Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

TRÌNH bày nội DUNG tư TƯỞNG CHÍNH DANH của KHỔNG tử và GIÁ TRỊ của nó đối với VIỆC TUYỂN CHỌN cán bộ CÔNG CHỨC VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.47 KB, 37 trang )

GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TRÌNH BÀY NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH DANH
CỦA KHỔNG TỬ VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC
TUYỂN CHỌN CÁN BỘ CÔNG CHỨC VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu
Họ tên: Nguyễn Thị Ngà
MSSV: 156021056
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012

Trang 1


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................3
1. Sơ lược tính yêu cầu của đề tài tiểu luận.......................................................................3
2 . Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận.................................................................................5
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.....................................................................6
4. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:.............................................................................6

PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................7
Chương I: Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của tư tưởng trị nước trong triết học


Trung Quốc cổ đại.............................................................................................................7
I. Cơ sở kinh tế - Xã hội và những thành tựu khoa học – văn hóa hình thành thư tưởng trị
nước trong triết học trung quốc thời kỳ cổ đại...................................................................7
1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội hình thành tư tưởng trị nước trong triết học Trung Quốc cổ đại
........................................................................................................................................... 7
1.2. Những thành tựu văn hóa – khoa học là cơ sở hình thành tư tưởng trị nước trong triết
học Trung Quốc cổ đại......................................................................................................13
II. Quá trình ra đời và phát triển tư tưởng trị nước của Khổng Tử và trường phái Nho gia
trong triết học Trung Quốc cổ đại......................................................................................16
Chương II: Nội dung tư tưởng trị nước trong triết học Trung Quốc cổ đại và ý nghĩa của nó
đối với việc xây dựng nhà nước Việt Nam........................................................................21
I. Nội dung tư tưởng trị nước trong triết học trung quốc cổ đại..................................21
II. Giá trị tư tưởng chính danh của khổng tử đối với việc tuyển chọn công chức việt
nam hiện nay ................................................................................................................... 32
Kết luận............................................................................................................................ 36
Danh mục tài liệu tham khảo .........................................................................................38

PHẦN MỞ ĐẦU
Trang 2


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

1. Sơ lược tính yêu cầu của đề tài tiểu luận
Việt Nam đã trải qua ngàn năm phong kiến đô hộ, nên đã có ảnh hưởng không nhỏ
đến tư tưởng của các nước phương đông, đặc biệt chúng ta ảnh hưởng rất nhiều về nền văn
minh của Trung Quốc, có thể nói nền văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của
văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung
Quốc còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh
Châu Á cũng như toàn thế giới. nói cách khác Nho giáo của Khổng Tử được du nhập vào

Việt Nam từ thời Bắc thuộc và ảnh hưởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay về
phong tục tập quán, đời sống kinh tế xã hội,…...
Mặt khác trong công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay mà Đảng và nhà nước xây
dựng đòi hỏi chúng ta một mặt phải nâng cao về mặt đạo đức, mặt khác phải nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của nhà nước. Bởi vì sự nghiệp đổi mới ở nước ta trước hết là đổi
mới tư duy kinh tế, tức là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường,
mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước đã không ngừng phát triển đạt
những thành tựu to lớn về khoa học kỹ thuật, đời sống,..
Bên cạnh đó do sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo chiều hướng nhận thức
sai lầm của các lãnh đạo “dởm” đã làm cho không ít cán bộ Đảng viên suy thoái về đạo đức
lối sống, tệ nạn xã hội ngày càng tăng do thị hiếu chạy theo đồng tiền nên các cơ sở sản
xuất gian lận thương mại, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, vi phạm pháp luật
một cách nghiêm trọng điều đó đã in sâu trong nhận thức của thế hệ hiện nay và dần dần
hình thành ngay cả những thế hệ trẻ, đây cũng là một bài toán vô cùng nan giải đối với
nhiều nhà khoa học – nhà tri thức cần có một biện pháp để thay đổi tổng quan về nhận thức
của con người. Để tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị - xã hội thì việc trị nước bằng
đức trị, nhân trị và pháp trị đối với nước ta là việc tất yếu để theo kịp nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nếu không Việt
Nam sẽ lu mờ đối với thế giới. Tư tưởng trị nước của triết học Trung Quốc cổ đại có ảnh
hưởng nhất định đối với các triều đại phong kiến Việt Nam. Những tư tưởng ấy rất phong
phú và sâu sắc về nội dung do đó đã để lại dấu ấn cho một thời đại, phản ánh một giai đoạn

Trang 3


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

phát triển sôi nổi của lịch sử triết học Trung Quốc đó là thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc, tư
tưởng tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ đại như tư tưởng đức trị của Nho gia, pháp trị

của pháp gia, vô trị của Đạo gia,…… với các nhà tư tưởng lớn có ảnh hưởng rất nhiều
trong những giai đoạn đầy biến động của lịch sử Trung Quốc như Khổng Tử, Lão Tử, Tuân
Tử, Mạnh Tử và Hàn Phi Tử……
Nếu như tư tưởng đức trị luôn đặt nhân nghĩa lên hàng đầu trong việc xây dựng nhà
nước thì tư tưởng pháp trị đề cao vai trò của pháp luật trong việc trị nước hay tử tưởng vô
vi nhi trị của Đạo gia đó là coi trọng yếu tố tự nhiên trong việc trị nước và còn đối với nhân
trị như chúng ta đã biết được Việt Nam hiện nay nền kinh tế xã hội rất phức tạp đa thành
phần và suy thoái nhận thức trong con người rất cao từ gia đình ra xã hội dần dần mất đi
nét truyền thống văn hóa vốn có từ ngàn xưa để lại…nên trong việc trị nước cần có cả ba
yếu tố trên để xây dựng lại đất nước và con người trong thời kỳ đổi mới khi thế giới đã mở
cửa, Những tư tưởng này thực sự có ý nghĩa và sự tác động mạnh mẽ đối với nước ta. Vì
thế, để xây dựng đất nước bên cạnh việc giữ gìn tư tưởng lâu đời của dân tộc, cũng cần
phải kế thừa những truyền thống quý báu của những dân tộc khác. Trong đó, tư tưởng trị
nước trong triết học Trung Quốc cổ đại có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng xây dựng
nhà nước Việt Nam hiện nay.
Nói đến Khổng tử, nói đến Nho giáo người ta nghĩ ngay đến học thuyết “Chính
danh”. Giá trị học thuyết này là rất lớn, không những có ảnh hưởng đến tư tưởng của người
dân Trung Quốc qua hàng nghìn năm lịch sử mà còn bám rễ vào các nền văn hoá của các
quốc gia trong đó có Việt Nam. Cho đến nay nhiều tư tưởng, quan niệm về xã hội, con
người, đạo đức, giáo dục thể hiện trong học thuyết “Chính danh” của Khổng giáo vẫn còn
giá trị và mang tính thời sự. Vì vậy, việc nghiên cứu và trao đổi về những ảnh hưởng của
học thuyết này trong xã hội ta hiện nay là việc làm cần thiết, hữu ích.
Tuy nhiên trong thời đại hiện nay điều kiện về kinh tế văn hoá, xã hội đã khác đi rất
nhiều, những quan điểm xã hội, những sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những học thuyết
về xã hội mới ra đời mà mức độ tương thích với xã hội hiện đại rất lớn và hiệu quả trong
việc định hướng phát triển xã hội ngày nay. Vậy vấn đề đặt ra là học thuyết có giá trị như

Trang 4



GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

thế nào trong xã hội hiện nay? Chúng ta có thể vận dụng như thế nào vào công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong công tác tuyển chọn cán bộ công chức ở nước ta?
Để nghiên cứu về tư tưởng chính danh của Khổng Tử là một phạm trù rất rộng để áp
dụng và đời sống thực tế của con người và đất nước, đặc biệt giá trị của nó đối với việc
tuyển chọn cán bộ và công chức hiện nay của đất nước ta. Trong khi đất nước cần một hồi
chuông báo động thì chúng tôi là những người được PGS. TS Vũ Văn Gầu truyền thêm
kiến thức và nắm được triết học là gì? Triết học không hề khô khan mà nó đi vào thực tiễn
rất sâu, với kiến thức và lý luận vô cùng uyên bác của thầy để chúng tôi áp dụng vào thực
tế và cần phải nghiên cứu sâu về nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhận thức được vai trò quan
trọng của những tư tưởng trị nước đối với việc ổn định nền kinh tế chính trị - xã hội và đặc
biệt trong công tác tuyển chọn cán bộ công chức hiện nay của đất nước nên tôi chọn đề tài
“Nội dung tư tưởng chính danh của Khổng Tử và giá trị của nó đối với việc tuyển
chọn công chức Việt Nam hiện nay”
2 . Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận.
Giúp cho chúng ta hiểu rõ nguồn gốc hình thành và phát triển của Nho giáo, những
tư tưởng cơ bản của Nho giáo, đặc biệt là những tư tưởng trong học thuyết “Chính danh”
của Khổng Tử. Ảnh hưởng và ý nghĩa giá trị của học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử
trong việc ứng dụng, phát triển trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Chỉ ra tư tưởng cơ bản của Nho giáo là gì, điều kiện ra đời của tư tưởng đó.
- Chỉ ra được chính danh là gì và những nội dung cơ bản của nó.
- Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng đức trị, nhân trị của Khổng Tử trong triết
học Trung Quốc cổ đại đối với việc tuyển chọn công chức Việt Nam hiện nay.

