Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TIẾP CẬN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ KHUYẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.49 KB, 10 trang )

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TIẾP CẬN
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG - NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam và định hướng của
Chính phủ trong hỗ trợ phát triển DNNVV
Tính đến 31/12/2018, tính trên cả nước hiện có 700.647 doanh nghiệp
đang hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng 65.076 doanh nghiệp so với cuối năm
20171. Trong số các doanh nghiệp hiện đang hoạt động, có một tỷ lệ rất lớn là
các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Báo cáo kết quả tổng điều tra kinh tế
năm 2017 của Tổng cục thống kế cho thấy 2: xét theo quy mô lao động cả nước
chỉ có hơn 10 nghìn doanh nghiệp lớn, chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp.
DNNVV chiếm tới 98% trong tổng số doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp
siêu nhỏ chiếm tới 74% tổng số doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
24,1%. Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đa số đều là các doanh nghiệp ngoài
nhà nước (chiếm 99% trong tổng số doanh nghiệp siêu nhỏ và 93% trong số
doanh nghiệp nhỏ). Các doanh nghiệp FDI cũng chủ yếu có quy mô nhỏ
(46,13%), tiếp đến là quy mô siêu nhỏ (25,53%), doanh nghiệp có quy mô lớn
chỉ chiếm 20,18%.
Với số lượng đông đảo như vậy, khu vực DNNVV (bao gồm cả doanh
nghiệp siêu nhỏ3) đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.
Tổng số vốn đăng ký của các DNNVV (năm 2018) đạt xấp xỉ 121 tỷ USD,
chiếm 30% tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp. Tổng quy mô vốn của
các DNNVV chiếm khoảng 40,9% tổng nguồn vốn huy động vào sản xuất kinh
doanh của toàn khu vực doanh nghiệp. Hàng năm, các DNNVV cũng tạo ra gần
60% việc làm (chiếm 42,2% số lao động), 44,8% doanh thu, đóng góp khoảng
40% GDP, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu,
đóng góp 29,3% cho ngân sách nhà nước4.
Nhận thấy rõ vai trò của khu vực DNNVV, thời gian qua, Đảng, Nhà
nước ta đã liên tục khẳng định quan điểm hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các
DNNVV. Tại Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 5


năm 2016-2020 đã đưa ra nhiệm vụ: “Tăng cường trợ giúp để phát triển mạnh
doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình; hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.
1

/>Tổng cục thống kê (2018), Thông cáo báo chí về kết quả sơ bộ Tổng điều tra kinh tế năm 2017
3
Trong phạm vi của bài viết này, DNNVV được định nghĩa theo Nghị định số 39/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết
một số điều của Luật hỗ trợ DNNVV. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao gồm doanh nghiệp
siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa.
4
Nhiều chính sách hỗ trợ cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa />ItemID=2657;
2

1


Khuyến khích hình thành doanh nghiệp lớn, thương hiệu mạnh” như một phần
của việc đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Tại Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, Đảng ta cũng đã khẳng định “Hoàn thiện cơ chế,
chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết
các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh
tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh
nghiệp khởi nghiệp”.
Đặc biệt là trong giai đoạn gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020,
Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2016 về tiếp tục triển khai Nghị quyết số 35
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đã được Quốc hội thông qua ngày
12/6/2017 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2018. Đây là hành lang pháp lý quan

