Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.17 KB, 115 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI H HNH QUYấN

PHáP LUậT Về PHÂN CấP QUảN Lý NGÂN SáCH
NHà NƯớC TRONG LĩNH VựC ĐầU TƯ CÔNG ở VIệT
NAM HIệN NAY

LUN VN THC S LUT HC


HÀ NỘI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI H HNH QUYấN

PHáP LUậT Về PHÂN CấP QUảN Lý NGÂN SáCH
NHà NƯớC TRONG LĩNH VựC ĐầU TƯ CÔNG ở VIệT
NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 8380101.05

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Lấ TH THANH



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các ngh ĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Hà Hạnh Quyên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC ĐẦU
TƯ CÔNG....................................................................................................6

1.1.

Khái luận về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư công..................................................................................................6

1.1.1. Khái niệm và bản chất của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước...........6
1.1.2. Khái niệm về phân cấp quản lý đầu tư công và phân cấp quản lý
Ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công......................................11
1.2.

Một số vấn đề về pháp luật phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
trong lĩnh vực đầu tư công........................................................................17

1.2.1. Khái niệm về pháp luật phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong
lĩnh vực đầu tư công..................................................................................17
1.2.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư công...............................................................18
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công........................................................35
Kết luận chương 1.................................................................................................38
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CÔNG VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................39
2.1.

Pháp luật về thẩm quyền bố trí vốn Ngân sách nhà nước trong hoạt
động đầu tư công và thực tiễn thi hành ở Việt Nam hiện nay...................39

2.2.


Pháp luật về thẩm quyền cấp phát vốn cho các chương trình, dự
án đầu tư công sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và thực
tiễn thi hành ở Việt Nam hiện nay...........................................................42


2.3.

Pháp luật về phân cấp thẩm quyền trong chu trình quản lý ngân
sách nhà nước cho đầu tư công và thực tiễn thi hành ở Việt Nam
hiện nay......................................................................................................45

2.4.

Pháp luật về thẩm quyền xử lý trường hợp cần phải điều chỉnh
nguồn ngân sách nhà nước cho đầu tư công và thực tiễn thi hành ở
Việt Nam hiện nay.....................................................................................51

2.4.1. Quy định điều chỉnh trong trường hợp kéo dài thời gian thực hiện
giải ngân vốn NSNN trong kế hoạch đầu tư công hàng năm...................51
2.4.2. Quy định về thẩm quyền xử lý các dự án đầu tư công bị tăng vốn...........54
2.4.3. Quy định thẩm quyền ứng trước dự toán ngân sách năm sau cho
đầu tư công.................................................................................................59
2.4.4. Quy định về thẩm quyền xử lý các dự án đầu tư công phát sinh
ngoài kế hoạch...........................................................................................61
2.4.5. Quy định thẩm quyền điều chỉnh mức vốn ngân sách nhà nước chi
cho đầu tư công..........................................................................................61
2.4.6. Quy định thẩm quyền trong quy trình xây dựng và thực dự án đầu
tư công sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước có quy mô nhỏ............63
2.4.7. Quy định thẩm quyền xử lý các dự án đầu tư công bị hủy bỏ..................65
2.5.


Pháp luật về thẩm quyền kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về
các hoạt động đầu tư công sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước
và thực tiễn thi hành ở Việt Nam hiện nay..............................................66

2.6.

Đánh giá quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt
Nam hiện nay và nguyên nhân.................................................................71

2.6.1. Đánh giá quy định pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.............................71
2.6.2. Đánh giá công tác thực hiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.............75
2.6.3. Nguyên nhân..............................................................................................78
Kết luận chương 2.................................................................................................80


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÂN
CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC
ĐẦU TƯ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................81
3.1.

Mục tiêu, yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam....................81

3.2.

Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân

sách nhà nước trong đầu tư công ở Việt Nam hiện nay..........................84

3.2.1. Đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng
nguồn vốn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công....................84
3.2.2. Bổ sung thêm quy định về việc xây dựng kế hoạch đầu tư công 03 năm
.................................................................................................................... 85
3.2.3. Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu
tư công giữa các cấp chính quyền, khắc phục tình trạng ngân sách
lồng ghép.....................................................................................................85
3.2.4. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền xử lý những trường
hợp phải điều chỉnh trong hoạt động đầu tư công sử dụng nguồn
vốn ngân sách nhà nước............................................................................87
3.2.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm về các hoạt động đầu tư công sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà
nước............................................................................................................88
3.2.6. Tham khảo thêm kinh nghiệm nước ngoài, tổ chức các hội thảo
nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công................................................91
3.3.