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Trang 5



GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

Nghiên cứu tiểu luận trên dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, phương pháp lôgic về lịch sử, phương pháp diễn dịch và quy nạp và phương
pháp so sánh đối chiếu . Đồng thời trao đổi ý kiến để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên
cứu.
4. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
Về mặt lý luận và thực tiễn giúp cho chúng ta hiểu sâu về học thuyết “Chính danh”
của Khổng Tử, ý nghĩa trong cuộc sống xã hội ở nước ta hiện nay, từ đó có cơ sở để làm
luận cứ trong việc tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ của Nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay.

PHẦN NỘI DUNG

Trang 6


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
TRỊ NƯỚC TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI QUA CÁC THỜI KỲ
Theo quan điểm của Heghen “Cái gì hợp lý thì tồn tại, cái gì tồn tại thì hợp lý” và
Theo quan điểm triết học Mác – Lê nin thì ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, phản
ánh điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. C.Mác
cho rằng: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ”. Tư tưởng trị nước của mỗi thời đại bao giờ cũng phản
ánh những dấu ấn của thời đại đó. Vậy tư tưởng trị nước trong triết học Trung Quốc cổ đại
đã được hình thành dựa trên những nhân tố ảnh hưởng như thế nào và dựa vào tình hình

kinh tế xã hội hiện nay.
I. CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG THÀNH TỰU KHOA HỌC –
VĂN HÓA HÌNH THÀNH VÀ RA ĐỜI CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC
TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI QUA CÁC THỜI KỲ
1.1 Cơ sở kinh tế - xã hội hình thành phát triển tư tưởng trị nước trong triết
học Trung Quốc cổ đại.
Đất nước Trung Quốc có sự phát triển mạnh mẽ được đánh dấu vào thời kỳ Xuân
thu – Chiến quốc, đồng thời đây cũng chính là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ bước vào
giai đoạn suy tàn. Có thể xem đây chính là gia đoạn giao thời từ chế độ tông tộc sang chế
độ gia trưởng, vì vậy, những giá trị đạo đức mới đang hình thành, phát triển. Do đó đã tạo
ra sự biến đổi toàn diện và sâu sắc trong rất nhiều các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội…. Đó là tiền đề cho sự giải phóng con người thoát khỏi sự phụ thuộc của thế
giới quan thần thoại tôn giáo đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của triết học. Lịch sử
Trung Quốc cổ đại qua nhiều thiên niên kỷ với những giai đoạn phát triển mạnh mẽ, có
những thành tựu hết sức rực rỡ về mọi mặt.


Trang 7


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XI trước công nguyên, phía Bắc Trung Quốc xuất hiện
một liên minh thị tộc rộng lớn với một nền sản xuất nông nghiệp, đó là triều đại Ân –
Thương. Dưới thời nhà Thương nghề trồng trọt chăn nuôi rất phát triển, gia đoạn này tiền
tệ đóng vai trò làm vật trung gian trong việc trao đổi sản phẩm. Xã hội thời Ân – Thương
chủ yếu gồm quý tộc chủ nô, nông dân và nô lệ. Quý tộc chủ nô sống rất xa hoa, hưởng lạc
trên nỗi khổ của nhân dân. Nô lệ bị coi như trâu ngựa, là lực lượng lao động chủ yếu và bị
huy động triệt để, thỏa mãn nhu cầu của giai cấp quý tộc. Nô lệ thường bị chôn sống theo
chủ và làm vật hiến tế cho thần linh. Điều đó đã nói lên sự tàn khốc của chế độ chính trị

thần quyền của triều đại Ân – Thương. Do đó vào thời kỳ Chiến quốc, triều đại Ân –
Thương đã bị suy tàn, nhiều nhà tư tưởng thường ca ngợi vua Nghiêu, Vua Thuấn và phê
phán vua Trụ. Sự diệt vong của vua Trụ và triều đại nhà Thương chính là nguyên nhân của
việc coi thường những giá trị đạo đức, đối lập hoàn toàn với tư tưởng trị nước của vua
Nghiêu, vua Thuấn.
Bước vào giai đoạn Tây Chu từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII trước công nguyên, nhà
Chu được coi là tồn tại lâu hơn so với nhà Ân. Công cụ lao động chuyển từ thời đại đồ
đồng sang công cụ bằng sắt đã xuất hiện, đưa lực lượng sản xuất lên trình độ cao hơn. Vào
thời kỳ này có rất nhiều những phát minh về khai thác, sử dụng đồ sắt đem lại những tiến
bộ mới trong việc cải tiến về công cụ và kỹ thuật sản xuất trong nông nghiệp.
Có thể nói, những phát minh này đã đánh dấu sự thay đổi vượt bậc của nền kinh tế
Trung Quốc, nếu như trước đây tư liệu sản xuất đều nằm trong sự quản lý của nhà Chu thì
giai đoạn này đã có sự thay đổi, đó là việc biến ruộng đất của công thành ruộng đất của tư
ngày càng nhiều dẫn đến sự tan rã của chế độ “tỉnh điền”. Về sau pháp luật đã có sự thay
đổi, đó là việc công nhận sự tồn tại của chế độ tư hữu ruộng đất. Việc thay thế công cụ
bằng đồng sang sử dụng công cụ bằng sắt lúc này càng trở nên phổ biến và sự mở rộng
quan hệ trao đổi sản phẩm lao động trong nền sản xuất thủ công nghiệp ngày càng trở nên
chuyên nghiệp hơn, rất nhiều ngành nghề đã được mở ra như nghề rèn, nghề mộc, nghề
đúc,…
Điều này đã tạo nên sự cách biệt giữa những người làm nông nghiệp ở vùng nông
thôn với những người làm nghề buôn bán ở khu vực thành thị, bắt đầu có sự phân hóa giữa

Trang 8


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

tầng lớp quý tộc với những người được coi là hèn mọn, tiểu nhân trong xã hội. Càng về sau
này thì các ngành sản xuất như thủ công nghiệp, thương nghiệp càng phát triển. Song song
với sự phát triển của các nghành nghề là sự xuất hiện của tầng lướp thương nhân có tài sản

khổng lồ và các thế lực trong xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế đã tại ra điều kiện thuận
lợi cho việc mở rộng quan hệ của tầng lớp thương nhân đã tác động không nhỏ vào nền
chính trị - xã hội đương thời.
Tuy nhiên, vào thời kỳ đó việc kinh doanh buôn bán của họ được xã hội coi trọng,
với quan điểm coi thường nghề nông, đề cao nghề buôn bán đã gây khó khăn rất lớn trong
việc phát triển kinh tế thời kỳ này. Tuy nhiên, sự phát triển của nghề buôn bán với tầng lớp
thương nhân giàu có đã tạo nên sự biến đổi về chính trị trong xã hội, đó là sự cạnh tranh
giành quyền lực của tầng lớp quý tộc mới với tầng lớp quý tộc cũ. Vì thế, sự biến đổi về
quan hệ trong xã hội đã làm nên sự thay đổi về chính trị - xã hội của đất nước Trung Quốc
thời kỳ bấy giờ. Mối quan hệ giữa nhà vua và các nước chư hầu đã có sự biến đổi và dần
trở nên xa lạ, trật tự lễ nghĩa bị đảo lộn. Bởi vậy, quyền lực của nhà vua không được xem
là tối cao, ý của vua không còn được coi là ý của trời như thời kỳ trước đây. Cho nên
những quyền lực trước đây của nhà Chu đối với các nước chư hầu cũng không còn, vì thế
uy tín của nhà vua cũng dần bị giảm sút, các nước chư hầu nhân cơ hội này đã tìm cách
khôi phục nhằm tôn tính những cuộc nội chiến triền miên và hạn hán xảy ra liên tiếp, nạn
đói tràn lan đã dẫn đến nhà Chu ngày càng trở nên suy tàn. Đây cũng chính là nguyên nhân
làm cho địa vị và quyền lợi của các tầng lớp, các giai cấp đã bị thay đổi.
Bước vào thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc (770 – 221 TCN), triều đại nhà Chu suy
tàn. Thời Xuân thu (770 – 476 TCN) việc sử dụng đất công không còn nữa, cho nên đã dẫn
đến tình trạng tầng lớp quý tộc ngày càng ra sức bóc lột nhân dân lao động, đẩy họ rơi vào
tình trang vô cùng khốn khó. Thêm vào đó là những cuộc chiến tranh xâm lược, dẫn đến
những cảnh chết chóc đau thương, các gia đình phải sống trong cảnh chia ly do chiến tranh
thường xuyên xảy ra. Nhân dân lao động nghèo đã khó khăn thì càng ngày trở nên khó
khăn bởi vì phải chịu cảnh thiên tai, dịch bệnh, hạn hán mất mùa thường xuyên. Trong khi
đó, tầng lớp quý tộc tham lam lại càng ra sức bóc lột bằng cách thu thuế nặng để đổ lên đầu
những người nông dân nghèo. Vào thời kỳ Xuân thu đã xảy ra rất nhiều cuộc chiến tranh
dành địa vị và thôn tính lẫn nhau giữa các nước. Đến cuối thời kỳ Xuân thu thì các quốc

