Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.98 KB, 9 trang )

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM

Các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng, vốn là yếu
tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các DNNVV, nguồn vốn đến từ

các ngân sách là rất ít, họ hầu như không đủ uy tín để huy động vốn trực tiếp trên thị
trường chứng khoán, nguồn vốn tự có thường nhỏ bé...nên tín dụng ngân hàng là nguồn
vốn chính thức quan trọng cho loại hình doanh nghiệp này.
Trong những năm qua, Chính phủ và hệ thống ngân hàng bằng chủ trương chính
sách và hành động thực tế đã nỗ lực trong việc cung ứng vốn tín dụng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, song chưa tương xứng với mức độ đóng góp của DNNVV trong nền
kinh tế. Các DNNVV vẫn đang gặp phải khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
ngân hàng.
Bài viết khái quát nỗ lực của Chính phủ và hệ thống ngân hàng nhằm cung ứng tín

dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những năm gần đây , những rào cản trong việc
tiếp cận tín dụng ngân hàng của DNNVV và đề xuất các giải pháp cho vấn đề này.
1. Những nỗ lực của Chính phủ và hệ thống ngân hàng trong việc cung ứng tín dụng cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong những năm qua, Chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước đã có nhiều chính sách ưu
tiên đối với DNNVV.
- Ngày 16 tháng 5 năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ
và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Mục tiêu là đến năm 2020, cả nước có ít nhất 1 triệu
doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh. Khu vực
tư nhân Việt Nam đóng góp khoảng 48 - 49% GDP, khoảng 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Hàng năm, có khoảng 30 - 35% doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động đổi mới sáng tạo. Nghị
quyết cũng đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp cho các bộ, ngành trong đó có Ngân hàng Nhà
Nước để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được ban hành
ngày 12/6/2016. Ngày 08/3/2018, Chính Phủ ban hành Nghị định 34/2018/NĐ-CP về việc thành
lập, tổ chức và hoạt động của quĩ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định


39/2019/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của quĩ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, mới được
ký ngày 10 tháng 5 năm 2019 có hiệu lực từ 1/7/2019.


- Cho vay DNNVV là một trong 5 lĩnh vực ưu tiên về tốc độ tăng trưởng tín dụng, lãi suất
ưu đãi theo quy định tại Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 (Các
lĩnh vực: nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa;
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao). Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) coi trọng và đã chỉ đạo
rất quyết liệt các chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân.
Ngành ngân hàng đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền ở các địa phương tích cực triển khai các
chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Trong đó, các hội nghị triển khai chương trình này đều có sự tham gia của chính quyền địa
phương, các sở, ngành để cùng xem xét giải quyết. Các chỉ thị từ đầu năm về tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngàng ngân hàng luôn chú trọng tập trung tín dụng vào
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, tạo
điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân.
- Nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM) đã áp dụng các gói vay ưu đã cho các DNNVV.
Năm 2018 VietPostBank đã ban hành nhiều chương trình, sản phẩm để hỗ trợ các DNNVV từ
các sản phẩm tín dụng như: Tài trợ dự án, Gói Sản phẩm Quỹ bảo trì đường bộ, Cho vay nông
nghiệp công nghệ cao, Cho vay xây lắp, Tài trợ thương mại, Bảo lãnh và cam kết hỗ trợ tài
chính, Bao thanh toán đến các sản phẩm huy động, dịch vụ như: Tiền gửi ký quỹ, Tiết kiệm/tiền
gửi bảo toàn và Dich vụ: Thu/chi hộ tại quầy, Quản lý dòng tiền tập trung…LienVietPostBank đã
dành nhiều nguồn lực hỗ trợ cho phân khúc DNNVV như đơn giản hóa quy trình, tư vấn hỗ trợ
quản trị và các giải pháp tài chính, triển khai các gói tín dụng ưu đãi… Thỏa thuận hợp tác này
cũng thể hiện cho cam kết của LienVietPostBank trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay các
DNNVV trong thời gian tới. Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á đang triển khai chương trình
“BAC A BANK đồng hành cùng Doanh nghiệp” đến hết ngày 31/12/2019 với hạn mức chương
trình lên tới 1000 tỷ đồng, lãi suất cho vay hợp lý chỉ 8,6%/năm trong 03 tháng đầu tiên kể từ
ngày giải ngân; hoặc 8,9%/năm trong 06 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân, không thu phí trả
nợ trước hạn tại bất cứ thời điểm nào của khoản vay. Áp dụng nhiều hình thức vay vốn khác