trọng để hỗ trợ cho sự phát triển mạnh mẽ của DNNVV. Việc ban hành những
văn bản này đã cho thấy sự đề cao đối với vai trò của DNNVV và tính xuyên
suốt, rộng khắp trong việc ban hành các chính sách hỗ trợ DNNVV ở nước ta.
Trong đó, có sự tham gia của nhiều bộ, ban ngành, các cơ quan quản lý nhà
nước ở cả cấp trung ương và địa phương. Các tổ chức chính trị xã hội, các hiệp
hội ngành nghề cũng tích cực hành động nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực và hiệu
quả hoạt động cho các DNNVV.
Qua gần 3 năm thực hiện Nghị Quyết số 35 và hơn 1 năm triển khai Luật
hỗ trợ DNNVV, có thể thấy chủ trương hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của
DNNVV đã được lan tỏa rộng khắp. Trong lĩnh vực ngân hàng, với chức năng
trung gian tài chính, cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, việc hỗ trợ nhằm
nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng cho các DNNVV đã luôn được
chú trọng triển khai với các giải pháp đồng bộ và hiệu quả.
2. Các chương trình, chính sách của ngành ngân hàng nhằm hỗ trợ
DNNVV tiếp cận tín dụng
Tích cực thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ về ưu tiễn hỗ trợ phát triển
DNNVV, ngành ngân hàng đã ban hành các chương trình, kế hoạch hành động
cho toàn ngành nhằm triển khai một cách mạnh mẽ và hiệu quả chủ trương hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Có thể kể đến như:
Quyết định số 1355/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2016 về việc Ban hành
Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 192016/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ; Quyết định số
1178/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 5 năm 2018 về viẹc Ban hành Chương trình
2


hành động của ngành ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp phát
triển năm 2018 và những năm tiếp theo thực hiện Nghị quyết số 19-2018/NQCP, Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ. Các kế hoạch, chương trình hành

động đã đề ra nhiều giải pháp dựa trên nhiều góc độ hoạt động ngân hàng khác
nhau, như là: cải thiện, minh bạch hóa thông tin tín dụng; Tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; xây dựng chính sách
hỗ trợ phát triển các dịch vụ tài chính – ngân hàng; nâng cao năng lực của hệ
thống ngân hàng; đơn giản hóa và hiện đại hóa thủ tục hành chính, nhằm giảm
chi phí tuân thủ thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong
giao dịch hành chính với NHNN, TCTD và nhiều giải pháp bổ trợ khác.
Trong đó có thể kể đến nhiều chính sách tác động trực tiếp đến việc hỗ
trợ tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng cho DNNVV. Cụ thể như là:
Chính sách về lãi suất: Việc cấp tín dụng của các TCTD đối với
DNNVV cũng được thực hiện theo quy định chung (như Thông tư 39/2016/TTNHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư 07/2015/TT-NHNN ngày 25/6/2015
và Thông tư số 13/2017/TT-NHNN ngày 29/9/2017 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư 07/2015/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng; Thông
tư số 02/2017/TT-NHNN ngày 17/5/2017 quy định về hoạt động bao thanh toán
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài...). Bên cạnh đó, trên cơ sở bám sát các
Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN
đã xác định DNNVV là một trong năm lĩnh vực ưu tiên mà ngành ngân hàng
cần đầu tư vốn để phát triển, chú trọng triển khai nhiều giải pháp, chính sách
nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn tín
dụng ngân hàng. Do đó NHNN đã ban hành quy định trần lãi suất đối với các
lĩnh vực ưu tiên phát triển, trong đó có DNNVV, quy định lãi suất cho vay ngắn
hạn tối đa bằng VNĐ đối với các lĩnh vực này phải thấp hơn 1%-2%/năm so với
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường. Thực hiện Chỉ thị 26/CT-TTg
ngày 06/6/2017 của TTCP, với tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh
nghiệp, căn cứ cơ sở điều kiện, diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, từ
tháng 7/2017, NHNN đã ban hành Quyết định số 1425/QĐ-NHNN điều chỉnh
giảm 0,5% mức lãi suất này từ 7%/năm xuống còn 6,5%/năm nhằm tạo điều
kiện hơn nữa cho đối tượng DNNVV tiếp cận vốn tín dụng, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2018, NHNN tiếp tục chỉ đạo sát sao đối với các

TCTD, yêu cầu kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy
động vốn và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã được NHNN thông báo, đảm bảo
tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp
cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân.
-

