoại, mua xe
đạp điện, xe máy…cho con nếu con đòi ví sợ con bỏ học, hay sợ con không
“bằng bạn bằng bè ở phố”.
Thứ năm: Học lực của đa số các em là yếu hoặc trung bình. Khi tuyển sinh vào
lớp 10, do số lượng không đủ nên điểm trúng tuyển vào lớp 10 rất thấp có năm

khoảng 9-10 điểm đã đậu vào trường, miễn là các em không bị liệt môn nào là
đã được vào. Do đó chất lượng đầu vào yếu, học sinh có lực học rất yếu. Đồng
thời khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào các đối tượng là con em
dân tộc thiểu số thì hầu như không có hiệu quả bởi đặc điểm của học sinh vùng
khó ngại giao tiếp, e dè, thậm chí tiếng Kinh các em nói còn ngọng ngịu khiến
các em học không tiếp thu được bài học. Và có lẽ cũng do chương trình sách
giáo khoa chưa phù hợp đối với học sinh vùng khó, vùng đặc biệt khó khăn nên
các em cảm thấy áp lực trong việc học tập. Cộng thêm không có bố mẹ ở bên
đôn đốc, nhắc nhở nên hầu như việc học cũ ở nhà rất ít, lại do không tiếp thu
được bài nên tình trạng không ghi bài hoặc ghi bài đối phó, ngủ trong lớp hay sử
dụng điện thoại trong lớp cung diễn ra.
Thứ sáu: Những năm gần đây, các anh chị sinh viên mà các em quan biết ra
trường thất nghiệp nhiều, phải đi làm ăn xa, về quê buôn bán hoặc đi làm công
nhân; mà “làm công nhân rất nhanh có tiền, lại mua được điện thoại nhanh
hơn, lương còn cao hơn cả cô giáo ấy chứ!”- nhiều em đã phát biểu như vậy.
Chính vì thế các em chỉ xác định đi học cấp 3 “cho vui”, rồi may mắn thì “lấy
cái bằng” về đi làm. Khổ nỗi, lại chả bao giờ chịu học bài.
Thứ bảy: Một vài em nữ đã biết yêu nên biết làm dáng, thậm chí thi thoảng còn
trốn học đi chơi như em Phạm Thị Giang, em Phạm Thị Hằng…
5


Trên đây là những thực trạng còn tồn tại trong lớp. Tất nhiên không phải
tất cả các em đều có biểu hiện tiêu cực như vậy, hiện tại vẫn có nhiều em giản
dị, chăm chỉ học bài, chấp hành tốt nội quy lớp học. Đây không phải là lần đầu
tôi nhận một lớp toàn học sinh vùng dân tộc nhưng là lần đầu tiên tôi tiếp nhận
đối tượng học sinh dân tộc hoàn toàn khác xa với những em tôi đã từng chủ
nhiệm. Học trò dân tộc những năm trước các em chỉ chậm tiến bộ, học lực yếu
còn nhừng điều tồn tại như hiện nay là hoàn toàn rất ít phổ biến.
Vài tuần đầu nhận lớp mọi việc không có gì đáng lo vì phần lớn các em

