Tải bản đầy đủ (.doc) (172 trang)

Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.89 KB, 172 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH HOI AN

CƠ CHế PHáP Lý KIểM SOáT QUYềN LựC
NHà NƯớC ĐốI VớI VIệC THựC HIệN QUYềN
HàNH PHáP ở VIệT NAM

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT

H NI - 2019


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH HOI AN

CƠ CHế PHáP Lý KIểM SOáT QUYềN LựC
NHà NƯớC ĐốI VớI VIệC THựC HIệN QUYềN
HàNH PHáP ở VIệT NAM

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT

Mó s: 62 38 01 01

Ngi hng dn khoa hc: GS,TS TRN NGC NG

H NI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hoài An


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án
1.3. Một số nhận xét về các công trình nghiên cứu đã tiếp cận và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục được nghiên cứu trong luận án
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN
QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp
2.2. Các yếu tố cấu thành của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với việc thực hiện quyền hành pháp
2.3. Các điều kiện bảo đảm cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với việc thực hiện quyền hành pháp
2.4. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện
quyền hành pháp ở một số nước trên thế giới và những giá trị tham

khảo cho Việt Nam
Chương 3: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ
CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1. Sự hình thành và phát triển cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
3.2. Thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
3.3. Thực trạng vận hành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối
với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH
PHÁP Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm và những yêu cầu đặt ra đối với việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
4.2. Các giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
1
8
8

21
30
35
35
52
66

72
86
86
97
113

124

124
132
152
155
156
167


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GS&PBXH :
HĐND
:

Giám sát và phản biện xã hội
Hội đồng nhân dân


HĐBT

:

Hội đồng Bộ trưởng

HP

:

Hiến pháp

KSQL

:

Kiểm soát quyền lực

MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc

NNPQ

:

Nhà nước pháp quyền


QĐHC

:

Quyết định hành chính

QH

:

Quốc hội

QPPL

:

Quy phạm pháp luật

QLNN

:

Quản lý nhà nước

TAND

:

Tòa án nhân dân


TCN

:

Trước công nguyên

UBTVQH

:

Ủy ban thường vụ Quốc hội

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực nhà nước được sinh ra để giữ gìn trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội

phát triển. Quyền lực nhà nước là một thứ được coi là có sức mạnh để bảo đảm hoạt
động hướng đích của xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội, phục vụ lợi ích của cộng
đồng và của mỗi con người. Tuy nhiên, các nhà khoa học chính trị, pháp lý trong lịch sử
cũng đã chứng minh rằng, khuynh hướng tha hóa quyền lực có thể sẽ xảy ra trong việc
tổ chức và vận hành của nó nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ. Nhà nước là trung tâm
của quyền lực chính trị, nắm giữ những nhân tài vật lực to lớn nhất với phạm
vi quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này tạo ra nguy cơ nhà
nước có thể vượt quá các phạm vi, giới hạn quyền lực mà nhân dân giao phó cho nhà
nước. Do đó, sự lạm dụng quyền lực nằm ngay bên trong nhà nước chứ không phải sự
tương tác từ bên ngoài. Do tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước như vậy, nên ngay
từ khi ra đời cho tới nay, vấn đề kiểm soát quyền lực (KSQL) nhà nước luôn được đặt
ra với những phương thức thực hiện khác nhau. Tóm lại, việc KSQL là một tất yếu
khách quan nhằm tránh cho quyền lực không trở thành tuyệt đối.
Quyền hành pháp là một bộ phận tạo thành cơ cấu quyền lực nhà nước. Trong
cơ cấu quyền lực nhà nước quyền hành pháp là khái niệm dùng để chỉ một bộ phận của
quyền lực nhà nước - quyền thi hành pháp luật, phản ánh mối quan hệ giữa các bộ phận
cấu thành quyền lực nhà nước. Chủ thể của quyền hành pháp là Chính phủ (cơ quan
hành pháp ở trung ương) với tính chất điển hình của cơ quan này là thực hiện hoạt
động chấp hành và điều hành các hoạt động của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, các chủ
thể thực hiện quyền hành pháp không chỉ có Chính phủ, các cơ quan hành pháp ở trung
ương, mà một số các cơ quan nhà nước ở địa phương cũng thực hiện quyền lực này.
Quyền hành pháp có tính độc lập tương đối so với các nhánh quyền lực khác. Với vai
trò, vị trí của mình, hành pháp không đơn thuần chỉ là bộ phận được tổ chức ra để thực
thi một cách thụ động các quyết định của cơ quan lập pháp, mà còn là nhánh quyền lực
có ảnh hưởng rất lớn đến các nhánh quyền lực khác. Phạm vi hoạt động của quyền
hành pháp rất rộng với những nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội như: thu thuế; hoạch định, thực thi chính sách công; thực thi pháp luật;