nhau với phương thức trả nợ linh hoạt. Quy trình xét duyệt vay đơn giản...
Biểu đồ 1. Dư nợ tín dụng DNNVV/Tổng dư nợ (2016-4/2019)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Tín dụng cho DNNVV đã chiếm một tỷ trọng nhất định trong tổng dư nợ của toàn bộ
nền kinh tế. Trong 4 năm gần đây, tỷ trọng dư nợ tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa thường chiếm trên dưới 20%, đáp ứng cầu vốn bổ sung cho các DNNVV (Biểu đồ 1)
2. Những rào cản về tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa


Mặc dù hệ thống hàng đã rất quan tâm đến việc cung ứng vốn tín dụng cho các DNNVV,
song so với đóng góp của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế, tỷ trọng dư nợ tín dụng
ngân hàng cho các DNNVV còn quá khiêm tốn (Các DNNVV đang đóng góp khoảng 45% vào
GDP cả nước, 31% tổng thu ngân sách). Những rào cản này đến từ cả 2 phía: DNNVV và hệ
thống ngân hàng.
2.1. Những rào cản từ chính các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất, DNNVV có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính còn yếu
Theo Tổng cục Thống kê, phần lớn các DNNVV có vốn dưới 5 tỷ đồng, quy mô vốn nhỏ,
hoạt động mang tính tự phát, thiếu kế hoạch chiến lược kinh doanh cụ thể, khiến cho năng lực
chống đỡ rủi ro thấp, dễ chịu tổn thương bởi những tác động do biến động kinh tế vĩ mô gây ra,
từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của
doanh nghiệp.
Thứ hai, năng lực quản trị, điều hành còn hạn chế
Hầu hết đội ngũ lãnh đạo của DNNVV thiếu kỹ năng quản trị doanh nghiệp, không được
đào tạo bài bản, trình độ quản lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, quản lý
doanh nghiệp chủ yếu dựa theo kinh nghiệm (Theo kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu trường
Đại học Kinh tế Quốc dân (2017), số các DNNVV có giám đốc tài chính chỉ chiếm 12,23% mẫu
điều tra). Ngoài ra, DNNVV hoạt động còn thiếu ổn định, ít kinh nghiệm, chưa xây dựng được
mục tiêu chiến lược kinh doanh trong dài hạn, khả năng lập kế hoạch, phương án kinh doanh khả
thi yếu, cùng với đó là nhà quản lý thiếu hiểu biết về quy trình thủ tục, trách nhiệm và nghĩa vụ

pháp lý khi tham gia vay vốn tại ngân hàng. Do đó, DNNVV khó có thể thuyết phục được ngân
hàng cho vay vốn.
Thứ ba, hệ thống thông tin tài chính kế toán chưa theo chuẩn mực
Việc cập nhật thông tin và tổ chức hạch toán kế toán theo quy định của các DNNVV còn
chưa được chú ý, các báo cáo tài chính chưa minh bạch, chưa phản ánh đầy đủ kết quả sản xuất
kinh doanh, số liệu không đủ độ tin cậy, không qua kiểm toán độc lập, hệ thống kiểm soát nội bộ
chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế hợp tác chia sẻ thông tin giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Kết quả là
các ngân hàng thiếu thông tin khi phân tích, xem xét và thẩm định hồ sơ vay vốn, do đó ngân
hàng khó có thể đưa ra quyết định cấp tín dụng cho các DNNVV.
Thứ tư, tài sản thế chấp không có hoặc có nhưng không đủ điều kiện
Tài sản đảm bảo được đánh giá là rào cản lớn nhất cho việc tiếp cận vốn tín dụng ngân
hàng của các DNNVV. Tài sản của doanh nghiệp thường có giá trị thấp, giấy tờ chứng minh
quyền sử dụng và sở hữu tài sản chưa đầy đủ. Theo số liệu khảo sát của CEFR (2018), tài sản
chính của doanh nghiệp chủ yếu là hàng tồn kho (nguyên vật liệu, thiết bị, thành phẩm), các
khoản phải thu, và hàng hóa lưu chuyển trong kinh doanh chiếm khoảng 50% tổng tài sản, tài sản
là máy móc, thiết bị chiếm khoảng 35% và cuối cùng là bất động sản chiếm tỷ trọng thấp khoảng