Trang 9



GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

gia dần dần bị thu hẹp do các cuộc chiến tranh tạo nên thanh thế đã xuất hiện ngày càng
nhiều, một số quốc gia đã bắt đầu nổi lên bằng sự hùng mạnh của mình nhờ chính sách cai
trị “bá đạo”, sử dụng sức mạnh bạo lực để thực hiện chính sách cai trị. Trong đó, phải kể
đến một số nước như Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần còn gọi là “lục quốc”.
Chính vì những nguyên nhân trên, tầng lớp quý tộc nhà Chu đã vẻ lên một bức tranh
ảm đạm về cảnh chết chóc, đau khổ chia ly, ruộng đồng bị bỏ hoang. Không những thế, các
cuộc chiến tranh còn tạo ra sự đau khổ của hàng triệu người và nỗi ám ảnh của nhiều thế
hệ, đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của một số nước chư hầu, làm đảo lộn
trật tự lễ nghĩa vô cùng tôn nghiêm của nhà Chu, biến tất cả những lễ nghĩa tôn nghiêm
trước đây trở thành hình thức và không còn giá trị như trước nữa. Vì thế, đây là thời kỳ xã
hội đang rơi vào tình trạng loạn lạc thì không chỉ là lễ nghĩa, trật tự, cương thường bị đảo
lộn, đạo đức xã hội bị xuống cấp nghiêm trọng mà còn đẩy nhà Chu vào tình trạng dành
ngôi vị và điều này dẫn đến việc vị thế nhà Chu không còn nữa. Việc cống nạp của các
nước chư hầu đã bị phá bỏ, đây cũng được xem là một tổn thất lớn đối với nhà Chu vào
thời bấy giờ vì việc phải huy động một số lượng rất lớn người cống nạp đã chứng tỏ vị thế
nhà Chu. Cho đến thời điểm này thì cảnh chia ly không chỉ dừng lại trong gia đình mà đến
cả đất nước vì “ngũ luân” không còn được coi trọng như trước nữa. Khi nhận định về vấn
đề này Khổng Tử cho rằng biến đổi của trật tự lễ nghĩa nhà Chu đã diễn ra từ rất lâu chứ
không phải là mới bắt đầu.
Đối lập với bức tranh ảm đạm của những người mông dân nghèo trong xã hội là sự
xa hoa của tầng lớp quý tộc. Cùng với thiên tai thì những tệ nạn xã hội cũng bắt đầu phát
sinh, đẩy nông dân vào nỗi khổ cùng cực. Có thể xem đây chính là những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự ra đi của chế độ chiếm hữu nô lệ trong lịch sử đất nước Trung Quốc, đồng
thời những cuộc chiến tranh triền miên xảy ra đẩy đất nước Trung Quốc vào thời kỳ Chiến
quốc, diễn ra từ năm 475 trước công nguyên. Vào thời kỳ này trong xã hội từ nghề đồng
chuyển sang nghề sắt đã có sự phát triển rất cao, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển
nhanh. Nhiều trung tâm lớn đã làm cho kỹ thuật thủy lợi, canh tác và khai khẩn đất đai phát

triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển về nền kinh tế thì các cuộc chiến tranh cũng phát
triển không ngừng, khi nhận định về vấn đề này Mạnh Tử viết: “Đánh nhau dành đất, giết
người thây chết đầy đồng, đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành” (Tranh

Trang 10


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã. Tranh thành dĩ chiến, sát nhân doanh thành). Vì thế, đã dẫn
đến sự tan rã của chế độ công xã nông thôn ngày càng trở nên nhanh chóng hơn, chế độ
chiếm hữu tư nhân về ruộng đất trở thành quan hệ sở hữu thống trị đã tạo nên sự biến đổi
lớn. Trong đó chính sách thu thuế cũng có sự thay đổi, trước đây dựa vào sản lượng thì nay
lại thay bằng việc tính theo số lượng, đồng thời việc mua bán ruộng đất cũng trở nên dễ
dàng hơn, điều đó đã tạo cơ hội cho tầng lớp địa chủ giàu có thay nhau thâu tóm đất đai
vào tay mình, đẩy những người nông dân nghèo phải làm thuê kiếm sống. Do đó đã dẫn
đến thực tế là những người nông dân ngày càng rơi vào tình cảnh vô cùng nghèo khó,
không thể vươn lên được trong xã hội. Những mâu thuận xã hội trong lòng xã hội phong
kiến Trung Quốc vào thời kỳ này, chính là nguyên nhân làm cho đất nước không thể phát
triển được, đưa nền kinh tế ngày càng đi vào suy thoái và càng đẩy tầng lớp nhân dân lao
động trong xã hội vào tình trạng nghèo khổ, lạc hậu. Muốn đẩy lùi được thực trạng trên thì
điều quan trọng lúc này chính là đất nước cần có những chính sách cai trị đúng đắn, phù
hợp với tình hình của đất nước, nhằm khắc phục sự rối loạn xã hội vào thời điểm này.
Nhận thức được nguy cơ trật tự xã hội bị đảo lộn, cho nên gia cấp thống trị đã sử dụng một
số biện pháp như áp dụng “biến pháp” vào một số nước. Đồng thời, vào thời gian này trong
các quốc gia “lục quốc” thì nhà Tần được xem là hùng mạnh nhất vào năm 362 trước công
nguyên, do Tần Hiếu Công làm vua.
Nước Tần hùng mạnh không thể không nói đến những công lao mà Tần Hiếu Công
đã góp trong việc thực hiện khôi phục và phát triển nền kinh tế của đất nước. Chính vì việc
phát triển nền kinh tế có vai trò quan trọng trong cải thiện đời sống của một bộ phận không

nhỏ của tầng lớp nhân dân trong xã hội và để ổn định nền chính trị - xã hội thì nhà Trần đã
sử dụng pháp trị, cai trị đất nước bằng phát luật, thưởng thật hậu cho những người có công
và phạt thật nặng người vi phạm, nhờ phương pháo cai trị này mà nước Tần đã trỏ thành
quốc gia hùng mạnh nhất trong số “lục quốc”. Thời kỳ này, các quốc gia muốn tồn tại được
thì cần có chính sách cai trị và phương pháp riêng phù hợp. Nước Tần, người đứng đầu là
Tô Tần đã đưa ra nhiều chính sách như cách hợp những nước nhỏ tạo thành sức mạnh để
đánh được nước mạnh, với kế sách “liên hoành” này mà nước Tần đã được tôn lên làm
nước mạnh nhất để đánh bại những nước yếu hơn mình . Dưới thời Tần Doanh Chính
nước Tần là quốc gia đầu tiên đã thống nhất đất nước Trung Quốc, chấm dứt hoàn toàn

Trang 11


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

những cuộc chiến tranh liên miên trong lịch sử. Đây cũng chính là thời điểm một quốc gia
mới ra đời, đó là quốc gia phong kiến trung ương tập quyền vào năm 221 trước công
nguyên. Sự ra đời của quốc gia này được coi là một dấu son lịch sử vô cùng quan trọng về
chính trị - xã hội của đất nước Trung Quốc đương thời, một thời kỳ mới mở ra.
Khi đất nước thống nhất thì câu hỏi đặt ra cho những người cầm quyền là làm sao để
đất nước Trung Quốc ổn định về chính trị - xã hội và phát triển bền vững. Để đáp ứng yêu
cầu đó, nhà Tần đã thực hiện nhiều chính sánh vô cùng khắc nghiệt, như việc “chôn nho,
đốt sách” do đó các học thuyết đương thời bị cấm, chỉ giữ lại và được truyền bá những sách
về y học, chiêm tinh, nông học nhằm thống nhất về mặt tư tưởng và chính trị. Chính sách
của nhà Tần đã làm tổn thất rất lớn đối với đất nước Trung Quốc, vào thời kỳ này rất nhiều
tư tưởng có giá trị đã bị chôn vùi… Cùng với việc thống nhất về tư tưởng, nhà Tần đã gây
ra các cuộc chiến tranh nhằm mở rộng bờ cõi cửa mình và nhất nhiều nông dân đã ra đi mãi
mãi cùng với những chính sách tàn bạo và lối sống xa hoa của nhà Tần. Sự ra đời của
những chính sách đó làm cho máu và nước mắt của hàng triệu những người nông dân
nghèo đã đổ xuống, báo hiệu cho sự suy vong của nhà Tần mà đứng đầu là Tần Thủy

