Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã, thực tiễn tại Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.6 KB, 124 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN BCH THY

Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã,
thực tiễn tại tỉnh Vĩnh Phúc

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN BCH THY

Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã,
thực tiễn tại tỉnh Vĩnh Phúc
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp - Lut Hnh chớnh
Mó s: 8380101.02

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. TRN QUC BèNH

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Bích Thủy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn...............................................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!............................................................................1

NGƯỜI CAM ĐOAN......................................................................................1
Nguyễn Bích Thủy...........................................................................................1
MỤC LỤC........................................................................................................2
Chương 1........................................................................................................11
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ...............................................................11
1.1. Những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân chủ ở
cơ sở................................................................................................................11
1.1.1. Khái niệm dân chủ cơ sở.....................................................................11
Chương 2........................................................................................................54
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN................54


DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH VĨNH PHÚC............54
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội, dân cư tỉnh Vĩnh Phúc...............................54
Chương 3........................................................................................................92
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ.......................................92
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...............................................................92
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở
cấp xã..............................................................................................................92
KẾT LUẬN...................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................115


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND
QCDC
UBND
XHCN


: Hội đồng nhân dân
: Quy chế dân chủ
: Uỷ ban nhân dân
: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người. Trong bất kỳ giai đoạn nào, Đảng Cộng sản và Nhà
nước Việt Nam đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng rãi sẽ tạo tiền đề
cho sự thành công của Việt Nam. Đối với cấp cơ sở việc thực hành dân chủ
rộng rãi là sự thể hiện rõ nhất bản chất dân chủ của Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30CT/TW về việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở. Chỉ
thị đã xác định: ... để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà
nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia
quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng
suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp
bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất [20].
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để cụ thể hoá các
chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 29/1998/NĐCP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP
ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm của chính quyền cấp xã
trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Và sự kiện quan trọng nhất
nhất, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn đối với hệ thống chính trị - xã hội nước ta, đó là Ủy Ban
Thường vụ Quốc hội khóa 11 (2007), đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL1


UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Ngoài ra với tư cách là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất ở Việt Nam, Hiến
pháp năm 2013 đã kế thừa những bản Hiến pháp trước đây khi ghi nhận việc
thực hiện QCDC ở cơ sở, phát huy dân chủ trong hoạt động và quản lý nhà
nước. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.”[35] Trong các hình thức
thực hiện dân chủ thì thực hiện dân chủ ở cơ sở mang những nét điển hình nhất,
cụ thể nhất mà mọi tầng lớp nhân dân đều mong muốn hướng tới. Trên đây là
những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu những bước quan trọng việc thể
chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng
nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở.
Gần 30 năm Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng lãnh đạo công cuộc
đổi mới đất nước; 18 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, 9 năm thực
hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên cả nước đã đạt
được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những mặt
hạn chế, yếu kém trong triển khai thực hiện: “Việc xây dựng và thực hiện các
quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng chưa
cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt việc công
khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển
mục đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công
khai, dân chủ về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đào
tạo, đề bạt cán bộ... Một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền mất đoàn
kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn
kịp thời; tình hình khiếu kiện… diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến

lòng tin của nhân dân đối với cấp uỷ, chính quyền” [39, tr.100].

2


Thực hiện dân chủ ở cơ sở là việc đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp cho
người dân ở nơi cư trú, cơ quan và đơn vị công tác. Tuy nhiên có thể thấy
rằng việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, tức là đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp
của người dân ở nơi cư trú (cấp cơ sở trong hệ thống các cấp quản lý hành
chính Nhà nước) có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, trong việc giữ vững niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà
nước, trong việc giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Vì đó
là địa bàn sinh sống, lao động và sản xuất, là nơi diễn ra sự tiếp xúc hằng
ngày giữa nhân dân và chính quyền, là nơi thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của nhân dân, đồng thời là nơi đảm bảo nhu cầu được biết, được
bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở của nhân dân,
cũng là nơi nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cán
bộ, công chức chính quyền cơ sở.
Thực hiện dân chủ ở xã luôn là vấn đề mang tính thời sự. Vì thế, chúng
ta vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn vừa đi sâu nghiên cứu và nhận
thức đúng đắn về lý luận, vừa phải thường xuyên đổi mới hình thức, biện
pháp tổ chức thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã.
Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về
thực hiện dân chủ cơ sở, thực tiễn tại tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc
sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, trong thời gian qua, vấn đề pháp
luật về dân chủ cơ sở đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong
nước. Có thể kể đến các công trình như:

- Cuốn sách, Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, của
Nguyễn Tiến Phồn, Nxb Khoa học xã hội. Cuốn sách bàn tập trung về cách hiểu

3


khái niệm dân chủ, tập trung dân chủ, trạng thái của dân chủ trong xã hội hiện
đại và ở Việt Nam…
- Cuốn sách, Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện
nay, của Đỗ Trung Hiếu, Nxb. Chính trị quốc gia. Tác giả dành sự quan tâm
phân tích nhu cầu và đặc thù nền dân chủ Việt Nam, đề xuất các giải pháp tiếp
tục phát huy dân chủ trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
- Cuốn sách, Dân chủ và pháp luật, của Ngô Huy Cương, Nxb. Tư
pháp. Cuốn sách gồm 3 chương, trình bầy những nhận thức chung về dân chủ,
đánh giá tính dân chủ trong pháp luật Việt Nam hiện nay, đề cập việc xây
dựng dân chủ và pháp luật dân chủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như:
xây dựng nền văn hóa chính trị, xây dựng Hiến pháp dân chủ, xây dựng chính
quyền dân chủ, phát triển các hình thức dân chủ và xây dựng xã hội công dân.
Đi sâu bàn luận về dân chủ cơ sở đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
từ các góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến các công trình sau:
- Đề tài, Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực
hiện QCDC ở cơ sở nông thôn hiện nay, của Trần Ngọc Khuê, Đề tài khoa
học cấp bộ. Đề tài đã phân tích làm rõ sự tác động qua lại của một số yếu tố
tâm lý xã hội cơ bản với việc thực hiện QCDC ở cơ sở nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ hiện nay; đánh giá thực trạng và nguyên nhân thực hiện QCDC ở cơ
sở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ; đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện
có hiệu quả QCDC ở cơ sở nông thôn trong thời kỳ mới.
- Đề tài, Quá trình thực hiện QCDC cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng
sông Hồng hiện nay, của Nguyễn Thị Ngân, Đề tài khoa học cấp bộ. Đề tài
đã tiến hành nghiên cứu thực trạng việc thực hiện QCDC cơ sở ở các tỉnh

đồng bằng sông Hồng, qua ở đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh
và hoàn thiện việc thực hiện quy chế dân chủ (QCDC) ở khu vực đồng
bằng sông Hồng.

4


- Cuốn sách, Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, của Dương Xuân Ngọc, Nxb. Chính trị quốc gia. Trên cơ sở
nghiên cứu về lý luận tác giả đã làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy
chế thực hiện dân chủ ở cấp, phân tích đánh giá thực trạng của việc thực hiện
QCDC ở cấp xã, đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc thực hiện QCDC ở
cấp xã ở nước ta trong điều kiện mới.
- Thực hiện QCDC và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay,
của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2003. Nội
dung của cuốn sách được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của
tập thể tác giả tiến hành ở nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có
tham khảo kinh nghiệm ở một số nước. Qua nội dung cuốn sách cho thấy
trong thời gian qua, chính quyền cơ sở đã tích cực thực hiện chức năng nhiệm
vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai QCDC cơ sở có hiệu quả cùng nhân dân
làm nên những thành tựu đổi mới trong phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt
nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, chính quyền cơ
sở còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, tổ chức
và vận động nhân dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân còn xảy ra ở không ít nơi, QCDC cơ sở
chưa được triển khai đầy đủ, có nơi chưa đi vào cuộc sống...
- Cuốn sách, Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện
nay, của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2005.
Nội dung của cuốn sách cho thấy cách nhìn sinh động trong việc thực QCDC
ở cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã trên một số hoạt động như quản lý xã

hội, kinh tế, quản lý tài chính, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo,
nhằm phát triển nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Cuốn sách, Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở, của Nguyễn Bắc Son, Nxb.
Chính trị quốc gia năm 2010. Cuốn sách gồm 3 phần, trong đó phần I đề cập