nữ đều tương đối thuần. Tôi chỉ chú ý nhiều đến một số em nam nghịch ngợm.
Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ, quan sát thường xuyên, tôi nhận thấy các em nữ cũng
thật sự “không ổn” . Suy nghĩ rất nhiều, tôi thấy rằng song song với việc giáo
dục cho toàn thể học sinh nam việc giúp đỡ, hỗ trợ, giáo dục tâm lí, tình thần
riêng cho các em nữ là vô cùng cần thiết, vì “con gái vốn rất phức tạp và rắc
rối”. Huống hồ những em nữ bước ra từ nơi rừng núi, chỉ quen với những phong
tực tập quán sinh hoạt đơn giản vốn có của người dân tộc, chỉ biết lớn lên cùng
với núi rừng ,sống đơn giản như cái cây, ngọn cỏ, nay thay đổi một môi trường
hoàn toàn mới, sống giữa đô thị phồn hoa…chắc chắn không khỏi “ choáng
ngợp”. Khổng Tử nói “ nhân chi sơ, tính bản thiện” – Con người sinh ra vốn
lương thiện nhưng nếu con người chỉ lớn lên như cỏ dại, không có sự giáo dục
thì rất khó “ thành người”. Người Việt Nam lại có câu: “ uốn cây từ thủa còn
non”; những em học sinh ấy giống như cái cây, tuy không “còn non” những vẫn
có thể uốn được. Giữ cuộc sống kinh tế thị trường với quá trình đô thị hóa, có
nhiều ưu điểm nhưng cũng rất nhiều cạm bẫy, các em, nhất là những em nữ ở
thôn quê rất dễ bị cám dỗ, bị lợi dụng. Vì vậy, hướng cho các em có những suy
nghĩ tích cực, những hành động đúng đắn, giúp các em dần trưởng thành không
chỉ là trách nhiệm của gia đình, mà còn là trách nhiệm vô cùng quan trọng, lớn
lao của nhà trường, của thầy cô giáo mà trước hết là giáo viên chủ nhiệm, người
trực tiếp gần gũi, giáo dục các em.
Với cái tâm của một người giáo viên, bằng những tình cảm dành cho học
trò của mình mặc dù kinh nghiệm chưa nhiều nhưng tôi cũng xin đề xuất một
vài biện pháp giáo dục mà tôi đã áp dụng tại lớp mình để hỗ trợ giáo dục học
sinh dân tộc ở lớp trong xu thế đô thị hóa hiện nay.
3. Giải pháp:
3.1.Giải pháp thứ nhất: Thiết lấp mối quan hệ.
Theo tôi, muốn giaó dục được học sinh, muốn trở thành người tư vấn,
hướng các em theo mục đích giáo dục của mình được hiệu quả thì trước hết phải
tạo được niềm tin, sự thân thiện và hợp tác của học sinh.
Tôi thường tranh thủ các giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giờ sinh hoạt để

nói chuyện, hỏi han, hay nói vài câu chuyện cười. Vì cũng là người dân tộc nên
tôi chủ động giáo tiếp với các em bằng tiếng dân tộc. Ngoài ra các giờ lao động,
tôi chủ động “ nói chuyện phiếm”, chuyện cười, kể chuyện hài hước cho các em
nghe. Trong giờ học thể dục, những giờ bóng chuyền hay đá cầu, tôi thường xin
phép giáo viên để chơi cùng với các em, nếu không biêt tôi chủ động nhờ các
em hướng dẫn vì những em ở các làng, xã thường chơi bóng chuyền rất giỏi. Từ
những câu chuyện đơn giản, để các em cảm thấy gần gũi , có thể rút ngăn
6


khoảng cách cô- tṛ, các em sẽ cảm thấy tin tưởng và có thể gửi gắm những tâm
sự thầm kín của mình vì trên thực tế học sinh dân tộc về bản chất vẫn còn rất rụt
dè, nhút nhát, ngại bộc lộ những tâm tư, tình cảm của mình.
Ngoài ra, tôi cũng chủ động cùng với các em trong ban cán sự lớp tranh
thủ thời gian đến thăm nhà học sinh. Trước hết là những em ở xa trường nhất,
những em có hoàn cảnh khó khăn vì tôi hiểu rõ ở vùng đồng bào dân tộc, khi
được cô giáo đến chơi nhà, đồng bào rất quý và trân trọng.
3.2 Giải pháp thứ hai:
Sâu sát, tìm hiểu đối từng tượng học sinh để từ đó đưa ra phương
pháp giáo dục phù hợp. Tôi dựa trên nguyên tắc : Muốn giáo dục một con
người phải hiểu rõ con người đó.
Có rất nhiều cách để tìm hiểu các em. Trước hết bằng sự quan sát của cá
nhân; vì là giáo viên chủ nhiệm nên tôi có nhiều thời gian để tiếp cận với các
em. Mặc dù một tuần chỉ có 2 tiết trên lớp nhưng những thòi gian rảnh dỗi tôi
thường đi kiểm tra xem ý thức học của các em trong các giờ học khác thế nào,
có em nào có biểu hiện khác thường hay không. Ngoài ra thông qua học bạ, qua
các thầy cô giáo bộ môn, hay gặp gỡ, trao đổi trực tiếp, gọi điện thoại với bố mẹ,
ông bà, với người giám hộ các em, những bạn bè thân thiết hay thông qua cán bộ
lớp để hiểu rõ hơn về tính cách, tâm lí của học sinh.
Một cách tìm hiếu phổ biến mà tôi hay sử dụng đó là dành thời gian cho

