ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN HƯỞNG
HO¹T §éNG THÈM TRA C¸C Dù ¸N LUËT, PH¸P
LÖNH
CñA ñY BAN PH¸P LUËT QUèC HéI
N¦íC CéNG HßA X· HéI CHñ NGHÜA VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN HƯỞNG
HO¹T §éNG THÈM TRA C¸C Dù ¸N LUËT, PH¸P
LÖNH
CñA ñY BAN PH¸P LUËT QUèC HéI
N¦íC CéNG HßA X· HéI CHñ NGHÜA VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHAN TRUNG LÝ
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn bảo đảm tính chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vì vậy, tôi đề nghị Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét, đồng ý cho tôi
bảo vệ Luận văn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Tiến Hưởng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM TRA DỰ ÁN
LUẬT, PHÁP LỆNH...........................................................................8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động thẩm tra dự
án luật, pháp lệnh...............................................................................8
1.1.1. Khái niệm thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.......................................8
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh................9
1.1.3. Vai trò của thẩm tra dự án luật, pháp lệnh....................................11
1.2.
Thẩm quyền và nguyên tắc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
............................................................................................................17
1.2.1. Thẩm quyền thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.................................17
1.2.2. Các nguyên tắc trong thẩm tra dự án luật, pháp lệnh..................19
1.3.
Nội dung, phương thức và trình tự, thủ tục thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh...................................................................................21
1.3.1. Nội dung thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.......................................21
1.3.2. Phương thức thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.................................24
1.3.3. Trình tự, thủ tục thẩm tra dự án luật, pháp lệnh..........................25
1.4.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh...........................................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT,
PHÁP LỆNH CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT.........................................34
2.1.
Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật..................................34
2.1.1. Quy định của pháp luật về hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật qua các thời kỳ..........................34
2.1.2. Hiện trạng quy định của pháp luật về hoạt động thẩm tra dự
án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật........................................37
2.1.3. Một số hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.........................45
2.2.
Thực tiễn hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy
ban Pháp luật....................................................................................48
2.2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.........................................................48
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.........................................................53
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật...................57
2.3.
Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.....................................................60
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH
CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT.............................................................65
3.1.
Quan điểm nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.............................................65
3.2.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra dự
án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật........................................67
3.2.1. Hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Ủy ban Pháp luật..........67
3.2.2. Đề cao vai trò của hoạt động thẩm tra và phát huy vai trò
của Ủy ban Pháp luật trong các khâu của quy trình lập pháp
............................................................................................................72
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đại biểu trình
dự án luật, pháp lệnh........................................................................73
3.2.4. Các giải pháp về phối hợp, hỗ trợ.......................................................75
3.3.
Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật có liên quan
đến hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban
Pháp luật...........................................................................................77
3.3.1. Hoàn thiện quy định về tổ chức và hoạt động của Ủy ban
Pháp luật có liên quan đến hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh...........................................................................................77
3.3.2. Hoàn thiện quy định về quy trình, thủ tục xây dựng luật, pháp
lệnh.....................................................................................................80
3.3.3. Hoàn thiện một số quy định, quy chế, quy trình nội bộ................83
KẾT LUẬN....................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................88
PHỤ LỤC........................................................................................................91
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là khâu quan trọng trong quy trình lập
pháp; ở đó, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội xem xét, đánh giá về
tất cả các mặt của dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xem xét nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả của hoạt
động lập pháp.
Cùng với sự hình thành và phát triển của Quốc hội, Ủy ban Pháp luật của
Quốc hội với những tên gọi, cách thức tổ chức khác nhau nhưng luôn gắn liền
với hoạt động nghiên cứu, tham mưu, giúp Quốc hội trong việc xem xét, thông
qua các dự án luật, sắc lệnh trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa I (1946-1960) và
sau này chính là hoạt động thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh. Trong hoạt
động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh hiện nay, ngoài việc được giao chủ trì
“thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh về dân sự, hành chính, về tổ chức bộ
máy nhà nước, trừ tổ chức bộ máy của cơ quan tư pháp; thẩm tra các dự án
khác do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao” [15, Điều 70, khoản 1]
thì Ủy ban Pháp luật của Quốc hội còn có nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến,
tính hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật của tất cả các dự án
luật, pháp lệnh. Với trách nhiệm đó, hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
của Ủy ban Pháp luật là hết sức cần thiết và quan trọng.