5


đến thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Bao gồm những quy định chung
trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Những nội dung công khai để
nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung
nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền bàn và quyết định;
những nội dung nhân dân giám sát. Sách được kết cấu dưới dạng hỏi - đáp,
được sắp xếp theo từng vấn đề, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tra cứu. Các câu hỏi và
đáp án trả lời trong cuốn sách đã khái quát và cụ thể hóa những quy định pháp
lý cơ bản nhất trong lĩnh vực dân chủ ở cơ sở: quyền và nghĩa vụ của công
dân, tổ chức, cá nhân trong hoạt động dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật
(Đồng chủ biên): Đào Trí Úc và các cộng sự, Một số vấn đề lý luận, thực tiễn
về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia năm 2014. Cuốn sách gồm tập hợp những bài tham luận tại cuộc Hội
thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam”, trong
đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về một loạt vấn đề lý luận, thực
tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế
giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm thực hiện dân chủ trực tiếp, dân
chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.
- Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi
mới, của Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010. Nội dung của cuốn
sách bao gồm sáu vấn đề lớn: Ý thức dân chủ của người Việt Nam từ lịch sử đến

hiện đại. Dân chủ XHCN và QCDC ở cơ sở. Quan hệ giữa thể chế chính thống
và phi chính thống trong việc củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn hiện nay.Tác động của QCDC ở cơ sở đối với việc thực hiện xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn từ góc nhìn đánh giá chính sách. Tâm lý làng xã trong việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn hoá pháp luật ở nông thôn đồng

6


bằng Bắc Bộ hiện nay. Những bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá
trình triển khai, thực hiện QCDC ở cơ sở và một vài khuyến nghị.
- Cuốn sách Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, của
Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2004 Theo tinh thần nội dung
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, cuốn sách trên là kết quả nghiên
cứu của đề tài "Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay".
- Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện QCDC trong hệ thống chính trị cơ sở
nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lịch sử đảng, số 8/2013. Nội dung bài
viết tập trung làm rõ hai phương diện của hoạt động thực hiện QCDC trong hệ
thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay, những kết quả bước đầu,
một số hạn chế và nguyên nhân.
- Ngoài ra, có thể điểm danh một danh mục lớn các sách chuyên khảo,
các bài báo và các luận án, luận văn nghiên cứu tập trung về dân chủ cơ sở
như:
Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2000; Lương Gia Ban,
Dân chủ và việc thực hiện QCDC ở cơ sở, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2003;
Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, Tạp
chí Lý luận chính trị số 7/2002; Trần Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ sở - một sức

mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam; Lê Quang Minh, Để thực hiện dân
chủ sở cơ sở; Phạm Ngọc Quang, Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình
đổi mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị số 3/2004;
Hoàng Trọng Chính, Nâng cao hiệu quả hoạt động QCDC ở cơ sở, Tạp chí
Lao động và Công đoàn năm 2006;…
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích ở từng khía cạnh

7


khác nhau của dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
trong từng thời kỳ khác nhau cho phù hợp với từng thời kỳ của đất nước. Tuy
nhiên, trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 vừa mới được thông qua, Nghị
quyết của Đại hội Đảng 12 mới đi vào thực tiễn cuộc sống với những sự thay
đổi quan trọng, quan niệm về dân chủ và thực hiện dân chủ, trong đó có quy
định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong đó có cấp xã thì hiện
chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đặc biệt, việc nghiên cứu
về thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hiến pháp có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Đó cũng chính là lý do tác giả lựa chọn đề
tài “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã, từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc”
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn không chỉ dừng lại ở mục đích nghiên cứu các quy định của
pháp luật về dân chủ cơ sở mà trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở; từ việc đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Trong đó luận văn
nêu bật lên vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền; bảo vệ quyền con người; và đấu tranh phòng chống
tham nhũng đồng thời luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm đẩy

mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở cơ sở;
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc, những mặt đã đạt được, những tồn tại hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện
8


pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng thực hiện pháp luật về
dân chủ cơ sở ở cấp xã tại Vĩnh Phúc và các yếu tố tác động đến hoạt động
đó, đặc biệt là khuôn khổ pháp luật hiện hành của quốc gia và bối cảnh chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở ở cấp xã, thực tiễn tại Vĩnh Phúc
Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã ở tỉnh Vĩnh Phúc, không mở rộng đến hoạt
động này ở các địa phương khác.
Về thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã ở tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian từ
năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm

của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người, quyền công dân.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện
có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giáo dục quyền
con người ở nước ta hiện nay (ở Chương 1).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu,
báo cáo chuyên môn của chính quyền địa phương và phương pháp quan sát
thực tế để đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã ở
9


tỉnh Vĩnh Phúc (ở Chương 2).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về dân chủ cơ sở ở cấp xã ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và ở nước ta nói chung
trong thời gian tới (ở Chương 3).
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đóng góp thêm nhận thức về cơ sở lý luận và thực tiễn thực
hiện pháp luật về dân chủ ở xã hiện nay.
- Góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện pháp luật về dân chủ
ở xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về dân chủ ở xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các tài
liệu tham khảo và Kết luận, nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của việc thực hiện pháp luật về
dân chủ cơ sở ở cấp xã.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở
từ thực tiễn tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã trong giai đoạn hiện nay.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ
1.1. Những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân
chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân chủ cơ sở
Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của cấu trúc
hành chính - lãnh thổ và chỉnh thể hệ thống chính trị thống nhất ở nước ta thì
cơ sở là cấp thấp nhất, tuy nhiên cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài
của cấp trên. Cơ sở là địa bàn cư trú của dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động
sinh sống và làm ăn của nhân dân lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai
trò chủ thể của người dân và hình thức tổ chức các hoạt động sống của cộng
đồng, các mối quan hệ xã hội.
Cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực
làm chủ của nhân dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp, cũng là nơi đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng
với những mâu thuẫn, thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống
dân sự. Trong hệ thống quản lý, cấp cơ sở là cấp cuối cùng nhưng lại là cấp
đầu tiên và trực tiếp nhất với tư cách nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của
toàn hệ thống chính trị. Cơ sở tuy là cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất

mà sự vận hành của thể chế chính trị từ vĩ mô phải tác động tới, là địa chỉ
quan trọng nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước phải tìm đến, phải bằng mọi cách tổ chức, tuyên truyền,
vận động làm cho dân hiểu, dân tin, dân làm. Cơ sở còn là cấp hành động và
tổ chức hành động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp thực hiện chức
năng lãnh đạo và quản lý của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các hoạt động
11


tự quản của cộng đồng xã hội, quản lý với tự quản đan xen vào nhau, các thể
chế quản lý, pháp luật nhà nước và các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn tại
song hành với nhau. Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ
sở từ dân mà ra, là cấp có nhiều lợi thế và khả năng nhất để giảm thiểu xuống
mức thấp nhất những thói tật quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, tệ hại tham ô,
tham nhũng, mặt khác cán bộ ở cơ sở là người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng
ngày sinh sống, làm việc và quan hệ trực tiếp với dân, bị chi phối, ràng buộc
rất mạnh mẽ bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục,
tập quán, lối sống làng xã [11, tr.88].
Liên quan đến khái niệm này, cơ sở được hiểu theo tinh thần Pháp lệnh
34/2007/PL-UBTVQH ngày 20/7/2007 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội về
việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Cơ sở được lấy làm đối tượng
nghiên cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan,
công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu…) mà là
cơ sở với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành
chính nhà nước hiện hành. Cơ sở đó chính là xã - phường - thị trấn, là cấp cơ
sở của quản lý nhà nước trong đó xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn - địa
bàn rộng lớn, chiếm đa số trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta.
Dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân trên địa
bàn cơ sở. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác
nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong
thực tiễn khách quan. Thực hiện dân chủ ở cấp xã là toàn bộ quá trình hiện
thực hóa các quyền thể hiện sự tham gia của công dân vào chu trình thực hiện
quyền lực tại cơ sở. Khi nghiên cứu nhóm quyền này thì dân chủ, với ý nghĩa
là quyền tự nhiên tối cao nhất của con người được thực hiện trước hết là ở cơ
sở. Với tư cách chủ thể quyền lực, người dân tại cơ sở có quyền có đại diện