Hoàng. Chính sách hà khắc của nhà Tần đã tạo cơ hội cho những người nông dân đứng lên
đấu tranh giành độc lập tự do và giải phóng cho mình thoát khỏi kiếp trâu ngựa. Vào năm
206 trước Công nguyên, cuộc khởi nghĩa do Lưu Bang đứng đầu đã lật đổ nhà Tần, xây
dựng một nhà nước mới và đây chính là thời kỳ nhà Hán đã ra đời.
1.2. Những thành tựu văn hóa – khoa học là cơ sở hình thành tư tưởng trị nước
trong triết học Trung Quốc cổ đại.
Sự biến động của đất nước Trung Quốc không làm cho các lĩnh vực khác cửa đời
sống xã hội giảm sút, mà còn phát triển rất đa dạng và phong phú. Trong đó phải kể đến
một số lĩnh vực tiêu biểu như văn hóa, khoa học… có ý nghĩa rất lớn đối với đất nước vào
thời kỳ này, tạo tiền đề để hình thành tư tưởng trị nước trong triết học Trung Quốc cổ đại.
Những thành tựu trong khoa học như việc làm ra lịch của nhà Ân, đánh dấu sự phát triển
lớn của lịch sử Trung Quốc thời kỳ này. Đồng thời, với việc sáng tạo ra chữ viết cũng được
coi là có ý nghĩa lớn trong việc chinh phục thiên nhiên của con người, quan sát sự vận hành
của mặt trăng và các vì sao, tính được chu kỳ và tính chất của nước sông dâng lên, quy luật

Trang 12


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

sinh trưởng của cây trồng để tính Âm lịch. Ngoài ra họ còn tính được một năm có hai mùa
và mỗi tháng có 30 ngày như cách tính của chúng ta ngày nay. Có thể nói, phát minh trong
khoa học được coi là sớm nhất của đất nước Trung Quốc chính là làm ra lịch, đồng thời tri
thức về khoa học tự nhiên được xem là phát triển tương đối hoàn thiện vào thời kỳ này.
Cũng như một số quốc gia ở phương Đông, những phát minh khoa học của thời kỳ
cổ đại cũng chịu ảnh hưởng của tôn giáo. Vì thế, nền kinh tế có sự phát triển cao đặc biệt
về nông nghiệp, chăn nuôi và săn bắt. Trong thời kỳ này quan hệ sản xuất là chế độ gia
trưởng với trình độ thấp, điểm khác biệt của thời kỳ này đó chính là chưa có sụ phân biệt
về khái niệm sở hữu với tư liệu sản xuất và lao động. Có thể nói đây là thời kỳ xã hội
Trung Quốc đã có sự phân hóa sâu sắc giữa thành thị và nông thôn, sự phân chia này chính

là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhà nước dù là ở trình độ thấp kém. Những thành tựu rực
rỡ trong khoa học như việc làm ra lịch, việc phát minh ra chữ viết, tính được các ngày
trong một năm đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc khẳng định con người có
khả năng chinh phục thiên nhiên vào thời kỳ mà trình độ con người còn được xem là thấp
khi nhận thức về thế giới. Sự ra đời của những phát minh đã đánh dấu bước tiến vô cùng
quan trọng trong lịch sử đất nước Trung Quốc, xóa bỏ nhận thức trước đây của con người
còn vô cùng lạc hậu khi nhận thức về thiên nhiên.
Ngoài sự phát triển của khoa học, những thành tựu về văn hóa cũng có sự tác động
không nhỏ đối với những tư tưởng của các nhà triết học của Trung Quốc thời kỳ cổ đại.
Trong đó, đặc biệt phải kể đến sự xuất hiện của chữ viết, với hơn 3000 ký tự, gồm có chữ
tượng hình và tượng thanh xuất hiện trên vỏ sò và mai rùa, đây chính là một sự phát minh
vô cùng quan trọng của thời lỳ này. Đồng thời, trên đó còn có sự xuất hiện của những phần
ghi chép có liên quan đến việc bói toán tương lai. Trên cơ sở đó người ta đưa ra cách tính
thời tiết, mùa màng, thiên tai, lụ lụt… Những phát minh của của các nhà khoa học và thành
tựu về văn hóa vào thời kỳ cổ đại đã sự tác động không nhỏ đến tư tưởng triết học đương
thời.
Thời kỳ trước đây cũng đã có những tư tưởng về trị nước nhưng còn rất tản mạn,
chưa trở thành những học thuyết nhất định. Chỉ có một số tư tưởng thần quyền, đề cao tính
siêu nhiên của quyền trị nước; tư tưởng thiên ý, ý của vua chính là ý trời. Sự phong phú, đa

Trang 13


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

dạng của các hệ thống triết học thời Xuân thu – chiến quốc, khiến người ta phải gọi là thời
kỳ “Bách gia chư tử”, “trăm hoa đua nở, muôn chim cùng hót”. Đây được coi là thời kỳ ra
đời các học thuyết triết học nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc của thời đại đặt ra.
Với mục đích bình ổn xã hội, nhưng các học thuyết triết học lại đề ra những giải
quyết trị nước khác nhau. Có thể nói vấn đề trị nước là vấn đề cơ bản của mọi nhà nước.

Trị nước là hoạt động trung tâm của toàn bộ quá trình tổ chức và thực hiện những công
việc của đất nước. Vì thế, quan niệm trị nước cũng được hiểu theo những ý nghĩa rất khác
nhau. Ở Trung Quốc có hai đường lối trị nước cơ bản đó là đức trị và pháp trị. Xã hội
Trung Quốc cổ đại thì trong một chính thể quân chủ tuyệt đối, quyền lực nhà nước tập
trung trong tay nhà vua. Quyền lực của nhà vua luôn luôn được xem là quyền lực tối cao
nhất. Nhà vua trực tiếp ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và xét xử những
người vi phạm pháp luật. Cho nên về mặt ý thức, trong tư tưởng của những nhà triết học
chư thể có quan niệm trị nước theo nghĩa hẹp như chúng ta hiểu ngày nay. Chính vì vậy, tư
tưởng trị nước trong triết học Trung Quốc cổ đại được hiểu theo nghĩa rộng nghĩa là chỉ
hoạt động tổ chức thực hiện quyền lực của nhà nước nói chung. Có thể xem quyền lực của
nhà nước luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với một quốc gia và không thể thiếu
trong việc ổn định nền chính trị - xã hội của chính quốc gia ấy.
Vì thế, khi coi chính trị là việc lớn lao của đạo làm người quân tử thì triết học Trung
Quốc cũng đồng thời coi việc trị nước là công việc cơ bản của đời sống xã hội, bởi vì trị
nước là lĩnh vực thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà triết học Trung Quốc cổ
đại. Điều đó, khiến cho nhiều người cảm thấy rằng không có dân tộc nào xem chính trị
quan trọng như dân tộc Trung Hoa. Bởi vì với họ, việc trị dân , trị nước phải là sứ mệnh
của kẻ sĩ, mà nếu không gặp thời, bất đắc dĩ phải “độc thiên” thì kẻ sĩ ít nhất cũng phải
truyền cái đạo của tiên vương, tiên thánh cho đoàn hậu sinh.
Có thể nói, các nhà triết học Trung Quốc cổ đại dù ở những mức độ khác nhau, đều
bàn đến vấn đề trị nước. Vì thế, nó đã được rất nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu,
ngay cả nhà tư tưởng thuộc trường phái triết học Danh gia như Công Tôn Long mặc dù đã
đưa ra những lý thuyết phù phiếm như “bạch mã phi mã”, nhưng cũng không thể bỏ qua
vấn đề trị nước. Trường phái Danh gia, mặc dù bàn về những lý thuyết khiến người ta