Bên cạnh đó, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội còn một số nhiệm vụ liên
quan trực tiếp đến công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh như giúp Ủy ban
Thường vụ Quốc hội dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; bảo đảm
kỹ thuật lập pháp đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh trước khi trình Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Quá trình hoạt động, Ủy ban Pháp
luật đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong hoạt động thẩm tra dự án
1
luật, pháp lệnh, như số lượng dự án nhiều, nhiều dự án quan trọng, nhiều ý kiến
thẩm tra có chất lượng cao được ghi nhận và chỉnh lý trong dự thảo luật, pháp
lệnh... Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật đã thể
hiện được vai trò là trung tâm trong hoạt động lập pháp tại Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Ở đó, Ủy ban Pháp luật đã có nhiều đánh giá chuyên sâu
cả về các chính sách, quy trình và kỹ thuật lập pháp của dự án luật, pháp lệnh.
Qua đó, nâng cao chất lượng của các dự án luật, pháp lênh; góp phần quan
trọng vào sự thành công của công tác lập pháp của Quốc hội.
Bên cạnh đó, công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp
luật cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế dẫn đến chất lượng báo cáo
thẩm tra đối với một số dự án còn chưa cao, “một số ý kiến thẩm tra còn
chung chung, nặng về chủ trương”, “một số dự án ý kiến thẩm tra mới chỉ tập
trung phân tích, đánh giá về những chính sách lơn mà chưa đi sâu phân tích
đầy đủ các nội dung, chưa thảo luận chi tiết về nội dung của từng điều khoản
cụ thể” [23, tr.213]. Tuy rằng không nhiều, nhưng những tồn tại, hạn chế
trong công tác thẩm tra của Ủy ban Pháp luật có góp phần làm nên những tồn
tại, hạn chế của công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội. Vì thế, để góp
phần nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh thì một yêu cầu bắt buộc
và cấp thiết là phải nâng cao chất lượng của công tác thẩm tra, nhất là công
tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.
Hiện đang công tác tại đơn vị trực tiếp tham mưu, giúp việc Ủy ban
Pháp luật trong việc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh và đồng thời là học viên
cao học khóa 22, chuyên ngành Luật Hành chính và luật Hiến pháp, khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, khi lựa chọn đề tài luận văn “Hoạt động
thẩm tra dự các án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tác giả muốn sử dụng kiến thức đã
được học và kinh nghiệm công tác của bản thân để góp phần nghiên cứu một
2
cách toàn diện, thấu đáo, dưới góc độ lý luận và thực tiễn về hoạt động thẩm
tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Với mong muốn
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
Ủy ban Pháp luật; trước mắt là góp phần tích cực vào việc sửa đổi, bổ sung
một số văn bản luật có liên quan đang được Quốc hội đưa vào chương trình
xem xét.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có nhiều nghiên cứu về các vấn có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến đề tài của Luận văn. Cụ thể có thể kể đến một số công trình sau:
Luận án tiến sĩ về “Hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, của NCS Trần Văn
Thuân, bảo vệ năm 2016 tại Đại học Quốc gia; Luận văn thạc sĩ “Hoạt động
thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, thực trạng và
giải pháp”, của Nguyễn Doãn Khôi, bảo vệ năm 2014, tại Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội” của Đặng Đình Luyến, bảo vệ
năm 2006 tại Viện Nhà nước và Pháp luật… Những luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ này đã nghiên cứu về hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội, đã chỉ ra được một số kết quả, tồn tại hạn chế, nguyên nhân và giải
pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội, trong đó có hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Tuy nhiên,
các luận văn này mới chỉ nghiên cứu một cách khái quát về tất cả các hoạt
động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói chung mà chưa có
những nghiên cứu sâu về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh và nhất là
của một ủy ban như Ủy ban Pháp luật.
Một số cuốn sách đã được công bố, như: sách “Đổi mới và hoàn
3
thiện quy trình lập pháp của Quốc hội” của GS.TS. Trần Ngọc Đường và
TS. Ngô Đức Mạnh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2004; sách “Văn
bản quy phạm pháp luật và quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp
luật” của PGS.TS Phan Trung Lý, NXB Thời đại, Hà Nội – 2009; sách
“Quy trình lập pháp ở một số nước trên thế giới”, của TS. Ngô Đức Mạnh,
TS. Lương Minh Tuân, ThS. Hoàng Minh Hiếu, NXB Tư pháp, Hà Nội –
2006 là những cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu về quy trình lập pháp của
các nước, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam, trong
đó có quy trình xây dựng luật, pháp lệnh. Tuy có đưa ra những giải pháp
nhất định để đổi mới, nâng cao hiệu quả trong công tác lập pháp nhưng các
giải pháp được đề cập trong các cuốn sách này đa số không còn phù hợp với
hiện tại; các giải pháp đưa ra là chung cho cả quy trình xây dựng luật, pháp
lệnh nên chưa thực sự cụ thể cho hoạt động thẩm tra. Sách “Điều kiện hoạt
động của đại biểu Quốc hội”, của TS. Bùi Ngọc Thanh, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội – 2012 đã chỉ ra các quy định của pháp luật về điều kiện
hoạt động của đại biểu Quốc hội, đưa ra một số kiến nghị có liên quan đến
điều kiện hoạt động của Quốc hội.