12


của mình, có quyền trực tiếp được biết, được bàn, được tham gia giải quyết và
kiểm tra giám sát mọi hoạt động quyền lực diễn ra tại cơ sở.
Như vậy, do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ
mọi mặt của người dân ở cơ sở nên dân chủ cơ sở là một phương thức hỗn
hợp để thực hiện dân chủ. Dân chủ cơ sở bao gồm trong nó cả hình thức dân
chủ đại diện và hình thức dân chủ trực tiếp, hướng tới mục tiêu hiện thực hóa
quyền lực của chủ nhân quyền lực tại địa bàn cơ sở. Ngoài ra, dân chủ cơ sở
còn thể hiện ở quyền tham gia ý kiến với tư cách cá nhân vào các vấn đề nảy
sinh tại cơ sở có liên quan đến quyền và lợi ích của chính họ, của các cá nhân
khác hoặc của Nhà nước. Theo đó, ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho
rằng, tham gia cũng có thể được xem là một hình thức thực hiện dân chủ
mang đặc thù của dân chủ cơ sở: “Thực hiện dân chủ cơ sở được thông qua
bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể là dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện và dân chủ tham gia” [44, tr.58].
Dân chủ là quyền của người dân, trong xã hội dân chủ người dân xây
dựng nên nhà nước để thực hiện quyền của họ. Theo cách giải thích của Hồ
Chí Minh thì dân chủ là người dân làm chủ, chính quyền chỉ là đầy tớ, là công
cụ phục vụ nhân dân.
Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ cơ sở được biểu hiện trước hết ở sự tồn

tại và hoạt động của các thiết chế đại diện của nhân dân, bao gồm HĐND cấp
xã và các đoàn thể nhân dân. Đây là các thiết chế do nhân dân lập ra và trực
tiếp ủy quyền lực nhân dân, thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Thông qua hoạt động của các thiết chế này, người dân tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội và kiểm soát hoạt động của Nhà nước, buộc
hoạt động quyền lực nhà nước vận hành trong quỹ đạo phục vụ nhân dân.
Dân chủ cơ sở không thể thoát ly hoàn toàn khỏi dân chủ ở địa phương
và toàn quốc. Nếu chỉ nhấn mạnh dân chủ cơ sở mà không đặt trong sân chơi

13


chung của dân chủ thì sẽ chỉ xé nhỏ dân cư ra đề dễ bề cai trị, trong khi đó
quyền dân chủ trong xã hội nói chung chưa được đảm bảo: quyền tự do ngôn
luận, lập hội, hội họp, biểu tình, trưng cầu ý dân,… Mặt khác quy chế dân chủ
trao quyền trực tiếp quá lớn cho cơ sở trong việc chăm lo tổ chức dân cư đã
nhiều khi biến cấp xã thành cấp quan lieu, xa dân, vi phạm quyền dân chủ của
nhân dân đã trở nên khá phổ biển.
Tuy nhiên, trong các QCDC ở cơ sở, chẳng hạn như QCDC ở xã, có rất
nhiều loại công việc cần được đưa ra trưng cầu ý kiến của nhân dân để các
cấp có thẩm quyền tham khảo trước khi quyết định. Mặc dù kết quả trưng cầu
ý kiến trong QCDC ở xã được xác định là “để tham khảo” nhưng bản thân
việc đưa ra trưng cầu ý kiến là bắt buộc.
Ngoài loại hình trưng cầu ý kiến “để tham khảo” các quy chế cũng đã
có những quy định việc lấy ý kiến nhân dân có “tính chất quyết định”.
“Trưng cầu ý dân” và “lấy ý kiến nhân dân”: “Lấy ý kiến nhân dân” là
thuật ngữ hay gặp trong các văn bản quy phạm pháp luật gần đây và trên thực
tế, việc lấy ý kiến nhân dân đã được triển khai thực hiện nhiều và đạt được
những kết quả nhất định.
Khoản 1, Điều 39 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm

1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) quy định: “căn cứ vào tính chất và
nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội quyết định việc lấy ý kiến nhan dân về dự án luật, dự án pháp lệnh”. Hoặc
theo Khoản 5, Điều 25 của Luật Đất đai năm 2003 thì: “trong quá trình lập
quy hoạch sử dụng đất chi tiết, cơ quan, tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch
sử dụng đất phải lấy ý kiến đóng góp của nhân dân”… Còn tại Khoản 3, Điều
26 của Luật Xây dựng năm 2003 thì: “Việc điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây
dựng đô thị… phải lấy ý kiến của nhân dân trong khu vực lập quy hoạch chi
tiết xây dựng”.