các em làm một bài trắc nghiệm . Ở đây tôi chủ yếu sử dụng câu dạng câu hỏi vì
“ cuộc sống không chỉ phụ thuộc vào câu trả lời ta nhận được mà còn phụ thuộc
vào những câu hỏi chúng ta đặt ra”.
+) Đầu năm, mỗi em sẽ phải điền vào một tờ “Sơ yếu lí lịch”. Trong bản này
ngoài cá thông tin cá nhân cần thiết , tôi cho các em ghi thêm các thông tin như:
Hiện nay ở với ai?( vì có nhiều em không ở cùng với cha mẹ); môn học khá nhất
của em? Môn học em yêu thích nhất ? sở thích ? ước mơ của em sau này?...Vì
các em khá thật thà nên hầu hết các em đều ghi đúng sở thích, ước mơ… của
mình .Từ đó hiểu rằng, ai cũng đều có hoài bão, có ước mơ, dù là ước mơ thực
tế hay xa vời.
+) Vào tiết sinh hoạt 15 phút cuối tháng 9, tôi dành thời gian cho các em làm
một bài trắc nghiệm nho nhỏ gồm 5 câu, yêu cầu các em trả lời trung thực
( không yêu cầu các em ghi tên cụ thể và có thể chọn nhiều đáp án phù hợp với
các em)
Câu 1: Em đã làm quen được với môi trường mới hay chưa?
A. Chưa thể quen, cần một thời gian nữa.
B. Hơi quen.
C. Rất quen.
D. Cảm thấy rất khó khăn.
Câu 2: Thời gian rảnh dỗi em thường làm gì:
A. Lướt web, lên facebook.
B. Làm việc giúp bố mẹ.
C. Chơi game, đi chơi với bạn bè.
D. Đọc sách.
Câu 3: Khi truy cập vào mạng, em thường tìm hiểu về vấn đề gì:
7


A. Tìm hiểu những trào lưu mới của giới trẻ.
B. Tìm hiểu về tình yêu.

C. Nhắn tin với bạn bè.
D. Tìm hiểu về một số môn học.
Câu 4: Hiện nay em thích học nhất môn nào? ……..Sợ nhất môn nào? ………….
( ghi cụ thể môn học em thích, không thích). Lí do…………………..
Câu 5:Hiện tại mục tiêu hoặc điều em mong muốn là gì:
A. Được sống cùng bố mẹ.
B. Được đi chơi thoái mái, làm điều mình thích.
C. Cố gắng học thật tốt.
D. Làm việc có ý nghĩa như làm từ thiện…
+) Trong tiết sinh hoạt cuối tuần của tháng đầu tiên của năm học và ở cuối Học
kì I, mỗi em sẽ về nhà viết vào một tờ giấy : 10 điều em càm thấy hài lòng về
cồ, 10 điều chưa hài lòng. Những gì các em viết ra sẽ được bí mật.
Từ những cách thức như trên tôi có thể hiểu rõ cuộc sống, suy nghĩ,
những việc làm của các em, hiểu được điều các em mong muốn. Từ đó điều
chỉnh bản thân và có phương pháp giáo dục phù hợp.
3.3. Giải pháp thứ ba: Tạo ra những diễn đàn chung, hướng các em vào
sinh hoạt tập thể, giúp các em có những kĩ năng nhất định, phát huy được
năng lực ,tự tin về bản thân, xác định được đúng định hướng- mục tiêu của
cuộc sống.
Học sinh dân tộc tuy khá thật thà nhưng lại rất bảo thủ và khó tiến bộ, để
làm thay đổi nếp sinh hoạt, nếp nghĩ hay tư tưởng là một việc khá khó khăn và
cần có nhiều thời gian. Chính vì vậy, cứ hai tuần một lần vào tiết sinh hoạt hoặc
có thể vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tôi tổ chức giáo dục về các vấn đề tình yêu,
tình bạn ở lưá tuổi học trò, lối sống hiện nay của giới trẻ, các kĩ năng sống cơ
bản, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản. Tôi chú trọng nhiều đến vấn đề yêu
sớm, sức khỏe - giới tính, kĩ năng bộ lộ bản thân, kĩ năng thoát khỏi sự cám dỗ
vì học sinh dân tộc thường yêu sớm, khả năng ngôn ngữ khá chậm, dễ tin
người..
Với mỗi vấn đề tôi thường đưa ra nhiều phương pháp khác nhau để các
em có thể tiếp cận một cách dễ dàng.