2

cung ứng dịch vụ công... Gắn với chức năng này là các quyền năng rất lớn, nếu
không được kiểm soát hiệu quả, đây là nguyên nhân căn bản của tệ tham nhũng,
quan liêu, cửa quyền, hách dịch trong hoạt động của cơ quan hành pháp mà xã hội
luôn phải đối mặt. Hoạt động hiệu quả của bộ máy hành pháp mới đem lại tính hiệu
lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, qua đó thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội; ngược lại sự trì trệ, yếu kém, lạm dụng quyền lực trong hoạt động
của bộ máy hành pháp sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quyền hành pháp có khả năng phản ánh một cách chính xác nhất những nhu
cầu của xã hội. Quyền hành pháp không là việc thi hành pháp luật mà nó còn bao
gồm cả việc quản lý, điều hành, lãnh đạo các hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đây là một trong các nhánh quyền lực có sự đụng chạm mạnh
nhất tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các chủ thể khác trong quá trình
thực thi và quản lý. Đây cũng là nhánh quyền lực có bộ máy đồ sộ nhất bao gồm các
cơ quan sức mạnh như quân đội, cảnh sát, chi tiêu ngân sách quốc gia nhiều nhất…
Vì vậy, việc KSQL nhà nước đối với việc thực thi quyền hành pháp là một đòi hỏi
khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ), bảo đảm quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Kiểm soát quyền hành pháp là cơ chế chính trị - pháp
lý được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân thực hiện thông qua các phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm
toán, tài phán, phản biện xã hội,... nhằm bảo đảm quyền hành pháp được thực hiện
liên tục, đúng đắn và đầy đủ theo quy định của HP, pháp luật; phát huy hiệu quả,
hiệu lực trong tổ chức và hoạt động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) chỉ ra rằng tình trạng quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy
đủ, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được
đẩy lùi. Trong quá trình thực thi công vụ, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhiều cán
bộ, công chức hành pháp đã đưa ra những quyết định sai trái làm ảnh hưởng đến lợi ích
của nhân dân, điều này gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế - xã hội. Hơn
nữa, trong thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ một số cơ quan nhà nước đã hành
động mang tính cường quyền, trái pháp luật, áp đặt nhân dân, vi phạm quyền làm chủ

của nhân dân, gây nên nhiều bức xúc trong dư luận xã


3
hội. Vì thế, việc nghiên cứu cơ chế kiểm soát quyền hành pháp vì thế đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành pháp nói riêng.
Dưới ánh sáng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, một số công trình
khoa học đã bàn về KSQL nhà nước trong xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam" để
nghiên cứu, viết luận án tiến sĩ Luật học với mong muốn làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận và thực tiễn về xây dựng cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực hiện
quyền hành pháp, góp phần đưa Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống, đảm bảo cho
nhánh quyền lực quan trọng nhất này được kiểm soát chặt chẽ nhằm xây dựng và
hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam thật sự của dân, do dân và vì dân.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng
cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp. Trên cơ
sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng cơ chế pháp lý
KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, Luận án này xác định các
nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau:
- Đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án bao
gồm: các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước và cơ chế pháp lý KSQL
nhà nước; cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành
pháp ở trong nước và nước ngoài và những vấn đề liên quan, từ đó, rút ra
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận việc xây dựng cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với
việc thực hiện quyền hành pháp, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành cơ
chế, vai trò, mục đích, tiêu chí xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền hành
pháp; nội dung và phương thức hoạt động của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền hành pháp;
khảo sát cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành
pháp ở một số nước và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.


4
- Thông qua việc phân tích các thể chế pháp lý từ năm 1945 đến nay mà
cụ thể là từ Hiến pháp 1946, luận án đã khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện
quyền hành pháp ở Việt Nam; đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các
thiết chế và các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền hành pháp,
đồng thời, chỉ rõ hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó.
- Đề xuất các quan điểm định hướng và các giải pháp để hoàn thiện cơ
chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành
pháp ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, cũng
như tham chiếu một số kinh nghiệm quốc tế. Từ đó, luận án luận chứng cơ sở
khoa học và đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu về cơ chế pháp lý KSQL nhà
nước từ năm 1945, trong đó, tập trung nghiên cứu giai đoạn từ khi ban hành
Hiến pháp 2013 đến nay.
- Phạm vi về nội dung: Cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực

thi quyền hành pháp có đối tượng nghiên cứu rất rộng …Luận án này chỉ tập
trung bàn về cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với chủ thể thực hiện quyền lực
nhà nước là Chính phủ - thiết chế đứng đầu hệ thống các cơ quan thực hiện
quyền hành pháp mà không có điều kiện mở rộng đối với các chủ thể khác trong
việc thực thi quyền hành pháp ở Việt Nam như chính quyền địa phương hay việc
thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức và hoạt động lập pháp hay tư pháp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân; cơ sở lý


5
luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật. Đề tài cũng có sự tham khảo tư duy lý luận về kiểm soát quyền lực của các
nhà tư tưởng tư sản tiến bộ trên thế giới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, Luận án sử dụng:
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
triết học Mác-Lênin để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài. Trên
từng phương diện nghiên cứu cụ thể, Luận án sử dụng các phương pháp sau đây:

+ Phương pháp phân tích tài liệu. Phương pháp này được áp dụng để
phân tích các tài liệu bao gồm: các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình khoa học đã công bố, các
số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các bài báo,
tạp chí, các kết luận, các nhận định, phân tích đã được các tác giả khác thực
hiện và công bố ở các công trình khác có liên quan (Chương 1,2).
+ Phương pháp chuyên gia được sử dụng để thu thập thông tin và ý kiến
của những chuyên gia, các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu về các chuyên

ngành chính trị học, luật học, xã hội học…về các vấn đề về kiểm soát quyền lực,
cơ chế kiểm soát quyền lực, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam,
các vấn đề lý luận nhà nước và pháp luật, về Hiến pháp và chủ nghĩa lập hiến…
nhằm đánh giá thực trạng vận hành của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp (Chương 3).
+ Phương pháp thống kê được áp dụng để thống kê số liệu, phân tích và
đánh giá thực trạng về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam (Chương 3).
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các số liệu, tri thức có được
từ việc phân tích và dẫn nguồn các tài liệu, hỏi ý kiến chuyên gia. Phương pháp này
được áp dụng để nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đưa ra những đề
xuất của tác giả luận án ở chương 3 về quan điểm, giải pháp hoàn thiện.