3


+ Chính sách hỗ trợ kết nối doanh nghiệp - ngân hàng: Đây là chương
trình mang tính thực tiễn cao, nhằm kết nối trực tiếp doanh nghiệp với ngân
hàng, thông qua đó, giúp cho doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi trong quá trình
vay vốn. Chỉ tính đến cuối năm 2017 đã có gần 1070 hội nghị đối thoại giữa
ngân hàng và các cấp chính quyền với doanh nghiệp được tổ chức tại 63 tỉnh,
thành phố của cả nước và đã tháo gỡ khó khăn cho hơn 130.000 doanh nghiệp
với nhiều hình thức. Tổng số tiền các ngân hàng cam kết cho vay mới đạt
khoảng 1.700.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay mới phổ biến ở mức 6-8%/năm
đối với các khoản vay ngắn hạn, 8-10%/năm đối với các khoản vay trung, dài
hạn. Các ngân hàng thực hiện gia hạn nợ, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, nâng hạn
mức tín dụng, điều chỉnh giảm lãi suất cho các khoản vay cũ của khách hàng,…
với dư nợ trên 95.000 tỷ đồng. Hoạt động này vẫn tiếp tục được triển khai trong
năm 2018 và đầu năm 2019 như một hoạt động định kỳ, thường xuyên của
ngành ngân hàng. Thông qua đó, đã tạo nên những hiệu ứng tích cực trong cả
nước.
+ Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ
của các TCTD: NHNN đã chỉ đạo các TCTD xây dựng quy trình thu thập, khai
thác thông tin về đánh giá tín nhiệm, hoạt động của khách hàng để nâng cao
hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, qua đó
tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; tiếp tục nghiên
cứu, xây dựng các sản phẩm, chương trình tín dụng với lãi suất hợp lý, đa dạng

hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; đơn giản hóa thủ tục hành chính để tăng
khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các NHTM đã chú trọng triển khai các dịch vụ tư vấn, hỗ
trợ đào tạo dành cho DNNVV thông qua các chính sách cụ thể như: ban hành hệ
thống các tài liệu tư vấn, hỗ trợ DNNVV trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh bao gồm hệ thống các văn bản pháp lý, hỗ trợ lập dự án đầu
tư/phương án đầu tư kèm theo cẩm nang hướng dẫn chi tiết, mẫu biểu, hỗ trợ
lập hồ sơ vay vốn ngân hàng…; phối hợp các đơn vị chức năng tổ chức các
khóa đào tạo lập kế hoạch kinh donah, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả
và tư vấn các giải pháp tài chính cho DNNVV; đẩy mạnh hợp tác với Hiệp hội
DNNVV Việt Nam hỗ trợ DNNVV tiếp cận các chương trình tín dụng ưu đãi;
hợp tác cùng Trung tâm giao dịch CNTT&TT Hà Nội – Sở Thông tin và truyền
thông Hà Nội xây dựng Cổng thông tin hỗ trợ DNNVV, trong đó cung cấp
những thông tin tin cậy kết hợp tư vấn trực tuyến cho DNNVV về môi trường
pháp luật, thủ tục hành chính, thông tin thị trường, các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng…
+ Nâng cao chất lượng hạ tầng thông tin tín dụng: Thực hiện Đề án
phát triển Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (Trung tâm TTTD)
được phê duyệt tại Quyết định số 1033/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 5 năm 2014,
4


NHNN đã triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu thông tin
tín dụng quốc gia cả về chiều rộng và chiều sâu; phát triển hệ thống sản phẩm,
dịch vụ đa dạng; cải tiến quy trình nghiệp vụ, nâng cấp hệ thống công nghệ
thông tin. Đến nay, Trung tâm TTTD Quốc gia đã hoàn thành xây dựng mô hình
xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế và từ tháng 7/2017 đã
chính thức cung cấp sản phẩm xếp hạng tín dụng mới tới các TCTD, qua đó
từng bước cải thiện, minh bạch hóa thông tin tín dụng, tạo điều kiện để khách
hàng vay được tiếp cận tín dụng bình đẳng trên thị trường tín dụng.