Ví dụ 1:
+) Liên quan đến tình yêu ở lứa tuổi học trò, tôi đưa ra chủ đề: “Tình yêu ở lứa
tuổi học trò- lẵng mạn hay liều mạng?” Tôi dung phương pháp thảo luận thảo
luận, mỗi nhóm có thể đưa ra ý kiến của mình và mỗi nhóm được đặt một câu
hỏi. Tóm lược những câu hỏi và tôi sẽ phân tích cho các em những mặt tích cực,
tiêu cực của vấn đề. Tiếp theo tôi đưa ra một vài tình huống giả định có thể gặp
trong thực tế bằng cách in sẵn để các em trả lời vào giấy:
Tình huống 1: Người yêu rủ em bỏ học đi chơi một ngày, em sẽ xử lí như thế
nào?
Tình huống 2: Một bạn trong lớp có người yêu, nhưng vừa rồi bạn ấy bị người
yêu bỏ làm cho tinh thần và việc học tập bị đi xuống nghiêm trọng, em sẽ làm gì
để giúp đỡ bạn?
Tình huống 3: Người yêu rủ em “đi quá giới hạn”, em sẽ làm gì?
8


Vì học sinh sử dụng điện thoại và vào facebook thường xuyên nên tôi chủ
động lập một địa chỉ facebook riêng của lớp.Với học sinh nữ, tôi lại tạo các địa
chỉ riêng, tại địa chỉ đó, khuyến khích các em bày tỏ những suy nghĩ, những
thắc mắc về các vấn đề trong cuộc sống, hay về những vấn đề đã thảo luận
nhưng vì thời gian hạn chế mà chưa có dịp bày tỏ. Diễn đàn diễn ra vào buổi tối
thứ 6, và “ giao hẹn” dù tham gia gia diễn đàn nhưng vẫn đảm bảo học bài cũ ở
nhà, nêu bạn nào vi phạm bị nhắc nhở hoặc phạt nhẹ nhàng.
3.4. Giải pháp thứ tư:
Tạo môi trường học tập, rèn luyện vui vẻ. Có khen thưởng hợp lí, kịp
thời.
Với học sinh dân tộc, điểm chung của các em là lực học chỉ ở mức trung
bình hoặc yếu, cũng có những kiến thức các em bị “mất gốc” từ cấp hai nên tâm
lí các em rất ngại học. Mỗi tiết học trên lớp đều trải qua khá nặng nề do thường
xuyên không học bài cũ bị thầy cô phạt, không tiếp cận được với phương pháp

học tập kiểu mới. Nhất là môn Hóa của tôi là “ môn khủng khiếp số một”. Vì
vậy nên tôi chủ động chỉ dạy thật đơn giản, dạy những kiến thức cơ bản nhất, có
kết hợp với hình ảnh hay thí nghiệm. Cuối tiết học, tôi cho các em dựa vào sách
giáo khoa và những gì thể hiện trên bảng, giao cụ thể câu hỏi kiểm tra bài cũ về
nhà. Vì đã giao về trước nên ai không học sẽ bị phạt tưới cây hoặc mang phân
bón cho cây; tuy nhiên những em nào có lực học yếu chỉ yêu cầu mức điểm 5 trở
lên, với học sinh trung bình cần mức điểm 7. Tiết sinh hoạt cuối tuần, ba bạn
được cộng điểm cao nhất sẽ trở thành “gương mặt tiêu biểu của tuần” và được
thưởng. Bên cạnh đó tôi hướng dẫn mỗi học sinh tự lập cho mình 1 bảng mức độ
kiến thức từ dẽ đến khó và mục tiêu học tập cần đạt được phù hợp với bản thân
theo tháng ( vì các em tiếp thu khá chậm nên tháng đầu tiên của năm học tôi sẽ
hỗ trợ cho các em, những tháng sau các em tự lập).
Ví dụ: với môn Hóa học
Tháng 9
Mục tiêu
Tuần 1
Tuần 2
Tuần 3
Tuần 4
Kiến thức
Nắmđược
Nhớ hóa trị ……
……….
tên,kí
hiệu của
các
hóa học của 1 nguyên tố phổ
số nguyên tố biến,
phân
loại nguyên tố