Một số bài viết đã được đăng hoặc được công bố như: bài viết “Nâng
cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh” của TS Phạm Tuấn Khải, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 3/2004; bài viết “Thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh” của TS. Vũ Đức Khiển;
bài viết “Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội - Thực trạng và giải pháp” của GS. TS. Trần Ngọc
Đường; bài viết “Hoạt động tham vấn xã hội của cơ quan thẩm tra dự án luật
– thực trạng và giải pháp” của Đặng Đình Luyến... Đây là những bài viết có
đề cập đến các nội dung lý luận và thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, có liên quan đến đề tài của Luận văn. Tuy nhiên, cũng tương tự với
4
các luận văn thạc sĩ ở trên, những vấn đề thực tiễn được đề cập trong các bài
viết đã lâu, các giải pháp mà các tác giả đưa ra mang tính khái quát, chưa cụ
thể, chi tiết, nhiều giải pháp không còn phù hợp với pháp luật hiện hành.
Có thể khẳng định tất cả các công trình khoa học trên đều có đề cập ở
mức độ khác nhau về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của
luận văn, nhưng không đầy đủ, chưa có tính hệ thống và chi tiết về hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật; trong đó, nhiều nội dung
không còn phù hợp với pháp luật hiện hành và yêu cầu mới của Quốc hội. Vì
lẽ đó, có thể khẳng định đề tài luận văn “Hoạt động thẩm tra dự các án luật,
pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào những vấn đề lý luận về hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh; các quy định của pháp luật qua các thời kỳ và thực tiễn thực
hiện công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội; hoạt động thẩm tra ở Nghị viện một số nước; những vấn đề về chủ
trương, chính sách của Đảng có liên quan đến việc nâng cao chất lượng thẩm
tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ của Luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là lãm rõ cơ sở lý luận về hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; thực tiễn hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh của Ủy ban Pháp luật. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.
Với mục tiêu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh, như khái niệm, vai trò của hoạt động thẩm tra; nguyên
tắc, nội dung, quy trình, phương thức thẩm tra; các yếu tố có ảnh hưởng đến
5
chất lượng hoạt động thẩm tra.
- Phân tích quy định của pháp luật về hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật. Trên cơ sở đó, kiến nghị sửa
đổi, bổ sung một số nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Để thực hiện được những mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, ngoài
phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, diễn giải, quy nạp, so
sánh, thống kê...
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
Ủy ban Pháp luật. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; đánh giá được những kết
quả, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong công
tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật; kinh nghiệm của một
số nước về hoạt động thẩm tra các dự án luật. Trên cơ sở đó, đề xuất phương
hướng, giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập hiện nay trong công tác thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội nói chung và của Ủy ban
Pháp luật nói riêng; đồng thời, đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến hoạt động thẩm tra dự
án luật, pháp lệnh nói chung và hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
Ủy ban Pháp luật nói riêng.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu phục vụ cho việc
học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo ngành luật,
6
đặc biệt đối với chuyên ngành xây dựng văn bản pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng để nâng cao hiệu
quả hoạt động thẩm tra dự luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật nói riêng và của
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói chung. Có ý nghĩa thiết thực
trong công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, nhất là những người làm công tác
tham mưu, giúp việc cho cơ quan của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh. Những kiến nghị trong Luận văn là ý kiến thiết thực trong việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật đang được các cơ quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn
được bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy
ban Pháp luật.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Ủy ban Pháp luật.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh
1.1.1. Khái niệm thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Các cơ quan của Quốc hội gồm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban, do
Quốc hội thành lập. Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản
pháp luật hiện hành, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội được phân định thành ba lĩnh vực chính gồm có thẩm tra,
giám sát và kiến nghị. Trong hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội thì hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh vẫn là chủ yếu
và thường xuyên.