3. Thực trạng tiếp cận tín dụng ngân hàng của DNNVV Việt Nam
Với việc thực hiện đồng bộ và quyết liệt những chính sách như trên, việc
tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV đã liên tục được cải thiện thể hiện
trên cả hai khía cạnh: tổng dư nợ tín dụng cho DNNVV và tỷ lệ DNNVV tiếp
cận được vốn ngân hàng.
3.1. Dư nợ tín dụng cho DNNVV trong tổng tín dụng cho nền kinh tế
Các chính sách hỗ trợ như trên đã tạo điều kiện để giúp các DNNVV tiếp
cận tín dụng ngân hàng thuận lợi hơn. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối
với DNNVV đã từng bước được cải thiện rõ rệt, từ mức 2,44% năm 2013 đã đạt
tốc độ tăng trưởng 6,1% năm 2015, 13,21% năm 2017 và 13,5% năm 2018.
Tính đến 31/12/2018 dư nợ tín dụng đối với DNNVV đạt 1,3 triệu tỷ đồng,
chiếm 18% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
3.2. Tỷ lệ DNNVV tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng thông qua các báo
cáo khảo sát
Các kết quả khảo sát từ phía các DNNVV cho thấy rõ hơn tỷ lệ doanh
nghiệp tiếp cận được vốn tín dụng. Cụ thể như sau:
a) Kết quả khảo sát của Ngân hàng thế giới
Dữ liệu thống kê từ Ngân hàng thế giới (Enterprise survey) cho thấy tỷ lệ
doanh nghiệp Việt Nam có khoản vay ngân hàng đạt 40,8% cao hơn so với
trung bình thế giới (31,6%), trung bình khu vực châu Á và Thái Bình Dương
(29,2%) và cao hơn nhiều nước trong cùng khu vực (xem thêm bảng 1). Đồng
thời tỷ lệ doanh nghiệp bị từ chối cho vay của Việt Nam cũng ở mức thấp
(5,6%), thấp hơn Ấn Độ (12,9%), Thái Lan (33,8%) và Philipines (14,8%),
nhưng cao hơn Indonesia (0,1%) và Malaysia (0%).
Bảng 1: Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng tại Việt Nam và các
nước

Quốc gia

Việt Nam


Tỷ lệ doanh nghiệp có
khoản vay tại ngân
hàng
40,8
5

Tỷ lệ doanh nghiệp bị
từ chối khi nộp hồ sơ
xin vay
5,6


Ấn Độ
Indonesia
Malaysia
Philipines
Thái Lan
Trung bình Thế giới
Trung bình khu vực
Châu Á Thái Bình
Dương