Trang 14


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu


tưởng chừng thuần túy như luân lý học, nhưng cuối cùng lại hướng đến việc trị nước muốn
đạt được hiệu quả phải dựa trên trên sự chính sách.
Triết học Trung Quốc cổ đại coi vấn đề trị nước như một chủ đề chính của mình, vì
thế đây là điểm đặc thù của thời kỳ này. Ngoài ra vấn đề trị nước còn được xem như một
công việc trong quá trình hoàn thiện con người. Tuy nhiên, trong việc trị nước thì các nhà
triết học Trung Quốc cổ đại đã đề cập đến rất nhiều vấn đề như : tư tưởng trị nước đã xuất
hiện như thế nào, vì lợi ích của ai và do ai thực hiện; trị nước bằng đạo đức hay bằng pháp
luật, hay là cần sự kết hợp của cả hai ; nhà quản lý tức là bậc cầm quyền cần phải có những
tiêu chuẩn gì để xứng đáng là người trị nước, ngoài ra có những nghệ thuật gì mà bậc cầm
quyền có thể sử dụng trong việc trị nước…
II. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA
KHỔNG TỬ VÀ TRƯỜNG PHÁI NHO GIA TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
CỔ ĐẠI
Sự ra đời của nhà Chu bắt đầu từ thế lỷ thứ VIII trước công nguyên khi xã hội đang
có rất nhiều biến động to lớn, đánh dấu sự phát triển quan trọng của đất nước Trung Quốc
vào lúc bấy giờ, gọi là thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của
nền phát triển kinh tế, trong xã hội Trung Quốc lúc này có sự tan rã của chế độ chiếm hữu
nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên. Xã hội Trung Quốc vào thời kỳ này trở nên hết
sức rối ren, chiến tranh, thiên tai, lũ lụt… thường xuyên xảy ra, một bên là sự khốn cùng
của tầng lớp lao động nghèo với một bên là sự giàu có của tầng lớp tư sản, phong hầu kiến
địa. Nhân dân thường xuyên phải sống trong cảnh đói rét, khổ đau. Trong khi đó, thế lực
cầm quyền luôn tìm mọi cách để gây thanh thế, cho nên thường xuyên diễn ra các cuộc
chiến tranh.
Dường như trong tiếng kêu than của tầng lớp nhân dân lao động nghèo đó đã tiếp
thêm sức mạnh cho rất nhiều nhà tư tưởng cùng với những học thuyết của mình ra đời với
mong muốn sẽ đưa họ thoát khỏi kiếp trâu ngựa, xây dựng một đất nước thái bình thịnh trị
như mong muốn, khát khao cháy bỏng của rất nhiều người. Bên cạnh sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, đặc biệt là lĩnh vực thiên văn học và y học trở thành tiền đề cho sự phát
triển mạnh mẽ của các tư tưởng ở thời kỳ này. Với những quan điểm trị nước có những nội


Trang 15


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

dung không đồng nhất, mỗi quan điểm, học thuyết đều đưa ra cách giải thích riêng để bảo
vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, người ta gọi đây là thời kỳ “bách gia tranh mình”,
trăm nhà đưa tiếng, đồng thời sự phong phú và đa dạng của các tư tưởng thời kỳ này khi
tìm cách bảo vệ quan điểm của mình đã làm cho hệ thống triết học ngày càng trở nên hoàn
chỉnh hơn. Có những quan điểm khác nhau như thế nên đã dẫn đến sự phân chia thành các
trường phái triết học khi giải thích các quan điểm của mình, trong các trường phái đó tiêu
biểu phải kể đến đó chính là Nho gia, Pháp gia, Đạo gia…
Tư tưởng của trường phái Nho gia với một số nhà triết học tiêu biểu như Khổng Tử,
Mạnh Tử, Tuân Tử… Trong đó, Khổng Tử là người sáng lập, ông cho rằng cai trị xã hội
bằng pháp luật thì dân sợ nhưng không phục, Khổng Tử (551 – 479 tr.CN), họ Khổng tên
Khâu, tự Trọng Ni nguyên quán ở làng Xương Bình, nước Lỗ đời Chu. Nay là huyện Khúc
Phụ, tỉnh Sơn Đông. Cha tên là Lương Khúc Ngột, là một người anh dũng nhưng bị mất
sớm khi Khổng Tử mới lên ba tuổi. Mẹ tên là Nhan Thị, khi cha mất đi chẳng bao lâu thì
mẹ cũng qua đời, ông trở thành đứa con mồ côi cả cha lẫn mẹ và sống trong một gia đình
nghèo khó, nhưng Khổng Tử lại là một người có tướng mạo khác thường, rất hiếu học, trở
thành người nổi tiếng, có trí tuệ uyên thâm từ khi ông mới bước sang tuổi ba mươi. Khổng
Tử là người đầu tiên mở trường học và ông cũng là người có rất nhiều học trò theo học.
Ông sống vào thời kỳ mà chế độ tông pháp nhà Chu sắp bị băng hoại, suy tàn bởi các nước
chư hầu phản tranh từ thời Xuân thu cho đến khi chuyển sang thời kỳ Chiến quốc. Thời đại
của ông chính là thời đại “vương đạo suy vi”, trật tự lễ nghĩa của nhà Chu bị đảo lộn. Là
người có trí tuệ uyên bác, Khổng Tử chủ trương lập lại trật tự lễ nghĩa của nhà Chu, theo
cách của mình để phù hợp với tình hình chính trị - xã hội lúc bấy giờ. Khi ông mở trường
dạy học thì ông luôn khát khao được thực hiện lý tưởng chính trị của mình, ông đi nhiều
nơi và mong muốn tìm được vị vua nào đó thực hiện lý tưởng của mình, Khổng Tử bằng
nhiều cách đã tìm cách tuyên truyền lý tưởng của mình chẳng hạn như tranh luận với các

trường phái khác. Khổng Tử luôn khát khao mang lại hòa bình thịnh trị, đặc biệt khi sống
trong thời kỳ đất nước đang bị rối loạn,trật tự lễ nghĩa bị đảo lộn, ông chủ trương lập lại
trật tự lễ nghĩa của nhà Chu và ông đã xây dựng nên học thuyết Chính danh.
Ngoài ra, những quan điểm của Khổng Tử đã tác động không nhỏ và trở thành tiền
đề quan trọng cho các thế hệ học trò về sau kế thừa phát triển. Trong những nhà triết học

Trang 16


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

đó có Mạnh Tử, hay còn gọi là Mạnh Kha (371 – 289 tr.CN), tên là Tử Dư, là người đất
Trâu, thuộc miền nam tỉnh Sơn Đông ngày nay, là học trò của Tử Tư có tên là Khổng Cấp,
cháu nội của Khổng Tử, Tử Tư là học trò của Tăng Tử hay còn gọi là Tăng Sâm. Mạnh tử
là triết gia lớn thời kỳ này, ông là người có công rất lớn trong việc bảo vệ phát triển những
quan điểm của Khổng Tử và đưa ra những quan điểm hoàn toàn mới để bổ sung cho trường
phái triết học Nho gia, điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với thời kỳ này. Ông sống
vào thời kỳ mà những tư tưởng “mọc lên như nấm sau mưa”. Chính vì vậy, để hoàn thiện
và phát triển những tư tưởng bậc thầy của mình là Khổng Tử và hy vọng những học thuyết
của mình sẽ được tầng lớp thống trị tin dùng Mạnh Tử đã đi chu du khắp nơi với mong
muốn truyền bá được những tư tưởng của mình để giúp ích cho đời. Với khát khao cháy
bỏng ấy trong suốt cuộc đời, ông đã đến rất nhiều nước như Tề, Lương, Sở, Ngụy, Tần…
nhưng học thuyết của ông đều không được trọng dụng. Bởi vì nguyên nhân chính là những
quốc gia này đã sử dụng những học thuyết của những nhà tư tưởng trước đó rất thành công
và ngày càng lớn mạnh. Cho nên, những điều Mạnh Tử mang đi diễn thuyết trở nên xa lạ,
không có sức thuyết phục đối với họ. Trong đó, nước Tần lớn mạnh chính là nhờ việc dùng
Thương Quân, còn các quốc gia khác như Sở, Ngụy thì thường xuyên đánh thắng địch nhờ
việc dùng Ngô Khởi… Vì vậy, các nước thường xuyên sử dụng một số kế sách như hợp
tung, liên hoành để đối phó với nhau. Cho nên những tâm nguyện của ông không trở thành
hiện thực, ông trở lại chuyên tâm vào con đường dạy học và nghiên cứu kinh sách như

Kinh Thi, Kinh Thư, đồng thời ông đã ghi chép và tổng hợp thành bộ sách có tên gọi là
Mạnh Tử. Cuốn sách này đời sau đã đánh giá là tác phẩm kinh điển của trườn phái triết học
Nho gia.
Có thể nói, những đóng góp của Mạnh Tử đối với triết học Nho gia còn phải kể đến
đó là công việc ông đã đấu tranh để chống lại những quan điểm của những trường phái triết
học khác nhau vào thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc. Để kế thừa và phát triển những tư tưởng
của Khổng Tử, ông đã cho ra đời hệ thống triết học duy tâm chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư
tưởng như “Thiên mệnh”, “sinh nhi tri chi”, ”nội tỉnh”, “chính tâm thành ý” của triết học
Khổng Tử và Tử Tư, Tăng Sâm với danh nghĩa bảo vệ Nho giáo, đồng thời Mạnh Tử đã
phát triển những tư tưởng này lên đến đỉnh cao. Tuy nhiên, những tư tưởng của Mạnh Tử
lại dựa trên lập trường, tư tưởng của giai cấp quý tộc chủ nô đang sắp chuyển hóa thành