14


Từ những quy định nêu trên, có thể hiểu rằng: lấy ý kiến nhân dân là
việc nhà nước tổ chức để nhân dân đóng góp ý kiến về một vấn đề cụ thể. Đây
cũng là một trong những hình thức dân chủ bán trực tiếp giống như trưng cầu
ý dân, nhưng nội hàm của thuật ngữ “lấy ý kiến nhân dân” rộng hơn. Xét ở
góc độ nhất định, cũng có thể coi trưng cầu ý dân là một trong những hình
thức (đặc biệt) của lấy ý kiến nhân dân. Tuy nhiên, khác với việc trưng cầu ý
dân, kết quả của việc lấy ý kiến nhân dân chỉ có giá trị để các cơ quan nhà
nước tham khảo; đối tượng của hoạt động này là nhân dân, bao gồm tất cả
mọi người có khả năng và tâm huyết đóng góp ý kiến mà không hạn chế bất
cứ ai cho dù họ có quyền bầu cử hay không, có đầy đủ quyền công dân hay
không, trong khi trưng cầu ý dân thì phạm vi chủ thể không rộng đến như vậy;
những việc đưa ra lấy ý kiến nhân dân có khi là để xem xét, quyết định về một
vấn đề cụ thể (lấy ý kiến về việc có nên xây dựng một công trình hay không),
nhưng cũng có thể là việc góp ý để hoàn chỉnh thêm các vấn đề đưa ra lấy ý
kiến (lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh). Một điểm khác biệt nữa là:
trưng cầu ý dân bắt buộc phải thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu với câu trả
lời là “đồng ý” hay “không đồng ý” cho vấn đề đưa ra trưng cầu, còn việc lấy

ý kiến nhân dân thường không được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu, người
dân góp ý bằng cách viết ý kiến của mình dưới dạng văn bản và gửi cho cơ
quan, tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân.
Hình thức lấy ý kiến nhân dân có tính chất quyết định đã được quy định
cụ thể trong quy chế thực hiện dân chủ ở xã như sau:
- Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công
trình phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các
công trình văn hóa, thể thao);
- Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ
gìn an ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;

15


- Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành.
- Thành lập Ban Giám sát các công trình xây dựng do dân đóng góp;
- Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an toàn
giao thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn”.
Cộng đồng dân cư ở cơ sở là cộng đồng người sinh sống trong một địa
bàn xã, phường, thị trấn, thôn, bản, ấp,… bao gồm tất cả các tổ chức và cá
nhân trong đó có chính quyền cơ sở. Theo khái niệm này thì không thể loại
chính quyền cơ sở ra khỏi cộng động dân cư và chế độ tự quản cũng không
thể không có sự tham gia của các thiết chế quyền lực công.
Như vậy, mặc dù có sự phân biệt các nội dung giữa dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện và dân chủ tham gia nhưng dân chủ trực tiếp là hình thức
phổ biến và dễ thực hiện nhất tại cơ sở. Các nội dung “dân bàn và quyết định
trực tiếp “chính là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa hẹp, cổ
điển nhất. Bên cạnh đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để
cấp có thẩm quyền quyết định” và “dân tham gia kiểm tra, giám sát” là những

biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở
Việt Nam từ trước đến nay.
Dân chủ cơ sở không đồng nhất với tự quản cơ sở. Xét về bản chất, dân
chủ cơ sở tạo ra nhiều khả năng cho sự tham gia trực tiếp và nhiều mặt của
người dân vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Theo đó, dân chủ cơ sở
là mắt xích quan trọng nối liền những mặt tích cực của dân chủ và của chế độ
tự quản cơ sở.
Mặc dù vậy, dân chủ cơ sở là hình thức quyền lực nhân dân, không
trùng lặp với tự quản cơ sở.
Trên thực tế, cả dân chủ cơ sở và tự quản cơ sở đều được thực hiện ở cơ
sở, ở đơn vị nhỏ nhất hoặc các tập thể, cộng đồng khác nhau. Dân chủ cơ sở