+ Phương pháp luật học so sánh được sử dụng để nghiên cứu và so sánh
mô hình, kinh nghiệm của một số nước, từ đó rút ra những giá trị tham khảo
cho Việt Nam (Chương 1).


6
+ Phương pháp quy nạp và diễn dịch để khái quát hóa hoặc cụ thể hóa
nội dung, đối tượng, vấn đề nghiên cứu nhằm đảm bảo tính chính xác, khách
quan đối với việc xây dựng các vấn đề có tính lý luận và thực tiễn của luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án "Cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền
hành pháp ở Việt Nam" có một số đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, luận án đã xây dựng các yếu tố cơ bản về cơ sở lý luận của cơ
chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành
pháp ở Việt Nam như: khái niệm quyền hành pháp; khái niệm cơ chế pháp lý và
cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành
pháp; đặc điểm, các yếu tố cấu thành cơ chế; mục đích, vai trò, các điều kiện

đảm bảo và các tiêu chí tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp; nội dung và
phương thức vận hành của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
việc thực hiện quyền hành pháp; khảo sát và so sánh với cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở một số nước
trên thế giới và rút ra được những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Thứ hai, luận án đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp từ
năm 1945, trong đó, nội dung chủ yếu thông qua việc phân tích các thể chế từ
khi có Hiến pháp 1946 đến nay; đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của các
thiết chế và các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền hành pháp
trong quá trình vận hành của nó ở các giai đoạn lịch sử nhất định được chia tách
một cách tương đối qua 4 bản Hiến pháp Việt Nam; chỉ rõ những hạn chế và
nguyên nhân hạn chế của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay. Đây là những cơ sở thực
tiễn quan trọng làm căn cứ để đưa ra những quan điểm có tính chất định hướng
và các giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu nói trên, Luận án đề xuất các quan điểm
và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.


7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án gớp phần hình thành cơ sở khoa học về cơ
chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam. Trên
cơ sở đó, nâng cao nhận thức lý luận và thực tiễn vận hành có hiệu quả cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp theo tinh thần và
nội dung của Hiến pháp năm 2013, trong điều kiện xây dựng Chính phủ liêm chính,

kiến tạo theo yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN đang tiến hành ở nước ta.

- Luận án là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo tin cậy, góp phần phục vụ
cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong các cơ sở giáo dục và
đào tạo chuyên ngành luật học, xã hội học và chính trị học ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 4 chương, 12 tiết và các nội dung khác gồm phần mở đầu,
kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến
luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ kiểm soát quyền lực nhà nước Bàn về
giới hạn quyền lực, phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, các tác
giả đã đưa ra các quan điểm và nhận định: quyền lực công phải bị giới hạn, kiểm
soát và giám sát để nhằm ngăn chặn sự tha hóa quyền lực, ngăn chặn tệ tham
nhũng, lạm quyền trong điều hành. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu tiếp cận

dưới góc độ này có thể kể đến các công trình sau:
Trong sách chuyên khảo: "Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với
việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992" của GS.TS Trần Ngọc Đường [40] đã nghiên cứu
có hệ thống về lý luận tổ chức thực thi quyền lực nhà nước mà trung tâm là phân
công, phối hợp và KSQL nhà nước. Đây là công trình quan trọng, hữu ích giúp
nghiên cứu sinh thực hiện đề tài của mình. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, có thể

tiếp tục kể đến một số công trình của tác giả Trần Ngọc Đường như: "Quyền giám
sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát tối cao của các cơ quan Quốc hội";
"Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ về việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội" …với tư cách là là những nghiên
cứu chuyên sâu các mặt của kiểm soát quyền lực nhà nước, là tư liệu quý báu để
nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển trong nghiên cứu đề tài này.

Cũng nghiên cứu về cơ chế KSQL nhà nước, trong nghiên cứu: "Giám sát
và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay" của
GS.TSKH Đào Trí Úc, GS.TS Võ Khánh Vinh [124] chủ biên đã tập hợp nhiều
bài viết của các nhà khoa học về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Nghiên cứu này đã khẳng định tính tất yếu khách quan của giám sát quyền lực
nhà nước. Trong công trình này, các tác giả đã có sự phân biệt giữa giám sát
mang tính quyền lực nhà nước (giám sát bên trong) và giám sát xã hội (giám sát
bên ngoài). Tuy nhiên, công trình này chưa bàn sâu về cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp.


9
Trong cuốn: "Quyền lực nhà nước và quyền công dân" của Đinh Văn Mậu
[62] khẳng định: Gốc của quyền lực là của nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực
của mình thông qua các cơ quan nhà nước. Đây chính là một hình thức trao quyền
cho nhà nước thông qua một cơ chế pháp lý cụ thể. Nhà nước do nhân dân thiết lập
và trao quyền lực, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực nhà nước. Nhà
nước khi sử dụng quyền lực sẽ nảy sinh xu hướng lộng quyền và lạm quyền. Tuy
nhiên, công trình chưa nghiên cứu sâu vấn đề cơ chế pháp lý nói chung, cơ chế
KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam nói riêng.
Trong tác phẩm: "Sự hạn chế quyền lực Nhà nước" của GS.TS. Nguyễn Đăng
Dung [16] cho rằng sự hạn chế quyền lực nhà nước như là biểu hiện khách quan của
việc tổ chức NNPQ dân chủ. Theo tác giả, việc phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa

các nhánh quyền lực theo chiều dọc và theo chiều ngang cùng với một cơ chế giám
sát, kiểm tra sẽ góp phần để hạn chế quyền lực. Để làm điều này, cần có một số
chính sách cụ thể như: Tổ chức lại cấu trúc quyền lực nhà nước; sự công khai, minh
bạch của chính quyền; hoạt động tự do báo chí; bỏ phiếu trưng cầu ý dân; tòa án
độc lập… Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tác dụng gợi mở đề NCS tiếp
tục nghiên cứu về cơ chế KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp và
trách nhiệm của Nhà nước trong tạo lập cơ chế đó.