Trang 17


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

giai cấp địa chủ phong kiến nên những tư tưởng của ông trở nên bảo thủ và không phù hợp
với thời kỳ lịch sử lúc bấy giờ. Vào cuối thời kỳ Xuân thu những cuộc đấu tranh giai cấp
ngày càng gay gắt hơn, những mâu thuận xã hội càng trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết.
Tầng lớp quý tộc mới ở thời kỳ này ngày càng phô trương thanh thế của mình, trong khi đó
tầng lớp quý tộc cũ thì ngày càng mất dần vị thế thống lĩnh. Đây cũng chính là nguyên
nhân chính làm cho những tư tưởng của các nhà triết học có sự chuyển biến rõ nét và có
những quan điểm khác nhau, Mạnh Tử khi quan niệm về thế giới, ông lại cho rằng trời là
đấng anh minh tối cao, sáng tạo và chi phối vạn vật trong vũ trụ. Chính điều này để ổn định
nền chính trị - xã hội của đất nước, Mạnh Tử đề cao mệnh trời và cho ra đời học thuyết
“Nhân chính”, nhằm đem lại bình yên cho nhân dân mà không cần sử dụng vũ lực.
Cùng quan điểm của các nhà triết học thuộc trương phái Nho gia, thì học thuyết bản
tính ác của con người mà Tuân Tử và Hàn phi là tiền đề lý luận của chủ trương Pháp trị của
trường phái Pháp gia. Tuân Tử họ Tuân tên thường gọi là Huống, tên tự là Khanh người

đời còn gọi là Tôn Khanh, ông sinh khoảng năm 313 và mất năm 238 trước công nguyên.
Tuân Tử là người nước Triệu, thuộc phía nam tỉnh Hà Bắc và Sơn Tây ngày nay. Những
năm trước 40 tuổi, ông thường chuyên tâm vào việc trau dồi học vấn. Đến năm 50 tuổi,
Tuân Tử dành phần lớn thời gian của mình để đi chu du tới các nước. Trong đó, ông đến
nước Tề và được xem là bậc thầy già nhất, ở đây ông đã được tôn kính gọi là “Liệt đại
phu” và ông đã ba lần làm tế tửu, một danh hiệu vinh dự trong buổi tiệc “quốc yến” vào
khoảng năm 265 – 260 tr.CN, nhưng ông cũng không được trọng dụng. Rồi vài năm sau
đó, Tuân Tử đã đến nước Tần diện kiến Tần Chiêu Vương vào khoảng năm 260 – 255
tr.CN và gặp tể tướng Phạm Tuy. Đây chính là giai đoạn mà nước Tần được xem là một
cường quốc, nhờ vào thế mạnh của mình để đe dọa các nước chư hầu. Khi được tể tướng
của nước Tần hỏi về những suy nghĩ của mình đối với nước này thì ông đã thẳng thắn ca
ngợi là đây là nước có nhiều tập tục tốt như cảnh núi non thì hùng vĩ, quan lại thì hết lòng
vì dân… Tuy nhiên, trước mặt tể tướng của nước Tần ông lại không tiếc lời phê bình nước
Tần còn khiếm khuyết về đạo Nho, Tho quan điểm của ông thiếu đạo Nho chính là việc
thiếu lễ nghĩa, đó chính là linh hồn của một quốc gia. Có thể nói, Tuân Tử đã khen điều
hay và che điều khiếm khuyết của nước Tần một cách hết sức thẳng thắn, không sợ mất
lòng và rất nghiêm túc mà như người ta nói thì đúng như cách phân biệt phải , trái của

Trang 18


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

người Nho học. Cũng chính vì thế, nên ông đã không có dịp may thi thố tài đức của mình
và để thực hiện được lý tưởng chính trị của mình, phải quay về quê hương. Từ nước Tần
ông lại về nước Triệu diện kiến Triệu Hiếu Thành Vương, ở đây Tuân Tử đã từng biện luận
về phép dụng binh với Lâm Vũ trước mặt Triệu Hiếu Thành Vương, Lâm Vũ Quân lại dựa
vào nguyên tắc “xuất kỳ bất ý, công kỳ bất dị” của binh pháp Tôn Tử và cho rằng kẻ dùng
binh giỏi bao giờ cũng “quyền mưa thế lợi” và “công đoạt biến trá” nghĩa là không từ bỏ
bất cứ thủ đoạn gian trá nào. Ngược lại, với quan điểm của nhà triết học Tuân Tử, ông lại

cho rằng kẻ giỏi về quân sự là phải biết “thiện phụ dân”, nghĩa là cần phải biết dựa vào sức
mạnh của dân một cách hiệu quả. Theo Tuân Tử, người thành công chính là người biết dựa
vào sức mạnh của dân không thể nắm chắc phần thắng, đặc biệt là khi đất nước có chiến
tranh xảy ra điều này lại càng trở nên vô cùng quan trọng. Ông cho rằng “thiện phụ dân”
chính là sức mạnh của người cầm quyền, người điều binh khiển tướng. Tuy nhiên, những
tư tưởng của ông cũng không được trọng dụng ngay trên mảnh đất quê hương của mình,
nên ông đã sang Sở vào khoảng năm 250 Tr.CN, tại đây ông đã dược vị tướng là Xuân
Thân Quân bổ nhiệm làm huyện lệnh và sinh sống ở đây đến cuối đời mà không trở về quê
hương nữa.
Sau hai nhà triết học lớn Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử được xem là nhà triết học
thuộc trường phái Nho gia lớn vào cuối thời kỳ Chiến quốc. Có thể nói, đây chính là thời
kỳ có rất nhiều nhà tư tưởng với rất nhiều nhà học thuyết khác nhau như Nho gia, Đạo gia,
Mạc gia… Vì thế, đây là thời kỳ có nhiều học thuyết phát triển và nở rộ, mỗi học thuyết
đều có thế giới quan và nhân sinh khác nhau, kế thừa và đối lập với nhau. Trong những nhà
tư tưởng ấy, Tuân Tử là người đã dựa trên quan điểm của mình đó chính là thế giới duy vật
và lập trường lý luận của mình để chống lại những quan điểm của các trương phái triết học
khác như quan điểm về “đạo” của Lão – Trang rồi học thuyết về “tính thiện” của Mạnh
Tử…. Những quan điểm của Tuân Tử thực sự có ý nghĩa rất lớn với thời kỳ bấy giờ và
điều đó đã làm cho các nhà tư tưởng thời kỳ đó không thể phủ nhận trình độ nhận thức vô
cùng uyên bác của ông. Quá trình nghiên cứu những tư tưởng triết học của Khổng Tử có
thể cho thấy ông có sự kế thừa rất lớn trong những quan điểm triết học của Khổng Tử như
việc đề cao nhân, nghĩa, lễ, nhạc, ông chủ trương “chủ nghĩa chính danh”, trọng vương
khinh bá; nhưng quan điểm của ông cũng có phần đối lập với tư tưởng của Khổng Tử và

Trang 19


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

Mạnh Tử không chỉ về thế giới quan mà còn cả về triết học chính trị - xã hội, ngoài ra,

những tư tưởng của ông về vương chế, pháp hành, chính danh, quân đạo….trở thành tiền
đề lý luận của triết học Pháp gia về sau.
Chương 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH DANH CỦA KHỔNG TỬ VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆC TUYỂN CHỌN CÔNG CHỨC VIỆT NAM HIỆN NAY
I. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA KHỔNG TỬ TRONG TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Trong quan điểm của trường phái triết học Nho gia, phương pháp nhân trị hay còn
gọi là đức trị được đặt lên hàng đầu, trường phái này cho rằng muốn trị nước thì cần phải
nắm lấy nhân nghĩa làm tiêu chuẩn để giáo hóa dân. Người sáng lập ra trường phái triết học
Nho gia là Khổng Tử, ông đặc biệt tin vào mệnh trời và đưa ra quan điểm cho rằng “sống
chết có mệnh giàu sang tại trời”. Cho nên, ông đã lý giải rằng việc phân xử đúng sai đều là
do trời quyết định, đó là một cách phân xử công bằng nhất. chính vì vậy theo quan niệm
sống của các nước phương đông đều ảnh hưởng, tin tưởng và tuân theo ý chí của trời, đây
cũng chính là cách làm cho con người hoàn thiện hơn và đó là cách để phân biệt người
quân tử với kẻ tiểu nhân.
Mặt khác do lối suy nghĩ giữa trời và dân, vua và tôi vào thời kỳ cổ đại đã tạo ra
những mâu thuẫn và là nguyên nhân làm cho các cuộc đấu tranh của các trường phái triết
học bắt đầu nổ ra. Tuy nhiên Khổng Tử lại cho rằng vạn vật đều có cùng một nguồn gốc,
cái phức tạp biến sinh từ cái giản dị. Vì vậy theo ông sự đảo lộn của trật tự xã hội, không
phải xuất phát từ ngày một ngày hai mà nó xuất phát từ việc sa sút của thế lực cầm quyền,
cho nên từ đó hình thành quan niệm chính danh ra đời để xây dựng đất nước.
Chính danh là một phạm trù triết học Trung Quốc, ngoài ý nghĩa về phương diện
chính trị, xã hội còn có ý nghĩa về phương diện luân lý đạo đức và nhận thức, có ảnh
hưởng khá sâu sắc trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa. Theo các nhà tư tưởng Trung Quốc
cổ đại, mỗi người, mỗi vật sinh ra đều có một khả năng, một công dụng nhất định, gọi là
thực; ứng với mỗi khả năng, công dụng đó mỗi người mỗi vật đều có một tên gọi nhất định,