15% (Biểu đồ 2), trong khi về phía các NHTM đều khẳng định tài sản đảm bảo là điều kiện tiên
quyết khi xem xét thẩm định cấp tín dụng cho các DNNVV và ưu tiên hàng đầu về tài sản đảm
bảo phải là bất động sản, ít chấp nhận thế chấp hàng tồn kho, hàng lưu chuyển trong sản xuất
kinh doanh (bởi họ cho rằng đặc thù của loại hình doanh nghiệp này là quy mô nhỏ, các phương
án kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro, thị trường đầu ra chưa ổn định,…). Do vậy, luồng vốn tín
dụng từ ngân hàng đến các DNNVV sẽ bị tắc nghẽn, để khơi thông điểm nghẽn này cần giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và đảm bảo an toàn,
sinh lời cho các ngân hàng. Một mặt, các DNNVV không có hoặc có mà không đủ tài sản đảm
bảo đáp ứng nhu cầu khoản vay, chỉ có 15% tài sản là bất động sản. Mặt khác, các ngân hàng
khẳng định điều kiện tiên quyết phải có tài sản đảm bảo, chủ yếu là bất động sản. Họ cho rằng
các khoản vay có tài sản đảm bảo đều có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với các khoản vay không
có tài sản đảm bảo, và sự có mặt của tài sản đảm bảo trong hồ sơ vay vốn làm tăng ý thức và

trách nhiệm trả nợ của doanh nghiệp.
Biểu đồ 2. Tỷ lệ được vay ngân hàng so với nhu cầu nguồn vốn vay
và cơ cấu tài sản của doanh nghiệp
Nguồn: Hoàng Công Gia Khánh (2018)
2.2. Rào cản từ hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, thủ tục vay vốn phức tạp
Khi DNNVV có nhu cầu vay vốn, các ngân hàng thường đòi hỏi nhiều văn bản, giấy tờ,
thủ tục công chứng tốn kém về mặt thời gian và chi phí. Ngân hàng còn yêu cầu xuất trình các
phương án/dự án sản xuất kinh doanh khả thi, các giấy tờ chứng minh hiệu quả của phương án
sản xuất kinh doanh, trong khi những giấy tờ này vượt quá khả năng của DNNVV, họ không thể
hoàn thiện được dẫn tới các hồ sơ vay vốn không được phê duyệt.
Thứ hai, định giá giá trị tài sản đảm bảo thấp
Các ngân hàng yêu cầu tài sản phải là bất động sản và phải có giấy tờ chứng minh quyền
sử dụng đất. Tuy nhiên, có một số doanh nghiệp được giao đất sử dụng nhưng chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cũng không chứng minh được tài sản đảm bảo để vay
vốn, do đó bị ngân hàng từ chối cho vay. Còn đối với các doanh nghiệp được cho vay vì có đủ
giấy tờ chứng minh tài sản đảm bảo, nhưng mức vốn vay không được đáp ứng đủ nhu cầu bởi
ngân hàng định giá tài sản đảm bảo ở mức độ thấp hơn giá trị thị trường từ 20-25%. Các ngân
hàng thường định giá thấp giá trị tài sản đảm bảo và áp dụng tỷ lệ cấp tín dụng khá hạn chế trên
tổng giá trị tài sản đảm bảo sau định giá, DNNVV phải thế chấp một nguồn tài sản có giá trị gấp
rưỡi hoặc gấp đôi so với giá trị khoản vay. Như vậy, hoặc là doanh nghiệp không đủ điều kiện về
tài sản đảm bảo nên bị từ chối vay vốn; hoặc là doanh nghiệp có tài sản đảm bảo nhưng bị định


giá trị thấp dẫn đến vốn vay không đáp ứng đủ nhu cầu, dẫn đến các 100% DNNVV vẫn phải
tiếp cận nguồn vốn phi chính thức như một chiếc kênh cung cấp hoặc bổ sung vốn.
Thứ ba, DNNVV vẫn phải trả một số chi phí phi chính thức cho ngân hàng, khiến lãi suất
vay vốn tăng cao
Theo các kết quả nghiên cứu gần đây đều thống nhất cho rằng DNNVV phải bỏ thêm các
chi phí “lót tay” và quà tặng cho cán bộ ngân hàng để có thể tiếp cận được vốn của ngân hàng,