Trong công trình nghiên cứu: "Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước"
của tác giả PGS.TS Thái Vĩnh Thắng [106] đã viện dẫn quan điểm của Jean
Jacques Rousseau về KSQL nhà nước và khẳng định tính khoa học của những
nguyên lý này. Tác giả đã phân tích, lý giải cách thức tổ chức và KSQL nhà nước
trong các kiểu nhà nước, mô hình nhà nước phong kiến Việt Nam và mô hình
nhà nước từ Hiến pháp 1946 đến nay; nghiên cứu về tổ chức và KSQL nhà nước
của Nga và các nước Đông Âu qua các thời kỳ, có sự so sánh, đối chiếu, khảo
nghiệm. Đây là công trình khoa học có chất lượng và ý nghĩa đối với việc rút ra
các nguyên lý, kinh nghiệm về tổ chức và KSQL nhà nước. Tuy vậy, tác giả chưa
đề cập đến vấn đề cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực
hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
Trong luận án tiến sĩ Luật học: "Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức
năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của tác giả
Trương Thị Hồng Hà [45] đã phân tích về cơ chế, làm sáng tỏ khái niệm cơ chế


10
pháp lý, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố tạo nên
hệ thống cơ chế pháp lý. Đây là công trình có ý nghĩa tham khảo về mặt lý luận
cho việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước bằng thực hiện dân chủ đại diện ở
Việt Nam.Tiếp cận dưới góc độ khoa học chính trị, cũng bàn về chức năng giám
sát của Quốc hội, trong nghiên cứu: "Thực hiện chức năng giám sát quyền lực

nhà nước của Quốc hội Việt Nam hiện nay" của tác giả Vũ Thị Mỹ Hằng [47] đã
phân tích làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về chức năng giám sát tối cao của Quốc
hội Việt Nam; đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế,
tồn tại đối với việc thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội và đề xuất một số
phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát tối cao của
Quốc hội trên cơ sở nghiên cứu việc thực hiện chức năng giám sát quyền lực nhà
nước của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong luận án tiến sĩ Chính trị học: "Vấn đề tập trung và phân quyền
trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước" của tác giả Phạm Thế Lực [58] đã
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tập trung, thống nhất, phân công quyền lực
và có sự so sánh đối chiếu với một số mô hình điển hình trên thế giới, trên cơ sở
đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Mặc dù đã phân tích làm rõ
mối quan hệ giữa tập trung và phân quyền nhưng luận án vẫn chưa đề cập, giải
quyết vấn đề cơ chế KSQL đối với quyền hành pháp; đặc biệt chưa đưa ra được
các giải pháp khả thi để kiểm soát hiệu quả quyền hành pháp.
Trong khuôn khổ đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tổ chức
và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam",Viện Nhà nước và pháp luật (Viện
Khoa học xã hội Việt Nam), Hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
cơ bản về tổ chức và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của PGS.TS
Phạm Hữu Nghị [66]. Tại hội thảo, đã có các tham luận liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như: "Quan niệm về tổ chức và KSQL; sự cần thiết KSQL nhà nước"; "Quan
niệm về cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước"; "Sự cần thiết phải
giới hạn quyền lực nhà nước; quyền lực nhà nước và tự do cá nhân"; "Tư tưởng về
tổ chức và KSQL nhà nước trong lịch sử nhân loại"; "Giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân"...


11

GS.TSKH. Đào Trí Úc trong nghiên cứu: "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực chính trị, đảm bảo dân chủ và kỷ luật
trong hệ thống chính trị" [127], đã phân tích làm rõcác yêu cầu về lý thuyết và
thực tiễn vận hành nhằm xây dựng cơ chế KSQL nhà nước ở Việt Nam. Trên cơ
sở phân tích sâu sắc về thực trạng của cơ chế này, đề tài đã đề ra các giải pháp
hoàn thiện về cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhằm mục đích
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Sách "Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam" của
tác giả Nguyễn Long Hải [46]. Công trình này đã khái quát quá trình hình thành
và phát triển thể chế pháp lý ở Việt Nam; đánh giá thực trạng về thể chế pháp lý
KSQL nhà nước hiện nay; phân tích và đưa ra các giải pháp nhằm tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý về quyền lực nhà nước.
Cuốn sách "Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan
nhà nước ở Việt Nam hiện nay" của GS.TS Nguyễn Minh Đoan [33] đã nêu những
vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế pháp lý KSQL nhà nước của các cơ quan nhà nước

ở Việt Nam như khái niệm quyền lực nhà nước, KSQL nhà nước, cơ chế pháp lý
KSQL nhà nước; đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý KSQL nhà nước ở Việt
Nam dưới các góc độ các quy định pháp luật về phân công quyền lực và thực
tiễn KSQL nhà nước; đề ra các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp
lý KSQL nhà nước của các cơ quan quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Năm 2016 - 2017, nằm trong khuôn khổ Chương trình khoa học "Nghiên
cứu các luận cứ khoa học để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững chế độ
chính trị ở Việt Nam", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã thực hiện đề tài
khoa học: "Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong thể chế chính trị
nhằm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam" của Nguyễn Văn
Mạnh và các cộng sự [61] đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận; đánh giá thực trạng xây
dựng, hoàn thiện cơ chế KSQL và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ
chế KSQL trong thể chế chính trị nhằm ổn định và phát triển bền vững chế độ
chính trị của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.