16


phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể quyền lực gốc - nhân dân - với các thiết chế
được nhân dân ủy quyền lực và với việc đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân
tại cơ sở. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến mối quan hệ tương tác giữa nhà
nước và nhân dân tại cơ sở. Ở Việt Nam, các đơn vị cơ sở như vậy là các xã,
phường, thị trấn; là các tập thể cơ quan, tổ chức, đơn vị, trường học, bệnh
viện… là nơi mọi chính sách, đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước được
phản ánh qua lăng kính của cá nhân, của lợi ích tập thể, là nơi kiểm nghiệm
tính đúng đắn và hiệu quả của các quyết sách của Đảng ta. Dân chủ cơ sở là
“hệ thống báo động” nhạy cảm nhất, những thông tin phản hồi nhanh nhất về
hiệu lực, hiệu quả của các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước để kịp thời sửa chữa, bổ sung. “Hệ thống báo động” và các thông tin phản
hồi này giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách của
mình một cách nhanh nhất, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế,
tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Trong khi đó, tự
quản cơ sở là vấn đề nằm ngoài hệ thống nhà nước, liên quan đến cách tổ chức

và vận hành của xã hội. Xét về bản chất, tự quản cơ sở cũng là một phương
thức thực hiện quyền lực nhân dân, tuy nhiên phương thức này không nằm
trong mối liên hệ tương tác chặt chẽ với quyền lực nhà nước, không có mục
tiêu tác động trực tiếp vào quyền lực nhà nước, không có sự tham gia trực tiếp
của các thiết chế quyền lực công. Các hình thức tự quản cơ sở do các cộng
đồng dân cư tự tổ chức và thực hiện tại cơ sở để tự giải quyết những vấn đề của
xã hội mà không cần tới sự can thiệp của nhà nước.
Dân chủ cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện và phát
huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở
không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước
tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn
hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn
bản, lâu dài.
17


1.1.2. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã
Quan điểm của học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật đã
giải thích một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những
mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp
luật chỉ phát sinh và tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật vừa
mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Mức độ đậm, nhạt của hai tính
giai cấp và xã hội của pháp luật rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu
chính trị của mỗi nước ở một thời kỳ lịch sử nhất định.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và Nhà nước là hai thành tố của
thượng tầng chính trị- pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách
rời nhau. Cả hai hiện tượng pháp luật và Nhà nước đều có chung nguồn gốc

cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu
quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực
lượng nắm quyền lực Nhà nước và đảm bảo cho quyền lực đó được triển khai
nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội [37].
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân,
do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân
lao động, là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng
rãi cho nhân dân lao động. Nó khác biệt căn bản về chất so với các kiểu pháp
luật trước đó như pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản.
Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước

18


XHCN ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
Pháp luật giữ vai trò quan trọng, là phương tiện để nhân dân phát huy
quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới
các quan hệ xã hội trong đó có các quan hệ giữa các cá nhân công dân với
Nhà nước, giữa công dân với nhau trong đời sống xã hội [37]. Pháp luật đảm
bảo thực hiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực của nhân dân, đảm bảo
công bằng xã hội. Dân chủ là thuộc tính của Nhà nước XHCN, việc tăng
cường hiệu lực và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội luôn gắn liều với quá trình thực hiện và mở rộng dân chủ
XHCN. Dân chủ được thể hóa thành pháp luật. Những quyền tự do dân chủ
của công dân phải được quy định cụ thể trong pháp luật, Nhà nước phải đảm

bảo cho công dân thực hiện các quyền đó trong khuôn khổ luật định, đồng
thời pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải
thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội.
Pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện; điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà nước; các tổ
chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân nhằm đảm bảo
cho công dân thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Do đó, pháp luật về dân chủ có phạm vi và nội dung điều
chỉnh rất rộng lớn. Pháp luật về dân chủ ở cơ sở là một nội dung rất quan
trọng của pháp luật về dân chủ, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ
chức kinh tế và công dân đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn xã, phường,
thị trấn. Để thực hiện và thể chế hóa quan điểm của chỉ thị 30/ CT – TW ngày
18/12/1998 của Bộ Chính trị, ngày 26/2/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
19


×