Điểm số
4
5
….
……
Với các môn học học khác tôi cũng trao đổi và giáo viên bộ môn để giúp
đỡ các em.
Những bạn nào có nhiều tiến bộ thì đều được tuyên dương, khen thưởng.
3.5. Giải pháp thứ năm:
Khuyến khích và tạo điều kiện để các em tham gia các hoạt động thể
dục thể thao, hoạt động từ thiện, tạo sự gắn kết.
Ngoài phong trào hoạt động thể thao chung của nhà trường, thi thoảng tôi
tổ chức cho học sinh trong lớp tham gia các trò chơi. Sau những giờ học kiến
9


thức trên lớp khá mệt mỏi thì được chơi thể thao giúp các em giảm bớt căng
thẳng, sảng khoái hơn. Thông thường sẽ chia lớp thành hai đội hoặc bốn đội tùy
thuộc vào từng trò chơi. Những trò chơi phổ biến như ném còn, bóng chuyền,
kéo co…là những môn các em thường thích tham gia.
Bên cạnh đó tôi cũng khuyến khích học sinh tham gia những hoạt động từ
thiện. Không nhất thiết phải đi đâu xa vì những mảnh đời khó khăn, vất vả xuất
hiện ở ngay gần, xung quanh các em, thậm chỉ ở trong lớp học, có nhiều bạn
hoàn cảnh còn vất vả. Các em có thể làm từ thiện bằng nhiều cách như tặng lại
quần áo cũ, sách vở cũ cho các bạn khó khăn hơn hoặc tiết kiệm giấy lộn để bán
gây quỹ từ thiện.
Với những hoạt động tập thể thường xuyên như vậy, học sinh sẽ học được
cách biết yêu thương, biết chia sẻ, cùng đoàn kết trong học tập, rèn luyện cũng
như trong cuộc sống.
3.6. Giải pháp thứ 6: Tạo cầu nối chặt chẽ với phụ huynh. Trao đổi, tư vân

để giáo dục học sinh một cách có hiệu quả.
Đây là một giải pháp không có ǵ mới nhưng là một giải pháp vô cùng
quan trọng vì để giáo dục học sinh một cách có hiệu quả thì cần có sự phối hợp
của cả gia đình và nhà trường, vì gia đình chính là nền tảng để các em phất triển
nhân cách tốt nhất. Tuy nhiên, đặc điểm của đồng bào dân tộc là đa phần trình
độ dân trí còn thấp, nhận thức còn hạn chế, nhiều cha mẹ còn nghe theo hay quá
tin tưởng con cái. Mặt khác cũng có ưu điểm là rất thật thà, tin tưởng thầy cô
nên bản thân tôi chủ động thường xuyên lien lạc qua điện thoại, gặp gỡ trực tiếp
tại trường, thậm chí tại nhà riêng của phụ huynh để trao đổi về tình hình học tập
và rèn luyện. Ngoài ra còn có có thể trở thành người tư vấn để phụ huynh có thể
dạy cho con mình những kiến thức cơ bản về giới tính, về những đặc điểm tâm
sinh lí của con mình ở lứa tuổi này.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Đối với hoạt độnggiáo dục học sinh:
Đầu năm theo thu thập thông tin từ nhiều hướng và bằng quan sát tôi đã
lập bảng theo dõi từng học sinh trong lớp theo đặc điểm tính cách, hoàn cảnh,
điểm mạnh, điểm yếu. Qua một quá trình áp dụng sang kiến, tính đến hết học kì
một tôi đã thu được một số kết quả nhất định, tiêu biểu như:
1. Một số em yêu sớm như em Phạm Thị Giang A, Quách Linh Anh, Phạm
Thị Hằng thường bỏ học đi chơi với bạn trai, sau buổi tư vấn về tình yêu ở
lứa tuổi học trò đã không còn tình trạng bỏ học, có nhiều cố gắng trong
học tập.
2. Em Phạm Thị Giang B dù hoàn cảnh không được khá giả, nhưng đầu năm
có biểu hiện thích ăn diện, có hành vi kết hợp với bạn lớp khác để lấy
trộm xe của bạn , sau một thời gian được giáo dục bằng tình cảm đã chu
động đến xin lỗi cô, xin lỗi bạn.
3. Em Phạm Thị Đào, Quách Thảo Linh, Phạm Thị Hương, Hà Thị Quỳnh,
Lê Văn Nghĩa, Phạm Văn Sơn, Trần Tuấn Nghĩa, Phạm Thị Dung, Phạm
Thị Thảo, Phạm Ngọc Ánh, Phạm Văn Hiếu…thường xuyên sử dụng điện
thoại lên facebook, lướt web tiếp nhận những thông tin “tạp nham”, thi