các khoản này cộng thêm lãi suất khiến cho lãi suất khoản vay ở mức rất cao. Theo báo cáo Năng
lực cạnh tranh cấp Tỉnh (PCI) năm 2015, chi phí mà doanh nghiệp phải chi “bồi dưỡng” cán bộ
ngân hàng tăng từ 50% năm 2013 lên 65% năm 2015. Còn theo kết quả khảo sát của CEFR
(2018), có đến 42,7% DNNVV nói rằng họ phải chi “bôi trơn” và 40% doanh nghiệp cho biết các
khoản chi này sẽ tăng lên trong thời gian tới. Các khoản chi phí lót tay và quà tặng sẽ giúp tăng
tỷ lệ thành công được chấp nhận cấp tín dụng từ 17,6% đến 24%. Điều này cho thấy các chi phí
phi chính thức cũng là một trong những “chướng ngại” khiến DNNVV e dè vay vốn ngân hàng.
Bảng 2: Nguyên nhân các doanh nghiệp bị ngân hàng từ chối cho vay vốn
Nguyên nhân
Tài sản thế chấp không đủ điều kiện
Các dự án/phương án không khả thi
Chi phí cao

Tỷ lệ doanh nghiệp không tiếp cận vốn tín dụng
84,62%
37,50%
40,38%
Nguồn: Phạm Xuân Hương (2018)

Thứ tư, quy mô vốn tín dụng vẫn còn thấp hơn so với thực tế nhu cầu của các doanh
nghiệp.
Trong những năm qua, NHNN đã chủ trương triển khai các chương trình tín dụng đặc thù
đối một số ngành/lĩnh vực ưu tiên, trong đó có đối tượng thụ hưởng là các DNNVV như chính
sách cho vay không có tài sản đảm bảo theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, chính sách ưu đãi lãi
suất cho các DNNVV hoạt động tại các địa bàn kinh tế khó khăn... Theo tinh thần của các chủ
trương này, các TCTD đã triển khai đa dạng hóa các gói sản phẩm vay vốn ưu đãi dành riêng cho
các DNNVV cả tiền đồng và ngoại tệ, giảm bớt quy trình, thủ tục cấp tín dụng đối với loại hình
doanh nghiệp này, cho ra đời hàng loạt sản phẩm tín dụng không yêu cầu tài sản đảm bảo. Tuy
nhiên, quy mô vốn vay mà ngân hàng cung cấp cho DNNVV vẫn còn khá khiêm tốn. Chẳng hạn,
năm 2016 Vietcapital chỉ cho vay tối đa 1,5 tỷ đồng, VPBank cho vay tối đa 5 tỷ đồng không tài

sản đảm bảo, ABbank cung cấp gói SME Easy Plus với mức vay tối đa 1 tỷ, ngay cả khi có tài
sản đảm bảo là bất động sản, ngân hàng ABBank chỉ cấp tín dụng tối đa 5 tỷ đồng theo gói SME
Fast Loan. Do ngân hàng duyệt vay cho doanh nghiệp, nhưng chỉ đồng ý duyệt vay số tiền giới
hạn theo sản phẩm tín dụng đã thiết kế. Kết quả là quy mô vốn mà ngân hàng cấp vay không đủ
để triển khai phương án kinh doanh và DNNVV phải tiếp tục tìm kiếm nguồn bổ sung từ các
kênh phi chính thức khác, điều này tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho cả doanh nghiệp vay vốn lẫn các
ngân hàng. Theo nghiên cứu của Hoàng Công Gia Khánh (2018) trong số các doanh nghiệp được