Trang 20



GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

gọi là danh . Chính danh là thực nào thì hợp với danh đó, và danh nào là để chỉ thực đó.
Danh và thực (phận) hợp nhau là chính danh; danh và thực (phận) không hợp nhau là
không chính danh, là loạn danh. Cho nên trong Luận ngữ, thiên Nhan Uyên khi Quý
Khương Tử hỏi Khổng Tử về việc chính trị, Khổng Tử đáp rằng: “Chữ chính (cai trị) do
chữ chính (ngay thẳng, đúng đắn) mà ra. Cai trị tức là làm cho dân trở nên ngay thẳng,
đúng đắn. Nay đại phu là bậc dẫn đầu trong dân chúng mà tự mình ngay thẳng, chính đáng,
thì ai dám không chính đáng?” Trong thiên Chính danh, Tuân Tử cũng đã nói: “ Danh dĩ cử
thực”. Xã hội Trung Hoa, thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc, nhiều tư tưởng học thuật đối chọi
nhau, xã hội hỗn loạn, theo các nhà triết học, là do loạn danh thực vậy.
Thuyết Chính danh được đề xướng đầu tiên trong tác phẩm Luận ngữ và Xuân thu
của Khổng Tử. Khổng Tử sở dĩ chủ trương chính danh là vì: 1. Trật tự xã hội thời kỳ Xuân
thu – Chiến quốc đảo lộn, đây là giai đoạn tan rã của chế độ tông pháp nhà Chu, chế độ
phong kiến sơ kỳ đang hình thành, xã hội phân quyền loạn lạc; 2. Lễ nhạc băng hoại; 3.
Đạo đức, luân lý và trật tự lễ nghĩa suy đồi, nhưng những chuẩn mực luân lý đạo đức và
trật tự lễ nghĩa của xã hội mới còn đang manh nha, thiên hạ vô đạo khiến Tề Cảnh Công
phải than rằng: “Quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử; tuy hữu túc, ngô đắc
nhi thực chư – Nghĩ như vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra
con, dẫu ta có lúa đầy kho, có chắc ngồi yên mà ăn được chăng? ” . Vì vậy, Khổng Tử đã
đề xuất chủ trương chính danh nhằm khôi phục lại trật tự lễ nghĩa và thể chế chính trị xã
hội của nhà Chu, có thêm bớt, do xã hội, thời cuộc đã có sự biến chuyển.Tư tưởng Chính
danh, sau đó được phát triển khá sâu sắc, đặc biệt là về mặt nhận thức luận và lôgíc học
ngoài ý nghĩa chính trị, xã hội qua tư tưởng của Tuân Tử, trong thiên Chính danh, và các
Danh gia, Biện giả và cả trong thuật trị nước của Pháp gia, Hàn Phi Tử. Ý nghĩa chính trị,
xã hội của Chính danh: Khổng Tử, trong Luận ngữ, thiên Tử Lộ, viết: “Ông Tử Lộ hỏi
rằng: “Nếu vua nước Vệ đợi thầy về giúp ngài cai trị, thầy làm gì trước tiên?”. Khổng Tử
đáp: “Ắt phải chính danh đã”. Tử Lộ lại hỏi: “Có vậy sao? Thầy nói vu khoát vậy (viển
vông, không thực tế), lẽ gì chỉ sửa cho ngay thẳng, đúng đắn mà có thể trị được thôi sao?

Khổng Tử lý giải: “Trò Do quê mùa lắm thay! Người quân tử hễ điều gì chẳng biết thì bỏ
qua mà chẳng nói. Này, danh mà bất chính thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận, thì
công việc chẳng thành; công việc chẳng thành thì lễ tiết và âm nhạc chẳng hưng thịnh; nếu

Trang 21


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

lễ tiết và âm nhạc chẳng thịnh vượng thì hình phạt chẳng đúng phép; hình phạt chẳng đúng
phép thì dân không biết chỗ nào mà đặt tay chân”. Vì thế, Khổng Tử đã giải thích chữ
chính trong việc chính trị rằng: “Chữ chính” (sự cai trị) là làm mọi việc cho ngay thẳng
đúng đắn. Cho nên, người cầm quyền biết sửa mình và giữ mình theo đạo đúng đắn, ngay
thẳng để làm gương cho dân chúng noi theo thì việc trị nước an dân sẽ được thịnh trị. Theo
Khổng Tử, sự loạn danh cũng như một kiểu cốc uống rượu, gọi là cô thông dụng thời bấy
giờ, nhưng nó không còn đúng là nó nữa mà người ta vẫn gọi là cô vậy. Trong Luận ngữ,
thiên Ung dã, ông viết: “Cái cô mà không góc cạnh thì sao gọi là cái cô? Sao gọi là cái
cô?”.Quý Khang Tử lo lắng buồn rầu vì ở nước Lỗ có rất nhiều kẻ trộm, bèn đến hỏi
Khổng Tử về cách trị, Khổng Tử trả lời rằng: “Nếu ngài không tham dục, dù ngài có
thưởng tiền xúi họ trộm cắp thì họ cũng không làm”. Quý Khang Tử hỏi Khổng Tử về cách
trị, rằng: “Nếu như giết kẻ vô đạo, để trở lại có đạo, thì sao? Khổng Tử nói: “Ngài làm
chính sự, đâu cần dùng đến việc chém giết? Ngài muốn thiện thì dân sẽ theo thiện. Cái đức
của người quân tử như gió, cái đức của kẻ tiểu nhân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống”.
Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã khái quát và phân chia các mối quan hệ xã hội ra thành
những mối quan hệ, trật tự, thứ bậc (luân) nhất định, gồm: quan hệ vua tôi, quan hệ cha
con, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh em và quan hệ bạn bè. Theo quan điểm Chính danh,
những mối quan hệ đó đều quy định bởi những chuẩn mực, giá trị đạo đức nhất định, để
đảm bảo người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, trên dưới, phải trái phân
minh, trong đó: vua phải huệ, tôi phải trung; cha phải từ,con phải hiếu; chồng phải tình
nghĩa, vợ phải thuận thảo; anh phải lương, em phải kính đễ; bạn bè phải tín nghĩa. Trong

các mối quan hệ đó, Khổng Tử đặc biệt chú ý hai mối quan hệ chính là vua tôi, cha con; và
từ hai mối quan hệ này, ông đã giải quyết nhiều vấn đề chính trị - xã hội mà thời đại ông
đặt ra. Thi Tử (cùng thời Thương Ưởng) trong phần Phân (sự phân biệt) viết: “Sự trị dân
của bậc minh chủ, việc làm ít mà công lao, sự nghiệp nhiều, thân yên vui, an nhàn mà nước
bình trị, nói ít mà mệnh lệnh thi hành thông suốt; là chính danh vậy. Bậc quân nhân ví nếu
có thể chính danh, thì kẻ ngu dốt và người thông minh trí tuệ đều tận tình hết mình, nắm
giữ cái duy nhất dùng sự tĩnh tại, mà thanh danh, danh tiếng hay lệnh danh tự chính đáng,
ngay thẳng, mệnh lệnh việc làm tự định, việc thưởng phạt tùy thuộc, căn cứ vào danh, thì
dân không ai không kính trọng”. Quản Tử, trong Quân thần hạ, viết: “Có sự loạn trong

Trang 22


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

cung thất, có sự loạn trong anh em, có sự loạn của đại thần, có sự loạn của trung dân, có sự
loạn của kẻ tiểu nhân, năm điều đó cùng xảy ra thì là điều nguy hại cho kẻ bên trên vậy…
Cho nên sự chính danh phải xem xét nghi hoặc, thì bên trong sẽ định vậy”. Trong tác phẩm
Lã thị xuân thu, thiên Chính danh, cũng đã nói: “Danh chính thì trị, danh mất thì loạn. Kẻ
làm cho mất danh, là kẻ nói, chủ trương quá mức. Nói, chủ trương quá mức độ, tức là biến
cái có thể, cho phép thành cái không có thể, không cho phép, nên cái phải biến thành cái
không phải; biến cái đúng thành cái không đúng nên cái sai thành không sai. Cho nên lời
nói, chủ trương của người quân tử, đủ để nói thành thực về người hiền tài, không nói quá
sự thực về những cái giống nhau mà thôi; đủ để giải thích cho rõ chỗ sai lầm của trị và
nguyên do của loạn mà thôi; đủ để biết cái tình của sự vật, chỗ con người giành được để
sinh tồn mà thôi. Phàm mọi sự loạn, là do hình danh không đúng vậy”. Xuân thu phồn lộ,
thiên Ngọc anh, viết: “Bắt đầu của việc trị nước là ở chính danh”. Lưu Dực (thời Hán –
Ngụy), trong Chính danh cũng viết: “Phàm danh không ngay thẳng, chính đáng thì mọi
việc sẽ sai lầm; vật mà không có sự tiết chế, thì công dụng của nó sẽ quá mức. Sai lầm thì
sẽ không biết được thực chất của nó, quá mức đó tất sẽ không ngăn cấm được sự sai trái