21,3
27,4
31,9
29,9
15,5
31,6
29,2


12,9
0,1
0
14,8
33,8
11,0
6,7

Nguồn: Ngân hàng thế giới, Enterprise Survey data
b) Kết quả khảo sát của các tổ chức trong nước
Vấn đề tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp cũng là vấn đề được quan tâm
của rất nhiều nhà nghiên cứu và cơ quan xây dựng chính sách ở trong nước.
Trong đó, tại bài viết này, tác giả chọn lựa sử dụng hệ thống báo cáo định kỳ
của các cơ quan như Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), Viện
nghiên cứu kinh tế trung ương (CIEM) để có được đánh giá trong một trong một
thời gian dài hơn đối với vấn đề này. Qua đó cho thấy:
- Tỷ lệ doanh nghiệp có tiếp cận các khoản vay ngân hàng tại các báo cáo
nghiên cứu là khác nhau do quy mô và cách thức lựa chọn mẫu nghiên cứu. Ví
dụ như năm 2015, theo báo cáo của VCCI tỷ lệ doanh nghiệp có khoản vay từ
ngân hàng lần lượt đạt 40% đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, 62% đối với doanh
nghiệp nhỏ, 74% đối với doanh nghiệp vừa và 81% đối với doanh nghiệp lớn.
Tuy nhiên, cũng trong năm 2015, báo cáo khảo sát của CIEM lại cho thấy tỷ lệ
doanh nghiệp có nộp hồ sơ cho các khoản vay chính thức chỉ ở mức 25%.
- Tuy nhiên, các báo cáo này đều cho thấy trong giai đoạn 2007 – 2015 tỷ
lệ doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay chính thức có xu hướng giảm trong giai
đoạn 2010 - 2013 nhưng đã có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2014, 2015.
Theo thống kê của VCCI, tỷ lệ doanh nghiệp có khoản vay từ ngân hàng đã
giảm liên tục trong các năm 2010, 2011, 2012, tăng trở lại vào các năm 2013,
2014, 2015. Tuy nhiên, đến năm 2015 tỷ lệ này vẫn thấp hơn năm 2010 ở cả

doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp
lớn (xem thêm bảng 2). Kết quả điều tra của CIEM cũng cho thấy mặc dù tỷ lệ
doanh nghiệp có nộp hồ sơ cho các khoản vay phi chính thức liên tục giảm
nhưng tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc có được khoản vay đã được
cải thiện theo các báo cáo của CIEM trong các năm 2013-2015 (xem thêm bảng
3).
Bảng 2: Tỷ lệ doanh nghiệp có khoản vay từ ngân hàng (2010 – 2015)
Năm

DN siêu nhỏ

DN nhỏ

DN vừa
6

DN lớn


2010
2011
2012
2013
2014
2015

48
44
37
38

38
40

66
62
57
57
60
62

79
72
70
69
72
74

86
80
72
70
76
81

Nguồn: VCCI (2017), Môi trường kinh doanh đối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa Việt Nam
Bảng 3: Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay chính thức
Tỷ lệ doanh nghiệp có nộp hồ
sơ cho các khoản vay chính
thức

2007
2009
2011
2013
2015

37,1
36,5
29,4
25,8
24,6

Tỷ lệ doanh nghiệp gặp vấn đề
trong việc có được khoản vay
(trong số các doanh nghiệp nộp
hồ sơ)
20,5
20,3
27,8
23,9
15,0

Nguồn: CIEM, Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam, kết quả
điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa các năm 2009, 2011, 2015
Như vậy có thể thấy, tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng có
thể thay đổi ở các thời điểm khác nhau, phụ thuộc rất nhiều vào tính chất hoạt
động của nền kinh tế thuận lợi hay không thuận lợi. Tuy nhiên, xu hướng chung
là trong những năm gần đây tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận được với tín dụng ngân
hàng đã gia tăng và ngày càng được cải thiện.
4. Những hạn chế trong tiếp cận vốn tín dụng của DNNVV hiện nay và

nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, có thể thấy rằng việc tiếp
cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất
định. Có thể kể đến như là:
- Vẫn có sự chênh lệch giữa tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận được vốn tín
dụng ngân hàng trong nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ,
so với nhóm doanh nghiệp lớn. Điều này cho thấy quy mô doanh nghiệp vẫn là
một trong những yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng của doanh
nghiệp, và do vậy, sẽ tạo nên những bất lợi nhất định cho DNNVV. Để giải
quyết vấn đề này rõ ràng cần giảm tỷ trọng của nhân tố quy mô doanh nghiệp,
trong khi đó gia tăng tỷ trọng của các nhân tố như năng lực tài chính, hiệu quả
7