10


thoảng bị phát giác đã giảm được việc dùng điện thoại, sử dụng hợp lí,
chấm dứt tình trạng dùng trong giờ học.
4. Em Phạm Thị Nga, Phạm Thúy Nguyệt, Đỗ Hương Quỳnh, Phạm Chiến
Lộc, Phạm Văn Dương, Phạm Văn Vinh rất rụt dè, ít nói, ngại giao tiếp
nhưng đến cuối học kì I, sau nhiều lần tham gia các hoạt động tập thể,
được cô giáo và các bạn khuyến khích đã mạnh dạn, tự tin hơn. Riêng bạn
Chiến Lộc còn xung phong lên hất trước lớp, trong khi đầu năm em chỉ
lắp bắp khi cô hỏi và gọi đến tên.
5. Em Bùi Công Hoan, em Phạm Quỳnh Anh, Phạm Thị Thúy, Phạm Thị
Huyền, Phạm Văn Tiên, Lê Xuân Hưng, Phạm Văn Hảo, Phạm Thị Thủy,
Lê Văn Doanh, Phạm Thanh Tùng…chia sẻ “ bây giờ em không còn quá
sợ môn hóa, môn toán hay môn lí nữa đâu cô ạ”, với kết quả đầu năm chỉ
là con số 0 thì đến cuối kì bài kiểm tra đã đạt điểm 5,6.
Trên đây chỉ là một số những học sinh tiêu biểu có sự tiến bộ nhiều về học tập
và rèn luyện đạo đức. Tuy kết quả học tập còn hạn chế nhưng tôi rất vui vì đã
giúp các em qua được chính mình.
Đối với bản thân:
Trước khi thực hiện ý tưởng trên, bản thân tôi đã trải qua hai khóa chủ
nhiệm học sinh dân tộc ở vùng núi, vùng sâu nhưng đối với việc nhận lớp lần lần
này mặc dù vẫn là học sinh dân tộc tại như địa chỉ trước đây nhưng về biểu hiện,
hành vi, tính cách lại hoàn toàn khác biệt- khó bảo, khó dạy và phức tạp hơn rất
nhiều; đồng thời trong một lớp cũng xuất hiện nhiều đối tượng rất khác nhau.
Vậy làm thế nào để giáo dục các em phát triển theo chiều hướng tích cực, làm
tiền đề cho sự phát triển sau này? Tôi đã trải qua nhiều ngày suy nghĩ là tìm ra
những biện pháp thích hợp với đối tượng học sinh của lớp.
Trong quá trình thực hiện, tôi đã rút ra được nhiều bài học cho bản thân
cũng học được cách điều chỉnh bản thân vì muốn thay đổi được người khác

trước hết bản thân mình phải thay đổi, mỗi học sinh là một đối tượng giáo dục
khác nhau, phải hiểu rõ đối tượng mình cần giáo dục đề từ đó có những phương
pháp giáo dục phù hợp thì mới mang lại hiệu quả.
Cùng với những sự tin tưởng của học trò, đó chính là động lực, là niềm tin
giúp tôi thêm yêu nghề, yêu cuộc sống.
Đối với đồng nghiệp: Từ bài học của bản thân lần đầu và sự thành công về sau
tôi đã giúp cho một số đồng nghiệp trong trường trong công tác chủ nhiệm khi
gặp đối tượng học sinh như trên chúng tôi cùng đưa ra thảo luận và áp dụng khá
hiệu quả với nhiều lớp có đối tượng học sinh tương tự.
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận:
Giáo dục trẻ vị thành niên ở bất kì hoàn cảnh nào cũng chưa bao
giờ là dễ dàng. Nhất là trong thời điểm hiện tại, ngay cả trẻ em dân tộc miền núi
cũng “ bị đô thị hóa” thì việc giáo dục lại càng khó khăn hơn nhưng không phải
là không thể làm được. Nhận thức và xác định đúng đắn vai trò và tầm quan
trọng của lứa tuổi vị thành niên trong sự phát triển của cuộc đời mỗi học sinh
11