Theo Từ điển tiếng Việt, “thẩm” là xem xét; “tra” là tra khảo, tra
cứu, tra hỏi. “Thẩm tra” là điều tra, xem xét lại xem có đúng, có chính xác
không [35, tr.175]. Thuật ngữ này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau
như việc thẩm tra hồ sơ, thẩm tra năng lực, điều kiện của tổ chức, cá nhân hành
nghề xây dựng, thẩm tra tư cách đại biểu… Trong luật học, “thẩm tra” được hiểu
là việc “kiểm tra, xem xét các nội dung cơ bản của một vấn đề nào đó để đi đến
kết luận về tính đúng đắn, tính hợp pháp và tính khả thi” [32, tr.720].
Trong hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh thì thẩm tra là hoạt động bắt
buộc, là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình xem xét dự án luật, pháp
lệnh tại Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo Từ điển Luật học năm
1999 đã cắt nghĩa hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh như sau:
Thẩm tra là việc xem xét lại kĩ lưỡng dự án luật, pháp lệnh
do Hội đồng dân tộc, Ủy ban Pháp luật hoặc một Ủy ban hữu
quan của Quốc hội hay một Ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ
8
định tiến hành trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cơ
quan thẩm tra xem xét cả về hình thức và nội dung nhưng tập
trung vào xem xét sự phù hợp với chủ trương, chính sách của
Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi và
tính khả thi của dự án [18, tr.460].
Như vậy, ở Việt Nam có thể hiểu: thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là việc
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội theo quy định của pháp luật và sự
phân công của cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá các vấn đề của dự án
luật, pháp lệnh trước khi dự án luật, pháp lệnh được trình Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Sản phẩm của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là báo cáo thẩm
tra. Báo cáo thẩm tra về dự án luật, pháp lệnh chính là văn bản của cơ quan
chủ trì thẩm tra báo cáo với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó
thể hiện những quan điểm, đánh giá và đề xuất về các vấn đề của dự án luật,
pháp lệnh làm cơ sở cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét,
thông qua dự án luật, pháp lệnh. Báo cáo thẩm tra phải phản ánh được các ý
kiến của thành viên cơ quan thẩm tra và phải bao gồm các nội dung theo quy
định của pháp luật hiện hành.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Qua phân tích khái niệm thẩm tra dự án luật, pháp lệnh và quy định của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có thể khái quát một số
đặc điểm nổi bật của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh như sau:
Thứ nhất, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một khâu bắt buộc trong
quy trình xây dựng luật, pháp lệnh. “Dự án, dự thảo trước khi trình Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến phải được Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra” [17, Điều 63, khoản 1]. Báo cáo thẩm tra
là một tài liệu bắt buộc trong hồ sơ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội; để giúp, hỗ trợ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý
kiến về dự án luật, pháp lệnh hiệu quả hơn.
9
Thứ hai, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải do cơ quan của Quốc hội
thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ và sự phân công của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Một dự án luật, pháp lệnh được phân công cho một cơ quan của
Quốc hội chủ trì thẩm tra nhưng có thể có nhiều cơ quan khác của Quốc hội
được phân công tham gia thẩm tra. Trong việc tham gia thẩm tra, Ủy ban
Pháp luật của Quốc hội có trách nhiệm tham gia thẩm tra để bảo đảm tính hợp
hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với tất cả
các dự án luật, pháp lệnh. Trong một số trường hợp, Quốc hội cũng có thể
thành lập cơ quan lâm thời để thẩm tra một dự án luật.
Thứ ba, dự án luật, dự án pháp lệnh có thể được thẩm tra một lần hoặc
nhiều lần. Pháp luật hiện hành không khống chế số lần thẩm tra đối với một
dự án luật, pháp lệnh. Thông thường đối với một dự án luật, Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra hoặc Thường trực Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội thẩm tra sơ bộ trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội
cho ý kiến và được Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra trước
khi trình Quốc hội xem xét; đối với dự án pháp lệnh, Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội thẩm tra một lần trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc
hội xem xét. Tuy nhiên, có trường hợp dự án luật được Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội thẩm tra nhiều lần hơn. Số lần thẩm tra đối với một dự án
luật thường phụ thuộc vào nội dung dự án có thay đổi hay không sau lần thẩm
tra đầu tiên hoặc nội dung của dự án luật có thể được Quốc hội xem xét từng
phần, chẳng hạn như Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội xem xét thành
02 phần thì Ủy ban Pháp luật thẩm tra đối với từng phần tương ứng.