hoạt động… trong đánh giá rủi ro, thẩm định tín dụng, nhằm đánh giá chính xác
khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Thay đổi quan điểm của TCTD về mức độ
rủi ro của DNNVV, cũng như xây dựng các quy trình và phương thức thẩm định
tín dụng hiệu quả hơn cho khách hàng DNNVV là một yêu cầu quan trọng để
các TCTD có thể phát huy hiệu quả hoạt động tín dụng cho DNNVV.
- Vấn đề tài sản đảm bảo: đa số các khoản vay của DNNVV vẫn yêu cầu
tài sản đảm bảo, đặc biệt là tài sản đảm bảo là bất động sản. Trong khi đó thì các
doanh nghiệp này thường có quy mô nhỏ, nhất là các doanh nghiệp siêu nhỏ với
giá trị nhà xưởng, dây chuyền sản xuất không đáng kể. Do đó, mở rộng danh
mục tài sản có thể làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay tại TCTD, và phát
triển các sản phẩm cho vay không có tài sản đảm bảo phù hợp với yêu cầu về
quản trị rủi ro tại TCTD cũng là những vấn đề cần bàn đến.
- Vấn đề về thủ tục vay: mặc dù các quy định pháp lý mới đã được ban
hành gần đây (như thông tư số 39/2016/TT-NHNN) trong đó cho thấy xu hướng
giảm đi các thủ tục hành chính không cần thiết trong quá trình cấp tín dụng của
TCTD cho khách hàng. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn cho rằng thủ tục đi

vay còn rườm ra, quy trình và thời gian thẩm định lâu, chất lượng phục vụ của
nhân viên ngân hàng cũng là một vấn đề được nhắc đến.
- Đối với vấn đề lãi và phí: việc giảm lãi và phí sẽ giúp các doanh nghiệp
giảm chi phí vốn. Lãi suất cho vay đối với các DNNVV có thể giảm khi mặt
bằng lãi suất trong nền kinh tế giảm, thông qua ổn định lạm phát ở mức thấp, và
tiếp tục giảm lãi suất huy động để giảm giá vốn đầu vào cho các TCTD.

5. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng
của DNNVV trong giai đoạn hiện nay
Trên cơ sở một số vấn đề còn hạn chế như đã phân tích ở trên, các khuyến
nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho DNNVV trong
thời gian tới cần trập trung vào một số giải pháp như sau:
a) Giải pháp từ phía các TCTD
- Phát triển hệ thống TCTD an toàn, lành mạnh và đa dạng. Trong đó, rõ
ràng cần nâng cao hơn nữa vai trò của các định chế tài chính phi ngân hàng như
các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, hệ thống các quỹ tín dụng nhân
dân, các tổ chức tài chính vi mô để cung cấp đến DNNVV đa dạng hơn các sản
phẩm tín dụng, cũng như bổ sung các thị trường mà NHTM không hướng tới.
8


- Phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng gắn liền với việc nâng cao năng
lực quản trị rủi ro, cải thiện phương thức chấm điểm tín dụng nhằm xây dựng
một phương thức chấm điểm tín dụng hiệu quả và phù hợp với những đặc thù
của đối tượng khách hàng là DNNVV.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại sẽ là một trong những
động lực quan trọng giúp các TCTD có thể tạo nên những đột phát trong hoạt
động quản trị cũng như cung ứng dịch vụ, qua đó, nâng cao chất lượng dịch vụ
cung cấp cũng như rút ngắn thời gian và giảm chi phí giao dịch. Đây sẽ là một
nhân tố có thể tạo nên những kết quả đột phá trong việc cung cấp dịch vụ ngân