Liên quan đến góc độ tiếp cận này, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu của các tác giả: "Xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của


12
nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức
trong hệ thống chính trị" của Đào Trí Úc [125]; "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực chính trị, đảm bảo dân chủ và kỷ luật
trong hệ thống chính trị" của Đào Trí Úc [127]; "Nhân dân giám sát các cơ quan
dân cử ở Việt Nam thời kỳ đổi mới" của Đặng Đình Tân [101]; "Các hình thức và
giải pháp thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị" của Trần Hậu [50]; "Về quyền giám sát tối cao của
Quốc hội" của Phạm Ngọc Kỳ [57]; "Quyền giám sát của Quốc hội - Nội dung và
thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu" của Nguyễn Sĩ Dũng [23]; "Thường thức về
hoạt động giám sát của Quốc hội" của Nguyễn Sĩ Dũng [24]; "Cơ quan lập pháp
và hoạt động giám sát" của Văn phòng Quốc hội [129]; "Chức năng giám sát của
Quốc hội trong nhà nước pháp quyền" của Nguyễn Đăng Dung [20]...
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu trên, cơ bản đều cho rằng: quyền lực
nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân, thuộc về nhân dân, để quyền lực không bị tha
hóa và vận hành trong giới hạn, khuôn khổ nhân dân giao cho thì quyền lực nhà
nước phải bị kiểm soát. Cơ chế KSQL nhà nước nói chung, cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp nói riêng ở Việt Nam
còn chưa hoàn thiện và thống nhất về mặt nhận thức lý luận cũng như về thể chế;
về cơ chế vận hành và tổ chức thực hiện. Để ngăn ngừa lạm quyền, đi ngược lại với
dân chủ xã hội, đặc biệt đối với việc thực thi quyền hành pháp của bộ máy công
quyền, yêu cầu quan trọng là phải hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực

nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp
1.1.2.1. Các nghiên cứu về kiểm soát quyền lực đối với hành pháp thông
qua cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp (cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền)
và cơ chế bảo hiến
Trước yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là xây dựng NNPQ
đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.


13
Hiến pháp là nền tảng chính trị - pháp lý của quốc gia, của chế độ, là nhân tố
bảo đảm các quyền con người, quyền công dân và sự phát triển của đất nước. Một
trong những nguyên tắc tổ chức và vận hành của NNPQ đó là đảm bảo tính tối cao
của Hiến pháp. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân không
trực tiếp thực hiện mà giao cho Nhà nước thông qua ủy quyền nên tất yếu nảy sinh
đòi hỏi chính đáng và tự nhiên là phải kiểm soát việc thực hiện, trong đó có việc
kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp giữa các quyền lập pháp và tư pháp đối với hành
pháp là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bảo hiến cơ chế quan trọng ngăn
chặn sự lạm quyền của nhánh hành pháp, đảm bảo cho quyền lực hành pháp thuộc
về nhân dân; nhân dân thực hiện ủy quyền nhưng không bị mất quyền.
Một trong những cơ chế bảo hiến quan trọng là: giữa các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp kiểm soát lẫn nhau trong đó, lập pháp và tu pháp kiểm soát
hành pháp là một cơ chế được Hiến pháp 2013 ghi nhận. Dưới góc độ tiếp cận này
trong bài viết: "Phát huy vai trò của Hiến pháp và tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ
hiến pháp" của tác giả Trần Ngọc Đường [37] đã khảo sát, đánh giá cơ chế bảo hiến
hiện theo Hiến pháp 1992 và khẳng định sự cần thiết phải sửa đổi hiến pháp, xây
dựng mô hình bảo hiến phù hợp để đảm bảo tính hiệu lực tối cao của hiến pháp.
Tiếp tục chủ đề này trong bài: "Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo
Hiến pháp 2013" của Trần Ngọc Đường [42] đã phân tích cơ chế KSQL nhà nước
theo Hiến pháp 2013, đánh giá thực trạng thể chế hóa cơ chế này trong thời gian

qua dưới các góc độ: cơ chế nhân dân KSQL nhà nước, cơ chế kiểm soát QLNN bên
trong tổ chức quyền lực nhà nước, cơ chế KSQL nhà nước độc lập do luật định đồng
thời đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện, trong đó nhấn mạnh Hiến
pháp 2013 đã có một bước tiến mới đối với việc phân công và KSQL nhà nước. "Ủy
quyền lập pháp trong cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền
hành pháp" của Trần Ngọc Đường [43] đã nêu khái niệm ủy quyền lập pháp, phân
tích những mặt tích cực và hạn chế và trên cơ sở đó đề ra những giải pháp khắc
phục hạn chế việc ủy quyền lập pháp ở nước ta. Theo công trình này, ủy quyền lập
pháp là việc QH giao cho CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều,
khoản, điểm trong các đạo luật, bộ luật dưới hình thức Nghị định và ban hành nghị
định để quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của QH, UBTVQH nhưng chưa
đủ điều kiện để xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh và giao cho UBTVQH ban