Thứ tư, hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải tuân theo phương
thức luật định. Theo quy định, cơ quan chủ trì thẩm tra phải tổ chức phiên họp
toàn thể để thẩm tra; đối với dự án trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý
kiến trước khi trình Quốc hội thì có thể tổ chức phiên họp Thường trực Hội
đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban để thẩm tra sơ bộ.
10
Thứ năm, trong thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, cơ quan thẩm tra xem
xét, đánh giá cả về nội dung, trình tự, thủ tục và kỹ thuật lập pháp của văn
bản. Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh thông thường có các nội dung chính sau:
(1) phạm vi, đối tượng điều chỉnh; (2) nội dung của dự thảo văn bản và những
vấn đề còn có ý kiến khác nhau; việc giao và chuẩn bị văn bản quy định chi
tiết (nếu có); (3) sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với chủ trương,
đường lối của Đảng; tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo
văn bản với hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên
quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (4) tính khả thi
của các quy định trong dự thảo văn bản; (5) điều kiện bảo đảm về nguồn nhân
lực, tài chính để bảo đảm thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
1.1.3. Vai trò của thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Thứ nhất, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là khâu quan trọng trong quy
trình lập pháp:
Trong quy trình lập pháp của Nghị viện các nước thường được chia
thành ba lần đọc. Lần đọc thứ nhất nhằm giới thiệu dự án luật, lần đọc thứ hai
nhằm xem xét các nguyên tắc cơ bản của dự án luật và lần đọc thứ ba là để
xem xét, thông qua dự án luật. Thông thường quy trình xây dựng luật, pháp
lệnh bao gồm (1) lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; (2) soạn thảo
luật, pháp lệnh; (3) thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; (4) Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật; (5) thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý và
thông qua dự án luật, pháp lệnh; (6) công bố luật, pháp lệnh. Như vậy, tại
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy trình xem xét, thông qua một dự
án luật, pháp lệnh cũng có thể chia làm 3 bước tương tự như quy trình lập
pháp của Nghị viện các nước, cụ thể là (1) lập chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh; (2) xem xét, cho ý kiến về dự án luật, pháp lệnh và (3) tiếp thu,
chỉnh lý, thông qua dự án luật. Cho dù theo quy trình nào thì việc thẩm tra
11
đều có vai trò hết sức quan trọng trong quy trình lập pháp. Thông qua hoạt
động thẩm tra, cơ quan thẩm tra đại diện cho người dân kiểm tra lại các chính
sách thể hiện trong dự án luật, pháp lệnh, chỉ ra những chính sách chưa đúng,
chưa phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, chưa phù hợp với thực tiễn
cuộc sống, góp phần làm cho dự án luật, pháp lệnh sau khi được thông qua có
nội dung phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, với điều kiện kinh tế - xã
hội, có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Điều này thể hiện vai trò của
Ủy ban mà trung tâm của nó chính là hoạt động thẩm tra. Trong quy trình lập
pháp của Nghị viện ở các quốc gia trên thế giới, vai trò của Ủy ban là khác
nhau, tùy thuộc vào việc Ủy ban thẩm tra ở giai đoạn nào trong quy trình lập
pháp và mức độ độc lập trong việc xem xét dự án luật của Ủy ban, cụ thể như:
Ở một số nước như Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ..., Ủy ban thẩm
tra trước phiên họp toàn thể (lần đọc thứ hai của Nghị viện). Theo quy trình
này, Ủy ban có toàn quyền quyết định việc đưa hoặc không đưa một dự án
luật ra xem xét trước Nghị viện. Điều này có nghĩa là, phải có chính kiến của
Ủy ban thẩm tra thì dự án luật mới được đưa ra xem xét tại phiên họp toàn thể
của Nghị viện, nếu không ủng hộ một dự án luật nào đó thì Ủy ban có thể
viện đủ mọi lý do để trì hoãn việc báo cáo về dự án luật trước Nghị viện. Như
vậy, Ủy ban có vai trò quyết định số phận của dự án luật đó [9]; có tác giả
nhận xét, các Ủy ban ở Hoa Kỳ “là chỗ để chôn vùi hoặc làm luật trước khi
đưa ra toàn viện. Dự luật nào không ra khỏi Ủy ban được là coi như chết.
Nếu nhất trí, nó gần như sẽ được thông qua (tại Nghị viện)... [13, tr.85-86].