hàng nói chung và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nhóm khách hàng
DNNVV nói riêng.
b) Giải pháp từ phía DNNVV
- Minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp là một trong những vần rất quan
trọng cần được đặt ra để có thể thúc đẩy việc tiếp cận tín dụng ngân hàng của
DNNVV. Trong đó, việc có thể truy cập vào các cơ sở dữ liệu quản lý doanh
nghiệp như là thông tin đăng ký doanh nghiệp, thông tin thuế, hải quan… sẽ là
những thông tin hữu ích để TCTD có thể đưa vào mô hình chấm điểm tín dụng
cho khách hàng, đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng. Bên cạnh đó, gia tăng thanh
toán không dùng tiền mặt cũng góp phần minh bạch hóa hoạt động của doanh
nghiệp, giúp TCTD có thể có được thông tin chính xác, nhanh chóng. Việc tạo
điều kiện để TCTD tiếp cận được các nguồn thông tin như trên sẽ là tiền đề
quan trọng để các TCTD có thể đẩy mạnh hoạt động cung cấp tín dụng cho
DNNVV.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, tăng cường năng lực quản
trị của DNNVV vẫn là nền tảng cơ bản nhất để doanh nghiệp có thể tiếp cận
được vốn tín dụng ngân hàng. Vì suy cho cùng, TCTD cũng là đơn vị kinh
doanh, dựa trên việc thu hút tiền gửi và cấp tín dụng để có được doanh thu và
lợi nhuận. Do đó, TCTD phải đảm bảo được sự an toàn và hiệu quả của đồng
vốn. Hơn thế nữa, khi cơ chế cấp tín dụng đảm bảo được việc cấp tín dụng dựa
trên hiệu quả thực sự của các phương án kinh doanh thì chính hệ thống tín dụng
lại trở thành một bộ lọc hiệu quả giúp cho phân bổ hiệu quả nguồn vốn trong
nền kinh tế.
c) Giải pháp từ phía cơ quan quản lý nhà nước
Để có thể thúc đẩy, gia tăng khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của
doanh nghiệp, trước hết cần có sự chủ động và phát triển từ chính các chủ thể
trong cuộc là doanh nghiệp và TCTD như đã chỉ ra ở trên. Bên cạnh đó, các cơ
quan quản lý nhà nước cần đóng vai trò thúc đẩy và tạo môi trường thuận lợi để
9



các thành tố bên cung và bên cầu cùng phát triển, kết nối và đi đến được điểm
chung (cung gặp cầu). Để thực hiện được vai trò đó, rõ ràng như quan điểm
Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã chỉ ra, cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cơ
quan, bộ ngành, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể
có liên quan. Trong đó cần chú trọng:
- Giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, ổn định lạm phát, tỷ giá vẫn là
điều kiện quan trọng để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của cả TCTD và
doanh nghiệp. Trong môi trường ổn định, các TCTD cũng có điều kiện để có thể
gia tăng huy động vốn, nhất là vốn dài hạn. Đồng thời các doanh nghiệp cũng
có cơ sở ổn định hoạt động kinh doanh, cũng như xây dựng các kế hoạch kinh
doanh dài hạn, trên cơ sở đó, các TCTD cũng thuận lợi hơn trong việc thẩm
định để cho vay dài hạn.
- Thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, gia tăng khả năng để
DNNVV có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán bao gồm cả thị trường
cổ phiếu và trái phiếu, qua đó giảm dần gánh nặng đối với thị trường tín dụng,
phát triển cân đối thị trường tài chính quốc gia.
- Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động tín dụng,
đồng thời nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Các vấn đề về tài sản đảm bảo,
xử lý tài sản đảm bảo đã được các cơ quan chức năng vào cuộc để xử lý trong
thời gian gần đây, tuy nhiên, sẽ cần được đẩy mạnh hơn nữa để tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp và TCTD trong quá trình đi vay và cho vay.
- Tiếp tục rà soát cải thiện thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng các
giải pháp công nghệ thông tin hiện đại nhằm rút ngắn thời gian và giảm chi phí
giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho khách.
- Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động kết nối ngân hàng và doanh nghiệp.
- Thúc đẩy việc minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp thông qua các quy
định về minh bạch thông tin, xây dựng và nâng cấp các hệ thống cơ sở dữ liệu
thông tin về doanh nghiệp, và tạo điều kiện thuận lợi để các TCTD có thể truy
cập tra cứu trên các cơ sở dữ liệu này.


10



×