vay vốn, chỉ có 33% được vay mức vốn từ 50% trở lên so với nhu cầu của doanh nghiệp, chỉ có
19% doanh nghiệp được duyệt vay 1/4 so với nhu cầu của họ.
Ngoài ra, còn một số nhân tố khác tạo nên rào cản tiếp cận tín dụng của các DNNVV như
vị trí địa lý, sự phân biệt đối xử của ngân hàng giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn, giữa
loại hình doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Vị trí địa lý nơi DNNVV có trụ sở
càng xa ngân hàng thì khả năng tiếp cận vốn vay càng bị giảm, xác suất để hồ sơ vay được ngân
hàng chấp nhận giảm khoảng 15%; Sự phân biệt đối xử của ngân hàng thể hiện khi DNNVV nộp
hồ sơ vay vốn thì xác suất hồ sơ được chấp nhận sẽ giảm khoảng 26%, nhưng nếu đối tượng vay
là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước thì tỷ lệ hồ sơ vay được duyệt tăng lên 2,8%.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa
3.1. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Một là: Doanh nghiệp chủ động xử lý những khó khăn nội tại của chính mình
Nâng cao trình độ năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp, chủ động tích cực tự đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao tay nghề của đội ngũ lao động thông qua các khóa đào tạo, tham gia tích
cực vào các hiệp hội nghề, hiệp hội xã hội, tập huấn trong các buổi tọa đàm, hội thảo, diễn đàn
để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh. Đổi mới hệ thống quản trị nội bộ,
tăng cường công tác phân tích lập kế hoạch chiến lược, tăng cường quản lý tài chính.... Minh
bạch hóa thông tin kinh doanh, minh bạch tài chính để sử dụng nguồn lực hiệu quả, giảm thiểu
chi phí, giảm rủi ro. Đồng thời, tích cực tiếp cận và cập nhật các nguồn thông tin thị trường trong
và ngoài nước, các chính sách của Chính phủ nhằm chủ động giám sát và phòng ngừa những rủi

ro có thể xảy đến trong quá trình sản xuất - kinh doanh.
Cần nâng cao năng lực xây dựng dự án, phương án đầu tư, phương án sản xuất kinh
doanh khả thi phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và nhân sự. Đó vừa là chiến lược kinh
doanh dài hạn của doanh nghiệp, vừa hình thành hồ sơ vay vốn để dễ dàng thuyết phục ngân
hàng và các tổ chức tài chính trong việc tài trợ vốn.
Hai là: Tích cực và chủ động liên hệ với các Quỹ Bảo lãnh tín dụng và Quỹ Phát triển
DNNVV để có thể tiếp cận nguồn tín dụng nếu không có tài sản đảm bảo.
Thực tế, các DNNVV trong một số lĩnh vực ưu tiên có thể được bảo lãnh vay vốn tại các
TCTD thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng và Quỹ phát triển DNNVV. Quỹ này cấp tín dụng cho
các DNNVV theo 2 hình thức: Trực tiếp cho vay đối với DNNVV khởi nghiệp sáng tạo,
DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị có nhu cầu vay vốn và Gián tiếp qua các
NHTM
Ngoài ra, các DNNVV cũng tăng cường liên kết với nhau, thực hiện mua bán, sáp nhập
để nâng cao năng lực cạnh tranh, cũng như đáp ứng nhu cầu cho vay của ngân hàng. Hoạt động
tuân thủ quy định của pháp luật và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực để nâng cao


uy tín đối với các TCTD. Chủ động, tích cực tham gia hoạt động sản xuất - kinh doanh theo
chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng của sản phẩm, tạo điều kiện cho các TCTD kiểm soát dòng tiền và
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn.
3.2. Đối với hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, các NHTM có thể xem xét nới lỏng các điều kiện về tài sản đảm bảo
Ngoài bất động sản, có thể bổ sung danh mục tài sản đảm bảo gồm hàng tồn kho, các
khoản phải thu. Có thể tăng giá trị định giá tài sản đảm bảo và mở rộng mức cho vay bằng cách
tăng tỷ lệ cho vay so với tài sản đảm bảo. Điều này vừa có thể khơi thông nguồn vốn chính thức
cho các DNNVV, vừa tăng hiệu quả hoạt động của NHTM.
Thứ hai, NHTM đẩy mạnh nghiên cứu, thiết kế các sản phẩm cho vay tín chấp riêng phù
hợp đối với nhóm đối tượng là DNNVV.
Theo quy định của NHNN hiện nay, các DNNVV chỉ cần chiến lược, kế hoạch kinh
doanh và được địa phương đảm bảo có thể sẽ được ngân hàng đồng ý cho vay tín chấp. Trên thế