Tương tự như vậy, ở Việt Nam, dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến phải được Hội đồng
Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra. “Trong trường hợp cơ quan chủ trì
thẩm tra có ý kiến dự án, dự thảo chưa đủ điều kiện trình Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Quốc hội thì báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trả lại hồ
12
sơ cho cơ quan trình dự án, dự thảo để tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự
thảo” [17, Điều 67, khoản 2], đây cũng là một trong những quy định mới của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Hơn nữa, với ưu thế
được xem xét trước khi trình ra phiên họp toàn thể Nghị viện, Ủy ban của
Nghị viện một số nước còn có quyền chỉnh sửa, thậm chí viết lại dự án luật
theo ý kiến của Ủy ban. Tức là Ủy ban có quyền trình một dự án luật mới dựa
trên cơ sở dự án luật do các chủ thể khác đệ trình. Thông qua cơ chế này, dự
án luật của Ủy ban sẽ được ưu tiên xem xét so với dự án luật gốc và Ủy ban
có thể chi phối lịch làm việc của Nghị viện. Như vậy, Ủy ban hoàn toàn có thể
chủ động trong quá trình xem xét dự án luật, đồng thời cũng giúp cho Nghị
viện có tiếng nói độc lập hơn mà không phụ thuộc vào những nội dung của dự
luật mà các chủ thể khác đệ trình. Ở nước ta, sau khi dự án luật được Quốc
hội cho ý kiến thì:
Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ
chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban Pháp luật, Bộ
Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp
thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh
lý dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội [17, Điều 74, khoản 6].
Với quy định này, mặc dù cơ quan thẩm tra không được viết lại theo ý
kiến của mình mà phải viết lại các điều luật theo ý kiến của đại biểu để trình
ra Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhưng với ưu thế là cơ quan đã
trình báo cáo thẩm tra, tham mưu cho Quốc hội thì hầu hết các ý kiến của cơ
quan đã thẩm tra đều được thể hiện trong dự thảo luật, pháp lệnh để trình ra
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nói như vậy để thấy được vai trò của
cơ quan thẩm tra trong quy trình làm luật, pháp lệnh ở nước ta tương tự như
những nước này.
Ở một số nước như Italia, Tây Ban Nha,... các Ủy ban của Nghị viện
13
còn có vai trò đặc biệt trong hoạt động lập pháp, dự luật có thể được thông
qua ngay trong giai đoạn Ủy ban nếu được Nghị viện cho phép. Ở các nước
này, số lượng thành viên của các Ủy ban được tính toán tỷ lệ với số đại biểu
của các đảng chính trị trong Nghị viện. Vì vậy, đối với một số vấn đề, tỷ lệ
biểu quyết ở các Ủy ban thường tương đương với tỷ lệ biểu quyết ở phiên
họp toàn thể của Nghị viện. Điều này có nghĩa là quyết định của các Ủy ban
cũng tương tự như quyết định của toàn thể Nghị viện. Tuy nhiên, một số
nước có quy định một số vấn đề không được giao cho các Ủy ban quyết
định. Chẳng hạn, theo khoản 3 Điều 75 Hiến pháp Tây Ban Nha thì các vấn
đề về sửa đổi hiến pháp, quan hệ đối ngoại, ngân sách nhà nước và các vấn
đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước không được giao cho các Ủy ban
của Nghị viện quyết định [9].
Ở một số nước như Anh, Canada, Australia,.. Ủy ban xem xét, thẩm tra
dự án được đặt giữa lần đọc thứ hai và lần đọc thứ ba với mục đích xem xét
chi tiết về dự án luật và chỉnh lý dự án luật theo những nguyên tắc đã được
phiên họp toàn thể của Nghị viện quyết định tại lần đọc thứ hai. Theo quy
trình này, thông thường Ủy ban không có quyền bác bỏ dự án luật do Chính
phủ trình mà chỉ nghiên cứu để trình ra Nghị viện xem xét. Điều này có nghĩa
là, Ủy ban không có cơ hội chính thức để thể hiện chính kiến của mình về
những chính sách thể hiện trong dự án luật mà chỉ có thể bình luận về các giải
pháp mà cơ quan trình dự án nêu ra và tham gia chỉnh sửa về mặt kỹ thuật đối
với các dự án luật. Tuy nhiên, cơ chế này có điểm thuận lợi là Nghị viện
không phải mất thời gian để tranh cãi vô bổ cả về nội dung chính sách lẫn các
vấn đề về kỹ thuật lập pháp. Bởi vì, tại lần đọc thứ hai, Nghị viện chỉ thảo
luận và thông qua chính sách, nguyên tắc cơ bản của dự luật, còn các vấn đề
về mặt kỹ thuật lập pháp sẽ được xem xét tại các Ủy ban để đến lần đọc thứ
ba, Nghị viện sẽ thông qua một dự luật tương đối hoàn thiện cả về mặt nội
dung lẫn kỹ thuật.