nói riêng và của xã hội nói chung giúp cho việc giáo dục toàn diện và đầy đủ
hơn. Đối với việc giáo dục học đường mà đối tượng học sinh là người dân tộc
thiểu số càng cần một tấm lòng yêu nghề, nhiệt huyết, sự kiên trì và phải hiểu rõ
tâm lí học sinh dân tộc thiểu số đổi mới phương pháp giảng dạy để lôi cuốn học
sinh, có phương pháp giáo dục phù hợp với từng em chắc chắn sẽ tạo được hiệu
quả tốt.
2. Kiến nghị:
1.Đối với giáo viên chủ nhiệm: Phải thật sự tích cực, nhiệt tình, tâm huyết
với nghề, phải yêu nghề mến trẻ, có niềm tin tuyệt đối vào sự chuyển biến nhân
cách của học sinh, có trình độ chuyên môn vững vàng, năng lực sư phạm tốt; có
sự cảm thông và sẻ chia, có nghị lực vượt mọi khó khăn trong cuộc sống. Hơn

thế, giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực sự là người sâu sắc, tế nhị, phải biết xử lý
thông tin tốt, linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp giáo dục...
2. Đối với gia đình: Cần có sự quan tâm đúng mức đến tâm lí, tinh thần
của các em ở lưá tuổi này. Thường xuyên liên lặc trao đổi với giáo viên chủ
nhiệm để cùng tìm ra cách giáo dục phù hợp với con em mình.
3. Đối với tổ chức đoàn thanh niên: Ngoài các sinh hoạt đoàn vào những
ngày lễ lơn như 26-3, 20-11 thì cần tạo ra nhiều sân chơi bổ ích hơn nữa như tìm
các chủ đề sinh hoạt đoàn theo tháng dành riêng cho khối lớp 10 để thu hút học
sinh, tạo niềm vui cho các em mỗi ngày đến trường, giúp các em phát huy được
khả năng của bản thân và hòa nhập được với môi trường mới.
4. Đối với nhà trường: Nên bổ sung thêm một tiết học giáo dục kĩ năng
sống, giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên vào thời khóa biểu
chung của nhà trường. Hoặc một năm hai lần có thể mời các chuyên gia tư vấn
tâm lí trao đổi trực tiếp với giáo viên và học sinh sẽ tạo được hiệu quả tốt trong
giáo dục đạo đức.
5. Đối với các cấp, đoàn thể: Cần lưu giữ, phổ biến và thực hiện các sáng
kiến, đặc biệt là sáng kiến chủ nhiệm, sáng kiến có tính khoa học và hiệu quả
cao để mọi người cùng tham khảo và học tập.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 05 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của tôi viết, không sao chép nội dung
của người khác.
( Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Thu Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO

12


1.Tâm lý học đường – một số vấn đề lý luận và thực tiễn ( PGS. TS Lê Khanh)
2. Tổ chức học tập cho học sinh dân tộc, miền núi ( Nhà xuất bản Đại học sư
phạm - Phạm Hồng Quang)
3. Tài liệu tập huấn giáo viên chủ nhiệm và công tác tư vấn tâm lý – giáo dục
cho học sinh trung học ( Bộ giáo dục và đào tạo – chương trình phát triển giáo
dục phổ thông)
4. Kĩ năng và các tình huống ứng xử sư phạm ( Trần văn Tính NXB ĐHQG Hà
Nội)
6. UNICEF VIỆT NAM, 2007 tập huấn kỹ năng cơ bản trong tham vấn. Hà nội
7. Phát triển kỹ năng sống cho học sinh trung học ( NXB ĐHQG Hà Nội – Đinh
Thị Kim Thoa)

13



×