của nó. Cho nên bậc vương giả tất phải chính danh để giám sát cái thực của nó, chế tài vật
để chấm dứt sự sai trái của nó”.
Ý nghĩa nhận thức luận của chính danh: Khi nói về công dụng và mục đích của
việc chế định danh, sách Tuân Tử, thiên Chính danh viết: “Hình dạng khác nhau, lòng
người phân ly nhau, sự hiểu biết lẫn lộn, vạn vật tuy khác nhau nhưng tất cả thật sự ràng
buộc lẫn nhau, quý tiện không rõ ràng, giống nhau và khác nhau không phân biệt, như vậy
thì chí tất có sự không hiểu biết rõ, không khỏi lo nghĩ mà mọi việc tất gặp họa khốn phế.
Cho nên bậc trí giả để phân biệt đã chế ra danh để chỉ thực (danh dĩ cử thực); trên để làm
rõ quý tiện, dưới để phân biệt đồng dị. Quý tiện đã rõ ràng, đồng dị đã phân biệt, thì chí
không còn lo nghĩ không hiểu biết, việc làm sẽ không còn họa khốn phế, bởi thế mới có
danh”.Vẫn trong thiên Chính danh, Tuân Tử nói: “Như vậy làm sao phân biệt được đồng
và dị? Trả lời: Do thiên quan. Phàm đồng loại thì đồng tình, do đó sự nhận biết của thiên
quan sự vật được so sánh và một số sự vật được thấy là giống nhau thì chúng được gán
chung một danh như một quy ước để sau cái danh đó thì hiểu nó chỉ vào vật gì… Tâm có
trưng tri. Có năng lực trưng tri thì có thể do tai mà biết được tiếng, có thể do mắt mà biết

Trang 23


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

được hình. Tuy nhiên cái năng lực trưng tri đó tất phải nhờ có thiên quan ghi nhận loại sự
vật rồi sau mới biết được. Ngũ quan ghi lại các sự vật mà không biết, tâm trưng tập mà
không diễn tả được, như vậy người ta không có gì gọi là không biết. Nguyên do vì thế mà
có sự phân biệt đồng dị vậy”.Nói về điểm quan trọng của việc chế danh, trong thiên Chính
danh, Tuân Tử nói: “Rồi sau đó tùy theo mà đặt tên. Vật giống nhau thì có tên giống nhau,
vật khác nhau thì có tên khác nhau; tùy theo đó mà đặt tên; một cái đơn mà đủ hiểu rõ thì
đặt đơn, đơn không đủ hiểu thì đặt kiêm. Cái đơn và cái kiêm (gồm) tránh được nhau thì
đặt cộng. Tuy cộng mà không hai vậy. Biết cái thực khác nhau ắt phải đặt cái danh khác
nhau, không thể loạn được. Cũng như khiến cho mọi cái thực giống nhau đều có cái danh

giống nhau vậy. Cho nên vạn vật tuy nhiều, lúc muốn chỉ sự vật bao gồm thì gọi là “vật”;
vật là một “đại công danh” (danh chung) vậy. Suy rộng ra để cộng thêm, cộng rồi lại cộng
thêm nữa cho đến không cộng được nữa mới thôi. Khi muốn riêng chỉ về một loại như gọi
là “điểu thú”; điểu thú là một “đại biệt danh = danh riêng biệt nhất” vậy. Suy rộng ra mà
phân biệt cho đến lúc không còn phân biệt nữa mới thôi. Danh vốn không có sự đúng sẵn,
ta dùng quy ước mà đặt ra. Sự quy ước lệ ấy đã định, đã quen, thì gọi là đúng. Khác với cái
quy ước ấy ắt gọi là không đúng. Cái danh vốn có cái thực sẵn, ta lập ra quy ước mà đặt ra
thực. Cái quy ước đã định, đã quen thì gọi là thực danh. Danh vốn là cái rất hay, vì chúng
gọn gàng, trỏ ngay vào sự vật, dễ hiểu mà không gây lầm lẫn gọi là thiện danh… Đó là
điểm then chốt nhất của việc chế danh”. Phương tiện để thực hiện chính danh: Chính danh,
thực chất là khôi phục lại và duy trì trật tự lễ nghĩa, đẳng cấp danh phận xã hội, do đó để
thực hiện chính danh, Khổng Tử đã đề cao lễ, coi lễ là phương tiện để thực hiện chính
danh. Lễ ở Khổng Tử đó là lễ tiết nhà Chu, nhưng do sự biến chuyển của thời cuộc, nó đã
được chế định, thêm bớt.Trong Luận ngữ, thiên Bát dật, tiết 14, Khổng Tử nói: “Triều đại
nhà Chu soi xét hai triều đại đã qua mà chế định lễ tiết, nhờ vậy lễ trở nên rực rỡ biết bao!
Vậy ta theo lễ nhà Chu”, “nhà Ân nối nhà Hạ nương theo lễ nhà Hạ, nhưng có thêm bớt;
những chỗ thêm bớt ấy ta có thể dò theo sử mà biết vậy. Sau này có triều đại nào nối tiếp
nhà Chu, cũng nương theo nhà Chu, nhưng có thêm bớt”. Lễ vốn là việc kính quỷ thần cầu
phúc, là sự thuận theo trật tự của tự nhiên áp dụng vào trật tự xã hội. “Lễ là do các tiên
vương thuận theo đạo trời đất, lấy làm tình cảm để trị dân” (Lễ ký, thiên Lễ vận). “Nhạc là
hòa cùng trời đất, lễ là thuận theo trật tự của trời đất” (Lễ ký, thiên Nhạc ký). Ngoài

Trang 24


GVHD: PGS. TS Vũ Văn Gầu

nguyên nhân trên, lễ sản sinh còn do sự cần thiết để tiết chế nhân tính, tức tiết chế “thất
tình” gồm hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, “thập nghĩa” của nhân tình gồm cha từ, con hiếu, anh
lương, em kính, chồng tình nghĩa, vợ thuận tòng, lớn ân, bé thuận, vua huệ, tôi trung.Lễ

chính là lễ tiết, lễ chế, lễ nghi, nghi điển quy định các quan hệ, trật tự xã hội từ gia tộc đến
thể chế xã hội. Lễ ở Khổng Tử là phương tiện để duy trì và điều hòa trật tự đẳng cấp, danh
phận trong xã hội, thực hiện chính danh định phận. Lễ quan hệ, trong đó là việc xây dựng
lực lượng quân sự vững mạnh và đồng thời phải giữ cho niềm tin mật thiết với nhân như
nội dung và hình thức, như chất và văn. Cho nên, trong Luận ngữ, thiên Nhan Uyên, tiết 1,
Khổng Tử nói: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”, “cái gì không hợp lễ thì mình không nghe, cái
gì không hợp lẽ thì mình đừng nói, cái gì không hợp lễ thì mình đừng làm “Như vậy, lễ của
Khổng Tử vừa mang ý nghĩa đạo đức vừa mang ý nghĩa chính trị, nó là sự bổ sung cho chỗ
thiếu sót của đức trị. Thiên Nghiêu viết, tiết 3, Khổng Tử nói: “Bất tri lễ, vô dĩ lập
dã”.Cùng với lễ, Khổng Tử cho rằng nhạc, thi, thư cũng là phương tiện để thực hiện chính
danh, giáo hóa con người, duy trì ổn định trật tự xã hội. Trong Lễ ký, thiên Nhạc ký nói:
“Nhạc do hòa âm mà sinh ra, do lòng người cảm ứng với cảnh vật mà sinh ra”, có tác dụng
di dưỡng tinh thần con người. Trong Luận ngữ, Thái Bá, tiết 9, Khổng Tử nói: “ Hưng ư
thi, lập ư lễ, thành ư nhạc”.
Theo quan điểm của Khổng Tử người cầm quyền không những có đức mà cần có tài
nữa, còn việc họ xuất thân ở đẳng cấp nào thì không quan trọng. Ngoài ra theo ông người
đứng đầu một quốc gia thì còn có hàm ý đó chính là người phải đạt được nhân đạo và cả
thiên đạo nữa để trở thành minh quân chính trực. Những quan điểm của ông còn thể hiện rõ
công việc đưa ra những tiêu chuẩn của người quân tử, của bậc minh quân đó là làm sao cho
dân được ấm no, đảm bảo cuộc sống bền vững, muốn làm được thì cần phải giữ an ninhcủa
nhân dân. Khổng Tử còn bàn về chữ nhân, công cho rằng nhân chính là thuộc tính riêng
của con người gồm tổng thể các giá trị về mặt đạo đức cao quý nhất của con người được
hình thành và chịu sự chi phối trong mối quan hệ giữa con người với con người. Vì thế
Nhân trị cũng có thể gọi là đức trị, thể hiện trong việc trị dân bằng đạo đức của nhà cầm
quyền. Khổng tử có nói “ Đạo đức của con người làm cho chính trị có kết quả… cho nên
làm chính trị cốt ở con người”. Có thể nói việc lấy nhân trị nhằm mục đích tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức của nhà cầm quyền thì được xem là điều kiện quan trọng đối với việc trị

Trang 25



×