Theo thống kê, có khoảng 36 Nghị viện quy định các dự thảo luật do
14
Nghị viện xem xét trước sau đó sẽ được chuyển đến các Ủy ban và 47 Nghị
viện quy định các dự thảo luật do Ủy ban xem xét trước sau đó sẽ trình tại
phiên họp toàn thể của Nghị viện [2, tr.360].
Thứ hai, hoạt động thẩm tra hỗ trợ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội trong việc xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh:
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, xem xét dự án luật tại Ủy ban của
Nghị viện là một khâu, một giai đoạn quan trọng trong quy trình lập pháp
với vai trò trước hết và tập trung nhiều ở việc hỗ trợ hoạt động lập pháp của
Nghị viện. Tại Ủy ban chính là diễn đàn của các nghị sĩ có kiến thức chuyên
sâu về ngành, lĩnh vực đại diện các nhóm lợi ích và cử tri để phân tích, thảo
luận cả về nội dung chính sách và kỹ thuật lập pháp được thể hiện trong dự
án luật. Nói cách khác:
Ủy ban chính là nơi cung cấp cho Nghị viện những kiến thức
chuyên sâu nhất về chính sách được thể hiện trong dự luật và cũng
chính là nơi giải quyết những vấn đề kỹ thuật pháp lý của dự luật.
Ủy ban tạo ra những khoảng không gian và thời gian cần thiết để
phân tích và thảo luận về dự luật một cách hiệu quả hơn so với các
phiên họp toàn thể của Nghị viện [9].
Ở nước ta, trong điều kiện phần lớn đại biểu Quốc hội hoạt động không
chuyên trách, số lượng các dự án luật, pháp lệnh đưa ra xem xét, thông qua
ngày một nhiều, nội dung ngày càng mang tính chuyên môn sâu, phức tạp và
chất lượng đòi hỏi ngày càng cao, trong khi thời gian mỗi kỳ họp Quốc hội,
phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội rất hạn chế, thì việc thẩm tra của cơ
quan phụ trách lĩnh vực đó là rất quan trọng và cần thiết. Các đại biểu Quốc
hội, thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cảm thấy an tâm hơn khi nhận
được những thông tin đầy đủ và có tính thuyết phục từ các báo cáo thẩm tra.
Việc trình báo cáo thẩm tra có chất lượng tốt ra trước Quốc hội, Ủy ban
15
Thường vụ Quốc hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận, thông qua
dự án luật, pháp lệnh. Báo cáo thẩm tra giúp cho các đại biểu Quốc hội có cơ
sở lý luận và thực tiễn để thảo luận một cách có hiệu quả về dự án luật, pháp
lệnh; đồng thời qua những lập luận nêu trong báo cáo thẩm tra, đại biểu Quốc
hội có thêm căn cứ để tỏ thái độ của mình đối với các vấn đề còn có ý kiến
khác nhau, giảm bớt được thời gian tranh luận và bảo đảm được tiến độ xem
xét, thông qua luật, pháp lệnh.
Thứ ba, hoạt động thẩm tra góp phần hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh:
Như phân tích ở trên, ở một số quốc gia, thông qua hoạt động thẩm tra
các Ủy ban có thể kiến nghị cơ quan trình chỉnh sửa dự án luật, pháp lệnh,
thậm chí ở một số nước Ủy ban có thể viết lại dự án luật theo ý kiến của Ủy
ban dựa trên cơ sở dự án luật do các chủ thể khác đệ trình. Thực tế hoạt động
ở Việt Nam, trong giai đoạn thẩm tra, cơ quan thẩm tra thường đưa ra chính
kiến của mình về các vấn đề của dự án luật, pháp lệnh; đồng thời kiến nghị,
đề nghị cơ quan soạn thảo, cơ quan trình dự án luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung dự án luật, pháp lệnh cả về nội dung chính sách và hồ sơ dự án trước khi
trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Sau khi cơ quan thẩm tra tiến
hành thẩm tra sơ bộ hoặc thẩm tra chính thức, trên cơ sở ý kiến tại cuộc họp
thẩm tra, không ít dự án luật, pháp lệnh được cơ quan soạn thảo, cơ quan trình
chỉnh lý, sửa đổi. Thông thường trong trường hợp này, cơ quan trình sẽ sửa
đổi hoặc có Tờ trình bổ sung để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội
cho ý kiến và kèm theo Tờ trình là dự thảo luật, pháp lệnh đã được tiếp thu
các ý kiến thẩm tra. Qua đó, dự thảo luật, pháp lệnh được hoàn thiện một
bước. Do đó, không chỉ có vai trò hỗ trợ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội mà báo cáo thẩm tra cũng là một nguồn ý kiến làm cơ sở cho cơ quan có
thẩm quyền nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý vào dự thảo luật, pháp lệnh; với
trách nhiệm chủ trì giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc nghiên cứu,
16
giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh thì các ý kiến thẩm tra của
cơ quan chủ trì thẩm tra càng có vai trò to lớn trong việc hoàn thiện dự án
luật, pháp lệnh.
