Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.95 KB, 9 trang )

Đề tài: Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam
Lời mở đầu :
Từ đầu năm 1975, khi đất nước giành được độc lập, Cách mạng dân tộc dân chủ đã
hoàn thiện trên phạm vi cả nước cũng là lúc tiến hành Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Đảng ta đã giữ vững quan điểm cũng như con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa
chọn, đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở thành một đất nước giàu
mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội công bằng văn minh. Để đạt được như vậy,
Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên phát triển kinh tế và coi đó là vấn đề sống còn và một
trong đó là xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và nhờ có đường
lối kinh tế đúng đắn nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời
sống nhân dân được cải tiến đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc
gia được giữ vững. Nước ta từ một nước có nền kinh tế quan liêu, bao cấp đã từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị
và tín hiệu cung cầu thị trường . Với đề tài: “Sự hình thành và phát triển tư duy lý
luận của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” sẽ
giúp sinh viên có thể hiểu và nắm bắt kiến thức về những thay đổi tư duy và thành tựu đạt
được trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường trong đổi mới ở Việt Nam.
Quá trình tìm tòi mô hình KTTT theo định hướng XHCN ở VN
1. Nhận thức khách quan của KTTT
Phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta là điều tất yếu khách quan.
Một là, mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoặc hóa
tập trung có tác động ở thời gian đầu nước ta đi lên xây dựng XHCN ,tồn nhiều nhược
điểm, trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối
đa những mặt mạnh của nền KTTT để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh
mẽ, phát triển lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh
Hai là, nền KTTT trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã phát triển vô vùng mạnh mẽ
nhưng phát triển KTTT theo con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN) không phải là duy
nhất đúng mà nó vẫn tiềm tàng những rủi ro (mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền
thống, làm tăng tính tình bất ổn của xã hội và khoét sâu khoảng cách giàu- nghèo…).
Ba là, không có một hình KTTT nào cho một quốc gia, trái lại, mỗi quốc gia- dân tộc


tùy theo trình độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả yếu tố
văn hóa- xã hội truyển thống để xây dựng mô hình KTTT đặc trưng của riêng mình.
Bốn là, một nền nông nghiệp truyền thống có thể “đi tắt. đón đầu” sang hậu công
nghiệp mà không cần bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém.

I.

I.


Năm là, KTTT không phải là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung
của nhân loại
Sáu là Đây là sự lựa chọn phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại,
đúc rút từ kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới và đặc biệt , từ tổng kết thực tiễn
mấy chục năm xây dựng CNXH và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
2. Những hạn chế của mô hình kinh tế “công hữu, kế hoạch hoá, tập trung và nhu cầu
đổi mới tư duy” lý luận của Đảng
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với
những đặc điểm chủ yếu là: Thứ nhất, sự thống trị của chế độ công hữu XHCN về tư
liệu sản xuất được biểu hiện dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Thứ hai, Nhà
nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.Thứ ba, các cơ quan hành chính can
thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại
không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình.
Thứ tư, quan hệ hàng hóa-tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Thứ năm, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, vừa kém năng động,
quan liêu
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: Bao cấp qua giá;
Bao cấp qua chế độ tem phiếu; Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.

3. Quá trình chuyển dần từng bước từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
thường định hướng XHCN (1976-1989)
-

Xét về thời gian, có người nói đổi mới bắt đầu từ Ðại hội VI của Ðảng (1986). Cũng có
người nói, đổi mới có từ trước đó, từ Hội nghị lần thứ VI của Trung ương khóa IV (năm
1979). Lại có người đi xa hơn, rằng trong nông nghiệp đã có sự đổi mới từ chủ trương
khoán hộ của Vĩnh Phúc ngay từ hồi còn chiến tranh.

-

Xét về hành động và tư tưởng đổi mới, có người cho rằng đổi mới bắt đầu từ việc làm sau
đó mới có đổi mới về tư tưởng, nói một cách khác thực tế đổi mới có trước, lý luận đổi
mới có sau.

-

Liên quan đến cấp đổi mới, có ý kiến cho rằng, đổi mới bắt đầu từ nhân dân, cũng có
nghĩa là từ cơ sở, sau đó mới có đổi mới ở cấp trên, cấp trên thừa nhận thực tiễn đổi mới
ở cấp dưới, từ đó đã ra chủ trương đổi mới của chính mình.

-

Về lĩnh vực đổi mới, có ý kiến cho rằng đổi mới bắt đầu từ kinh tế rồi mới đến chính trị
và các lĩnh vực khác, lại có ý kiến ngược lại rằng đổi mới bắt đầu từ chính trị, cụ thể là từ
việc đổi mới tư duy, nếu không có đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế thì cũng
sẽ không có đổi mới kinh tế.