giới hình thức này khá phát triển, tạo ra một thị trường tiềm năng cho các ngân hàng khai thác.
Để thúc đẩy hình thức cho vay tín chấp, các TCTD cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo lòng tin lẫn nhau, tạo lập quy trình thu thập khai thác thông tin về
hoạt động của DNNVV để nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của doanh
nghiệp vay nhằm tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, đơn giản hóa thủ
tục cho vay.
Thứ ba, NHTM hỗ trợ các DNNVV hoàn thiện các điều kiện vay vốn.
Hoàn thiện các kỹ năng kinh doanh, kỹ năng lập phương án sản xuất kinh doanh khả thi,
kỹ năng quản lý doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sổ sách kế toán và tài chính để doanh nghiệp có
thể kinh doanh hiệu quả và dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hơn. Ngoài ra, đối với các
DNNVV đã và đang vay vốn tại ngân hàng, ngân hàng cần có biện pháp cơ cấu lại nợ, giãn nợ,
gia hạn nợ, ưu đãi tín dụng, sớm chấm dứt tình trạng “bôi trơn” khi phê duyệt cấp tín dụng để
đảm bảo mức lãi suất vay thực, kết hợp với cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp
giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất.
Thứ tư, NHTM áp dụng hình thức thuê mua hoặc bao thanh toán.
Với hình thức thuê mua, DNNVV có thể khắc phục khó khăn về vốn, có điều kiện đổi
mới công nghệ. Hình thức bao thanh toán giúp tài trợ vốn cho các DNNVV mà bản thân doanh
nghiệp không mất thời gian lập dự án kinh doanh khả thi, và hồ sơ vay vốn. Về phía ngân hàng
cũng giảm rủi ro do khoản vay được đảm bảo bằng chính giá trị lô hàng (khoản phải thu) mà
DNNVV đã bán cho nhà phân phối (người mua)
Thứ năm, NHNN tiếp tục phối hợp với các Bộ, ban, ngành, hội, hiệp hội tại địa phương
xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách tín dụng đối với DNNVV


Triển khai có hiệu quả, giải quyết những vướng mắc phát sinh liên quan đến các chương
trình tín dụng hỗ trợ DNNVV, trong đó có chính sách bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV thông
qua Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ Bảo lãnh tín dụng. Đồng thời, NHNN nên yêu cầu các NHNN
chi nhánh tỉnh, thành phố định kỳ phải thực hiện báo cáo tình hình cho vay của các TCTD với
DNNVV trên địa bàn nhằm nắm bắt tình hình và có những điều chỉnh chính sách phù hợp với
thực tiễn cấp tín dụng cho DNNVV tại địa phương.

Thứ sáu, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh thực hiện các chương trình tín
dụng ưu đãi
NHNN nên có chính sách tái cấp vốn, cấp bù lãi suất, nghiên cứu cơ chế xác định nhóm
nợ và cơ chế trích lập dự phòng, xử lý rủi ro riêng…đối với đối tượng DNNVV. Tiếp tục nghiên
cứu, xây dựng hành lang pháp lý phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới phù hợp với đặc
thù hoạt động của khối DNNVV.
Bên cạnh sự nỗ lực của hệ thống ngân hàng, rất cần sự chỉ đạo và phối hợp của Chính
quyền các cấp cơ quan chức năng có liên quan.
Tài liệu tham khảo chủ yếu:
Nguyễn Thị Hiền (2017), Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận hiệu quả nguồn vốn tín dụng
ngân hàng, Tạp chí tài chính.
Phạm Xuân Hương (2018), Vốn tín dụng và những rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân hiện
nay, Tạp chí tài chính.
Hoàng Công Gia Khánh (2018), Báo cáo thường niên tài chính 2017, tiếp cận tài chính, NXB,
Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Phương Linh (2019), Tiếp tục mở rộng tín dụng có hiệu quả cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thảo Nguyên (2019), Giải pháp nào cho doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ tiếp cận nguồn
vốn?, />Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (2016), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt
Nam 2015, Nhà xuất bản thông tin và truyền thông
Quang Thắng (2017), Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp 45% GDP nhưng phải vay vốn lãi cao,
/>Trần Thị Thanh Tú, Đinh Thị Thanh Vân (2015), Phát triển nguồn tài chính cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 3 (2015)

Cơ hội tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, />Nhã Uyên, Đồng hành cùng doanh nghiệp, ngân hàng trao cơ hội tăng trưởng,
/>Webside:


Các văn bản pháp qui của Chính phủ, Quốc hội và NHNN đã được trích dẫn.




×