1.2. Thẩm quyền và nguyên tắc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
1.2.1. Thẩm quyền thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Trước khi ban hành Hiến pháp năm 1992, việc thẩm tra dự án luật
được thực hiện theo Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh năm 1988, Luật Tổ
chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981. Các văn bản này không
quy định cụ thể phạm vi, lĩnh vực các dự án luật, pháp lệnh thuộc thẩm
quyền thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, từng Ủy ban của Quốc hội mà việc
thẩm tra mỗi dự án tùy thuộc vào sự phân công của Quốc hội, Hội đồng Nhà
nước. Thực tiễn thời gian này cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định về
nhiệm vụ thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, nhưng do
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội không có thành viên làm việc
chuyên trách và không có bộ phận thường trực nên hầu hết các dự án luật,
pháp lệnh được giao cho Ủy ban Pháp luật thẩm tra.
Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Quốc hội năm
1992, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì nhiệm vụ
thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội đã được quy định cụ thể
hơn và cơ bản được kế thừa cho đến nay. Theo đó, thẩm quyền thẩm tra của
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội được xác định theo phạm vi, lĩnh vực
hoạt động của Hội đồng Dân tộc, từng Ủy ban của Quốc hội. Trong trường
hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình dự án luật thì Quốc hội quyết định cơ
quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó; đối
với các dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
trình thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra; đối với
những dự án luật, pháp lệnh có nội dung liên quan đến lĩnh vực phụ trách của
17
Hội đồng Dân tộc và nhiều Ủy ban của Quốc hội thì Quốc hội cũng có thể
thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân
công cơ quan chủ trì thẩm tra. Việc phân định phạm vi, lĩnh vực phụ trách
của các cơ quan của Quốc hội là một bước tiến bộ, là cơ sở để Ủy ban
Thường vụ Quốc hội phân công thẩm tra và tạo điều kiện để các cơ quan có
cơ hội nghiên cứu sâu hơn về trong lĩnh vực mà mình phụ trách để từ đó có
thể đưa ra các ý kiến thẩm tra sâu hơn, kỹ hơn đối với các dự án luật, pháp
lệnh; nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động thẩm tra. Hiện nay, việc
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh được giao cho các cơ quan của Quốc hội, bao
gồm Hội đồng Dân tộc và 9 Ủy ban của Quốc hội, cụ thể là gồm Ủy ban
Pháp luật; Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính, Ngân sách;
Ủy ban Quốc phòng và An ninh; Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên,
Thiếu niên và Nhi đồng; Ủy ban Về các vấn đề xã hội; Ủy ban Khoa học,
công nghệ và Môi trường; Ủy ban Đối ngoại.
Do có sự phân định về lĩnh vực phụ trách và sự phân công của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội nên một dự án luật, pháp lệnh chỉ có một cơ quan chủ trì
thẩm tra nhưng có thể có nhiều cơ quan của Quốc hội tham gia thẩm tra.
Trong đó, Ủy ban Pháp luật có nhiệm vụ tham gia thẩm tra các dự án do Hội
đồng Dân tộc, Ủy ban khác của Quốc hội chủ trì nhằm bảo đảm tính hợp hiến,
tính hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; Ủy ban về các vấn
đề xã hội có trách nhiệm tham gia thẩm tra dự án luật, pháp lệnh do cơ quan
khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra để bảo đảm việc lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới khi dự án đó có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới; Hội
đồng Dân tộc, Ủy ban khác của Quốc hội có trách nhiệm tham gia thẩm tra
đối với dự án luật, pháp lệnh do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra
theo sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Việc quy định trách
nhiệm tham gia thẩm tra là rất cần thiết, bởi vì, trong một dự án luật có thể có
18