-


Ðể trả lời các ý kiến nêu trên, quyết không thể đi theo lối tư duy tư biện, sách vở mà
trước hết phải xuất phát từ thực tế, nhìn lại một cách khách quan quá trình đổi mới ở
nước ta từ trước đến nay. Ðại thể như sau:

-

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta có tư tưởng chủ quan,
nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn. Những khuyết
điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp bộc lộ ngày càng gay gắt, dẫn tới đất
nước dần dần lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Hội nghị Trung Ương VI
khóa IV (8-1979), với chủ trương bằng mọi cách "làm cho sản xuất bung ra", là bước đột
phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm cái mới. Ðại hội toàn quốc V của Ðảng
(3-1982) phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, khẳng định sự tồn tại 5 thành phần kinh tế trong một
thời gian nhất định ở miền nam. Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12-1983) lại
cho rằng sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân
của tình trạng khó khăn về kinh tế, xã hội. Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) lại là
bước đột phá thứ hai với chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, thực hiện cơ chế một giá. Tháng 9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá lương - tiền được
bắt đầu bằng việc đổi tiền, xóa bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng nóng vội,
cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức
tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Ðầu năm 1986, lại phải lùi một bước: Quay trở lại
thực hiện chính sách hai giá... Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) là bước đột phá
thứ ba với "Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế".Ðại hội VI của
Ðảng (12-1986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
ở nước ta, Đảng đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi
mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống
chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội với phương châm "nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật". Tiếp tục tư tưởng về phân kỳ thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Ðại hội VI xác định chặng đường đầu của thời kỳ quá độ,
xem ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết.

II.
Quá trình tư duy của Đảng về KTTT định hướng XHCN theo thời kỳ đổi mới
1. Quá trình phát trển tư duy của Đảng về KTTT định hướng XHCN từ ĐH VI đến

ĐH XII
a. Đại hội VI :
Cuối năm 1986, tại Đại hội VI, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật", Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng
định những mặt làm được; phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hội nghị Trung Ương VI (Khóa VI) đã phát triển thêm


một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành
phần kinh tế đi lên CNXH. Tại Đại hội VI, Đảng đã khẳng định phải thực hiện công bằng
xã hội, thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động. Đảng chỉ rõ: “Nước ta phải
tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là mở rộng quan hệ phân
công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ
thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế
và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”. Tại Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3-1989), quan điểm trên được tiếp tục khẳng
định và phát triển khi Đảng kết luận rằng, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
thị trường xã hội là một thể thống nhất, thông suốt trong cả nước và gắn với thị trường
thế giới; nước ta phải đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và tham gia tích cực vào sự
phân công lao động quốc tế.
b. Đại hội VII :

Định hướng mô hình tổng quát KTTT tại đại hội VII: Thứ nhất, nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN nước ta là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường. Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Thứ ba, thị trường đóng vai trò chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất.Thứ tư, Đảng ta khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò của kinh tế tư
nhân giai đoạn trước, ta đã coi “kinh tế tư nhân là một trong các động lực của nền kinh
tế”, lần này Đảng ta khẳng định và dứt khoát hơn, coi “kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng của nền kinh tế”.Thứ năm, các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhưng phải phù hợp với cơ chế thị trường.
c. Đại hội VIII :
Đại hội VIII (6-1996), trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới (1986 - 1996), Đảng đã
rút ra một số kết luận mới về mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa xã hội,
giữa kế hoạch hóa và thị trường, giữa thị trường trong nước và quốc tế, giữa quyền quản
lý của Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, về phân phối và lấy đó
làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, tiếp tục tạo lập đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN. Qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, khuyết điểm: nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu
quả và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại
hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt
chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo được động lực
mạnh mẽ để phát triển. Những vấn đề rất phong phú và sáng tạo về kinh nghiệm thực tiễn
và lý luận, về những thành tựu, hạn chế, khuyết điểm của 15 năm đổi mới là cơ sở quan


trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định những vấn đề lớn tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX.
d. Đại hội IX :
Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng
từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị
trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội diễn ra vào thời điểm thế kỷ 20 vừa kết thúc, mở đầu thiên niên kỷ mới.
Xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, lôi kéo các nước vừa đẩy mạnh hợp tác vừa
cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau. Đại hội lần thứ IX của Đảng tổng kết 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII; mười năm thực hiện Chiến lược ổn định, phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000 và tổng kết 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới; tiếp tục khẳng
định giá trị bốn bài học về đổi mới mà các Đại hội những nhiệm kỳ trước đó đã đúc rút.
Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đại hội lần thứ
IX của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, mở đường cho đất nước nắm bắt cơ hội tiến
bước vào thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
e. Đại hội X (4-2006)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong thời
điểm lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cụ thể, chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đại hội
xác định mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", giải
phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân;
đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,
giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Đại hội cũng nghiêm túc đánh
giá, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa


cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn
ra nghiêm trọng. Về định hướng phát triển các thành phần kinh tế chủ yếu, đại hội X đã

phân biệt rõ chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đại hội X đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong môi
trường KTTT đồng bộ, cạnh tranh lành mạnh và hội nhập. Những thay đổi này đặt ra yêu
cầu mới đối với quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp là: Nhà nước phải chủ động thay
đổi những phương thức hành động không phù hợp với KTTT và cam kết quốc tế bằng các
phương thức phù hợp và có hiệu quả hơn.
Đại hội XI (1/2011)
Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng tại Đại
hội XI được nêu cụ thể hơn:“nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của
kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
CNXH”. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ yêu cầu tăng
trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thực chất là kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Phân
phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phối hợp các hình thức phân phối khác như:
phân phối theo vốn, tài năng, tài sản đóng góp vào sản xuất và thông qua phúc lợi xã hội.
g. Đại hội XII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016) tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề cốt lõi
f.

về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội XII
khẳng định:“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang

đầy đủ các đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế
thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân
tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau.


2. Những nội dung chủ yếu thể hiện sự chuyển biến tư duy lý luận từ KT ‘‘công hữu,

kế hoạch hoá, tập trung’’ sang KTTT định hướng XHCN
a. Mục tiêu
Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Hai là, đổi mới cơ bản mô hình
tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Ba là, phát triển đồng
bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với
thị trường khu vực và thế giới. Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa, xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý , phát triển kinh
tế-xã hội
b. Quan điểm
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế
thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Bảo đảm tính đồng bộ
giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa yếu tố thị trường và các loại thị
trường, giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội, giữa Nhà nước, thị trường và xã
hội. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh
nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta. Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề
lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc vừa làm
vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu
III.


quả quản lý của Nhà nước.
Phương hướng và giải pháp của Đảng để phát triển nền kinh tế thị trường trong
những năm tiếp theo

1. Những nguyên nhân và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện
nay
Do phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình, sự kiện chưa có tiền
lệ cho nên trong khi thực hiện còn có nhiều sai phạm và tồn tại các hạn chế cần điều
chỉnh sao cho phù hợp với thực tiễn ở nước ta trong thời gian sắp tới: Hiệu quả hoạt động
của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế gặp nhiều khó khăn,
cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp kém, kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao


thông, hệ thống thôn tin liên lạc, hệ thống các công trình xây dựng …còn rất lạc hậu, kém
phát triển, do sự phân công lao động thấp kém kết hợp với cơ sở vật chất và kết cấu hạ
tầng chưa phát triển đã làm cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, khi chuyển sang
cơ chế thị trường định hướng XHCN một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp nhà nước
còn nhiều bỡ ngỡ, hoạt động không hiệu quả,…
2. Phương hướng và giải pháp của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

hiện nay
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Mở rộng phân công lao động
xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng
khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giữ vững ổn định chính
trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế và các nhà kinh doanh giỏi. Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
IV.


Những thành tựu và ý nghĩa của Đảng ta sau 25 năm đổi mới

1. Thành tựu

Một là, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, chế độ
sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành. Ba là,
các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn
với thị trường khu vực và thế giới. Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
2. Ý nghĩa

Việt Nam lựa chọn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
sự lựa chọn đúng đắn, đưa đất nước tiến đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam đã giúp nước ta phá vỡ nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp
V.

thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy trình độ xã hội hóa cao của sản xuất.
Kết luận


Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển
chung của nhân loại. Kinh tế thị trường cũng tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là một phạm trù nghiên cứu rộng lớn cần nhiều thời gian, tư
liệu và sự tham gia của các nhà nghiên cứu chuyên môn. Trong khuôn khổ nội dung đề
tài: “Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” đã trình bày quá trình thay đổi tư duy của Đảng khẳng định
tính đúng đắn và cần thiết của kinh tế thị trường định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa,
đồng thời trình bày những thành tựu và hạn chế hay thách thức của nề kinh tế Việt Nam
hiện nay.




×