14
hành pháp lệnh quy định những vấn đề được QH giao. Tuy nhiên, cần phải có
những nghiên cứu đề đảm bảo cho việc ủy quyền lập pháp phù hợp với nguyên tắc
phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực. Nghiên cứu: "Cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền" của tác giả Nguyễn Hoàng Anh [3] đã
bàn về khái niệm, các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước gồm kiểm soát
trong và kiểm soát ngoài nhà nước, kiểm soát nhà nước và kiểm soát chính trị và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước, kiểm soát chung và kiểm soát chuyên biệt.
Trong nghiên cứu: "Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam" của tác giả Tào Thị Quyên [96] đã làm rõ cơ chế bảo vệ
Hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam, đó là tổng thể các yếu tố thể chế, thiết chế
và phương thức vận hành bảo vệ Hiến pháp, có quan hệ mật thiết, tương tác lẫn
nhau, hình thành một hệ thống thực hiện các hoạt động bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm
cho Hiến pháp được tôn trọng, ngăn ngừa và xử lý mọi hành vi vi phạm Hiến pháp.
Tác giả đã đánh giá thực trạng cơ chế bảo hiến và đề xuất các quan điểm, giải pháp
hoàn thiện cơ chế bảo hiến: Tiếp tục củng cố một số điểm hợp lý, bảo đảm tiếp tục

phát huy kết quả tích cực đã đạt được của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành; đổi
mới tư duy pháp lý, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tính chất của Hiến pháp,
cơ chế bảo vệ Hiến pháp; đổi mới quy trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp; xây dựng
một cơ chế bảo vệ Hiến pháp mới với thiết chế chuyên trách, độc lập; thể chế đồng
bộ, thống nhất, rõ ràng và phương thức hoạt động mang tính tố tụng hiến pháp;…

Ở Việt Nam, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, trong công trình nghiên cứu
"Luật hiến pháp và chính trị học" của tác giả Nguyễn Văn Bông [8] cho rằng bảo
hiến là "kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật", là "điều tra, xem xét coi
những đạo luật - tức là những hành vi pháp lý ở một địa vị kém hơn Hiến pháp có phù hợp với nội dung của Hiến pháp hay không" và "nếu không có sự kiểm
soát này thì tất cả quyền công dân ghi trong Hiến pháp không còn giá trị nữa"
[8]. Nghiên cứu về cơ chế bảo hiến, tác giả cho rằng có thể bảo hiến thông qua
kiểm soát bởi một cơ quan chính trị hoặc bởi một cơ quan tài phán. Cũng một
nghiên cứu dưới chế độ cũ, trong cuốn: "Luật Hiến pháp - Khuôn mẫu dân chủ"
của tác giả Lê Đình Chân [11] nhấn mạnh đến cơ chế bảo hiến bằng tòa án. Theo
ông, để bảo hiến có hiệu quả, tòa án phải được tổ chức độc lập và "tòa án phải
từ chối áp dụng đạo luật bất hợp hiến" [11].


15
1.1.2.2. Các nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước trong nội bộ cơ
quan hành pháp thông qua cơ chế thanh tra, kiểm tra
Theo Điều 96, Hiến pháp năm 2013 thì, "…tổ chức công tác thanh tra, kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước…" [90] là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Như
vậy, Chính phủ thực hiện KSQL nhà nước thông qua việc tổ chức công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong nội bộ
bộ máy hành pháp của mình. Thanh tra là một bộ phận của hoạt động hành pháp,
đặt trong hệ thống cơ quan hành pháp. Các cơ quan hành chính phát huy hiệu lực
và hiệu quả thông qua hoạt động thanh tra của các cơ quan chức năng của mình.

Thanh tra là một chức năng, một bộ phận của quản lý, thanh tra không giống như
các hoạt động chuyên môn khác mà là hoạt động nhằm bảo đảm thực hiện chính
sách, pháp luật, giữ vững kỷ cương trật tự trong quản lý. Mục đích của thanh tra là
hướng vào xem xét các hành vi hợp pháp và hợp lý của chủ thể quản lý.
Trong nghiên cứu cấp bộ: "Hoàn thiện cơ chế thanh tra kiểm tra, giám sát
nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước" của Trần Đức Lượng [59] đã làm rõ
những vấn đề lý luận và quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát; tổ chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng thanh tra,
kiểm tra, giám sát ở một số nước trên thế giới; các quy định của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát ở
nước ta; thực trạng phân định chức năng, nhiệm vụ và thực hiện cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát; hoàn thiện cơ chế
thanh tra, kiểm tra, giám sát với việc đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra và tăng
cường hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng. Nhóm
nghiên cứu đã khẳng định vai trò của thanh tra với tư cách là công cụ kiểm soát
trong nội bộ cơ quan hành pháp, song chưa có các kiến nghị, đề xuất phù hợp để
tăng cường năng lực kiểm soát đối với cơ quan hành pháp.
Trong nghiên cứu: "Thanh tra - Quyền kiểm soát quyền lực của bộ máy hành
pháp" của tác giả Đinh Văn Mậu [63] đã làm rõ đối tượng KSQL trong hệ thống hành
pháp của thanh tra là các cơ quan chức năng thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
Theo tác giả, quyền hành pháp nhằm bảo đảm các quyền tự do cho công dân, hoạch
định và thực thi chính sách, nếu các quyền này không được thực thi đúng


16
pháp luật thì thanh tra có quyền xem xét, kiến nghị xử lý. Vai trò kiểm soát của
thanh tra thể hiện đối với việc đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của các quyết định
hành chính (QĐHC). Tác giả đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong cơ chế kiểm
soát hành pháp thông qua hoạt động thanh tra và đề xuất, kiến nghị một số giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra.

Dưới góc độ luật học, đề cập trực tiếp đến vai trò của thanh tra trong
kiểm soát quyền hành pháp, luận án tiến sĩ luật học: "Vai trò của các cơ quan
thanh tra nhà nước trong kiểm soát quyền hành pháp ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Văn Tuấn [120] đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò và nội
dung của cơ quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát quyền hành pháp thông
qua chức năng thanh tra, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống
tham nhũng. Đánh giá thực trạng vai trò của các cơ quan thanh tra trong kiểm
soát quyền hành pháp và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
thanh tra nhằm kiểm soát quyền hành pháp.
1.1.2.3. Các nghiên cứu về kiểm soát quyền lực đối với hành pháp thông
qua cơ chế giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông
Kiểm soát quyền lực nhà nước vừa được thực hiện bởi cơ chế bên trong
bộ máy nhà nước và cơ chế bên ngoài bộ máy nhà nước. Liên quan đến vấn đề
nghiên cứu có thể kể đến một số công trình sau:
Trong: "Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta" của Nguyễn Đức Bình [5], trong đó có đề tài: "Vị trí và những đặc trưng về hoạt
động của các tổ chức quần chúng và xã hội trong hệ thống chính trị" của Nguyễn
Viết Vượng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu các đặc trưng,đánh giá hoạt động,
vai trò của các tổ chức quần chúng và xã hội, chủ yếu là các tổ chức chính trị -xã hội
thuộc hệ thống chính trị trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, trong đó có
đề cập đến vấn đề giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước với tư cách là công cụ
quan trọng để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trước yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là xây dựng NNPQ,
phát huy dân chủ đã có các chương trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể
đến đề tài: "Cơ chế quan hệ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân với các định chế xã hội ở Việt Nam hiện nay" của Lê Văn Quang [80].


17

Đề tài đi vào nghiên cứu mối quan hệ giữa NNPQ với các định chế xã hội ở Việt
Nam; chỉ ra những nhân tố tác động, chi phối mối quan hệ này. Nghiên cứu này
cũng đã đề cập đến vai trò giám sát xã hội của các định chế xã hội với nhà nước
trong quá trình mở rộng dân chủ và xây dựng NNPQ XHCN và kiến nghị một số
giải pháp để nâng cao chất lượng giám sát xã hội; và đề nghị đưa vấn đề phản
biện xã hội vào hoạt động của MTTQ.
Sách "Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị Việt Nam" của các tác giả Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn, Lê
Hữu Nghĩa [70] là công trình nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các TCCT-XH, trong
đó vấn đề GS&PBXH. Trong công trình này, các tác giả đã chỉ ra nội dung
GS&PBXH của MTTQ trong giai đoạn hiện nay, đó là: Tư vấn, phản biện cho Đảng
và Nhà nước các quyết sách chính trị... kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ
quan Nhà nước, hành vi của công chức, đảm bảo cho quyền lực của nhân dân ủy
quyền cho Nhà nước không bị lạm dụng, lợi dụng, biến dạng. Và để MTTQ thực
hiện GS&PBXH cần đáp ứng các điều kiện: (1). MTTQ cần có những điều kiện cần
và đủ để thực hiện GS&PBXH một cách khách quan và xây dựng, vì lợi ích của dân
tộc; (2). Đảng và Nhà nước có nhu cầu và đòi hỏi một cách thành tâm việc giám sát
và phản biện cho đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật; (3). Có cơ chế, chế
tài để GS&PBXH của MTTQ đi đúng hướng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước;
nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước trong xã hội; củng cố quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân [70, tr.339]. Trong nghiên cứu này nhóm tác giả đã đề xuất nhiều
giải pháp quan trọng đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận, đây là yêu
cầu quan trọng để MTTQ thực hiện tốt chức năng GS&PBXH.
Trong cuốn sách chuyên khảo: "Cơ sở lý luận và các nguyên tắc cơ bản để
hình thành và quản trị các tổ chức xã hội dân chủ ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn
Mạnh Cường [13] đã tập trung chủ yếu vào việc đưa ra các vấn đề lý luận và thực
tiễn về tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, trong đó có đề cập vấn đề giám sát của các
tổ chức xã hội trong thực hiện chính sách của nhà nước. Tuy nhiên, đó chỉ là sự
tham gia của một số chủ thể mang tính xã hội trong thực hiện KSQL nhà nước,

nghiên cứu chưa đề cập và đưa ra các giải pháp mang tính thể chế nhằm kiểm soát
có hiệu quả quyền hành pháp của các tổ chức bên ngoài nhà nước.


18
Trong nghiên cứu: "Vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý
xã hội" của tác giả Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương [78] đã phân tích sâu về
vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội ở Việt Nam. Công
trình đã khái quát được các yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và đề xuất những cách thức
để các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt động quản lý, phát triển xã hội có hiệu quả
thông hoạt động giám sát, phản biện đối với các chính sách của nhà nước và các
hoạt động khác. Tuy vậy, các tác giả chưa đề cập nhiều các tổ chức xã hội với vai trò
là những thiết chế của nhân dân trong hoạt động KSQL nhà nước.

Nghiên cứu: "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy
đảng và nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Đào Trí Úc
[126] là công trình nghiên cứu chuyên sâu của nhiều tác giả về cơ chế giám sát của
nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Cuốn sách này là những
kết quả nghiên cứu chủ yếu của đề tài KX 10-07 "Tiếp tục đổi mới hệ thống chính
trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế". Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của
bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua hai hình thức: thông qua các tổ chức đại diện
như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể…và trực tiếp
giám sát. Theo tác giả, quyền dân chủ, quyền giám sát của nhân dân hiện nay nhiều
khi còn mang tính hình thức nên dẫn đến kết quả giám sát không đạt hiệu quả cao.
Giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước là một nội dung
trong cơ chế KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu nói trên đã giúp NCS tiếp cận thông tin có giá trị tham khảo
hữu ích cho việc nghiên cứu đề tài: Cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.

Bàn về hình thức dân chủ trực tiếp và việc nhân dân trực tiếp thực hiện
quyền lực nhà nước, cuốn sách: "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp - cơ sở lý luận và thực tiễn" của Phan
Trung Lý, Đặng Xuân Phương [60] đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, trong đó đã phân
tích những ưu điểm và hạn chế, thuận lợi và thách thức đặt ra đối với việc thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp của nhân dân. Trên cơ sở phân tích thực
trạng, các tác giả đã đề xuất các giải pháp quan trọng như: tiếp tục đổi mới


19
phương thức hoạt động của các chủ thể trong hệ thống chính trị; đổi mới
phương thức, chấn chỉnh lối làm việc của bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu
thực hành dân chủ trực tiếp của nhân dân; xây dựng một số đạo luật chung về
tang cường năng lực thực hành dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các kết quả
nghiên cứu này đã giúp NCS tiếp cận thông tin có giá trị tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc thực hiện quyền
hành pháp ở Việt Nam bên ngoài bộ máy nhà nước để bổ sung vào luận án.
Tiếp cận dưới góc độ khoa học chính trị, đề tài: "Vấn đề nhân dân giám
sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay" của Viện Khoa học chính trị [131] đã
phân tích sâu, khoa học, cụ thể về bản chất nền dân chủ XHCN mà nội dung căn
bản là xây dựng cơ chế nhân dân làm chủ bằng việc tham gia QLNN, quản lý xã
hội, thực hiện quyền kiểm soát, giám sát thông qua các tổ chức đại diện của
nhân dân ở cơ sở đối với các cơ quan nhà nước và các chính sách của Nhà nước.
Các tác giả đều nghiên cứu, đề cập đến vấn đề kiểm soát, giám sát đối với quyền
lực nhà nước, nêu những yêu cầu cấp thiết của KSQL nhà nước. Những kết quả
nghiên cứu này đã tạo tiền đề để NCS tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống,
toàn diện hơn vấn đề xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
Dưới góc độ luật học, trong luận án tiến sĩ: "Hoàn thiện cơ chế pháp lý

giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay"
của tác giả Nguyễn Mạnh Bình [6] đã đi sâu vào phân tích, luận chứng cơ sở lý
luận và thực tiễn cũng như yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối
với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Tác giả đã đánh giá quá trình
các thiết chế xã hội thực hiện giám sát xã hội đối với bộ máy nhà nước trên các
phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đề tài này đã góp phần gợi mở để
NCS làm rõ hơn các yếu tố trong cơ chế pháp lý KSQL nhà nước đối với việc
thực hiện quyền hành pháp cả về lý luận lẫn đánh giá thực trạng vận hành.
Nghiên cứu về vai trò của các đoàn thể nhân dân trong quá trình dân chủ
hoá mọi mặt đời sống chính trị - xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
đã triển khai đề tài cấp bộ năm 2000-2001: "Vai trò của các đoàn thể nhân dân đối
với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay" của Phan Xuân Sơn [98]. Đề tài đã
đề cập đến vấn đề giám sát xã hội. Các tác giả cho rằng, các đoàn thể giữ một vị trí


20
quan trọng trong giám sát xã hội, đồng thời đây cũng là một trong những hình
thức chủ yếu để thực hiện quyền dân chủ trong giai đoạn hiện nay. Đề tài cũng
đã đề xuất sáu giải pháp quan trọng để phát huy dân chủ, tăng cường sự giám
sát của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ở cấp cơ sở.
Để có một cách nhìn tổng thể về các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò của
các tổ chức này ở Việt Nam, năm 2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã
triển khai nghiên cứu đề tài: "Các tổ chức chính trị - xã hội: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" của Phan Xuân Sơn [99]. Trong công trình nghiên cứu này, nhóm tác giả
đã trình bày cơ sở ra đời, vai trò, các nguyên tắc hoạt động, mối quan hệ với Nhà
nước của các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, đề tài đã khảo sát thực trạng
hoạt động của các tổ chức - chính trị xã hội ở Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân; đề xuất các giải pháp tăng cường vai trò của các tổ chức chính
trị - xã hội hiện nay, trong đó có đề cập đến vấn đề thực hiện chức năng giám sát của
các tổ chức - chính trị xã hội ở Việt Nam.

Truyền thông đại chúng là một kênh xã hội hóa vô cùng quan trọng đối với
đời sống của mỗi người với tư cách là phương tiện cung cấp thông tin cho công
chúng, tạo nên những cơ chế để công chúng tham gia tích cực vào đời sống chính trị
thông qua cơ chế giám sát, phản biện xã hội. Các nghiên cứu: "Báo chí và dư luận
xã hội, Đối tượng tác động của báo chí" của của tác giả Nguyễn Văn Dững [26];
"Báo chí thế giới - Xu hướng phát triển" của Đinh Thị Thúy Hằng [49] cho thấy vai
trò cơ bản của truyền thông là cung cấp thông tin cho công chúng, song bên cạnh đó
nó cũng giữ vai trò hết sức quan trọng trong kiểm soát quyền hành pháp thông qua
việc phát giác kịp thời các sai phạm của cơ quan nhà nước, gây áp lực buộc các chủ
thể QLNN phải công khai, minh bạch, chấp hành đúng các quy định pháp luật.
Truyền thông đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với chính trị, mà cụ
thể là quá trình lãnh đạo, chỉ đạo việc hoạch định và thực thi chính sách. Trong
nghiên cứu: "Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý" của tác giả
Vũ Đình Hòe [53] đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các nhà lãnh đạo quản lý đối
với truyền thông. Theo tác giả, vai trò của truyền thông trong quá trình lãnh đạo,
quản lý được thể hiện qua việc: truyền thông đóng vai trò là cầu nối giữa các nhà
lãnh đạo, quản lý đối với công chúng; là nơi nắm bắt thông tin và truyền tải các ý
tưởng chính sách từ công chúng đến các cơ quan hoạch định;


×