Nhóm giải pháp tăng cường công tác thực hiện pháp luật về phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước về đầu tư công.....................................92

3.3.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra với các hoạt động phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công.........................92
3.3.2. Tăng cường quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn ngân sách
nhà nước cho đầu tư công.........................................................................93
3.3.3. Chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý
vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư công.................................................94



3.3.4. Tăng cường phối hợp triển khai giữa các cơ quan, đơn vị có thẩm
quyền liên quan đến hoạt động đầu tư công sử dụng nguồn vốn
ngân sách nhà nước...................................................................................95
3.3.5. Xây dựng cơ sở dữ liệu về đầu tư công và ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý đầu tư công sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước...........96
3.3.6. Đổi mới nhận thức và nâng cao trình độ cho công dân để tăng
cường công tác thực hiện pháp luật về quản lý ngân sách nhà
nước trong đầu tư công.............................................................................97
Kết luận chương 3...............................................................................................101
KẾT LUẬN..........................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................103


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CQĐP

Chính quyền địa phương

CQTƯ

Chính quyền trung ương

DN

Doanh nghiệp

HĐND


Hội đồng nhân dân

KBNN

Kho bạc Nhà nước

NSNN

Ngân sách nhà nước

NSTW

Ngân sách trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

XDCB

Xây dựng cơ bản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xử lý các mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương trong hoạt động của ngân
sách nhà nước, từ đó cho phép hình thành một cơ chế phân chia ranh giới quyền lực
về quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền.
Việc phân cấp không hợp lý sẽ dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi cho việc quản

lý nhà nước. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là vấn đề lớn có ý nghĩa quan
trọng và là một trong những nội dung mang tính đột phá trong quá trình cải cách
toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta. Tập trung cao độ về thẩm
quyền quyết định ngân sách ở chính quyền Trung ương sẽ làm gia tăng “cơ chế xin cho”, sự quan liêu và phát sinh nhiều tiêu cực, đồng thời làm thủ tiêu sự năng động,
sáng tạo, chủ động trong quản lý, điều hành của các cấp cấp chính quyền địa
phương và của từng đơn vị cơ sở. Ngược lại, đẩy mạnh phân cấp quá lớn cho các
cấp chính quyền địa phương, đơn vị cơ sở có nguy cơ phá vỡ tính hệ thống, nhất
quán trong quản lý, điều hành ngân sách, làm hạn chế vai trò của ngân sách Trung
ương trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng, ở tầm vĩ mô của nền kinh tế,
tạo ra sự đột phá trong sự phát triển.
Đầu tư công có ý nghĩa quan trọng, đóng vai trò tạo nền tảng vật chất kỹ
thuật quan trọng cho đất nước, là đòn bẩy đối với một số ngành và vùng trọng điểm,
đồng thời thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Tái cấu trúc đầu tư công là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng tăng
trưởng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập của Việt
Nam, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đầu tư công là hoạt động đầu tư
của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội
và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Do đó,
Nhà nước cần đưa ra những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh về các khoản chi
trong NSNN cho lĩnh vực đầu tư công.

1


Vì vậy, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công là
một nội dung rất cần thiết và quan trọng, cần được pháp luật điều chỉnh.
Hiện nay, cùng với quá trình đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội trong gần 20 năm, quản lý ngân sách nói chung và phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực, góp
phần thúc đẩy kinh tế xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc sử dụng nguồn

lực tài chính công. Tuy nhiên, trước tình hình biến động của thực tiễn và hội nhập
quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng; yêu cầu quản lý sử dụng nguồn lực tài chính
công ngày càng cao, hệ thống pháp luật của chúng ta chưa hoàn thiện, công tác thực
thi pháp luật chưa đảm bảo tính nghiêm minh, triệt để, thì đòi hỏi cần tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư công ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ nhu cầu đó, tôi đã lựa chọn đề tài luận
văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình là “Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu, đề ra
những giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý ngân sách nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về Phân cấp quản lý
NSNN trong lĩnh vực đầu tư công và pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư công.
2.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở nước ta trên cơ sở nghiên
cứu và hệ thống hóa lý luận về pháp luật và thực trạng pháp luật phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về phân cấp quản lý NSNN trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam
là một đề tài rất rộng, luận văn chỉ xin đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề trong

2


pháp luật về phân cấp quản lý NSNN trong lĩnh vực đầu tư công, tập trung vào vấn
đề phân cấp về thẩm quyền, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến nay. Cụ thể
như sau:

Nghiên cứu và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý NSNN
trong lĩnh vực đầu tư công và pháp luật về phân cấp quản lý NSNN trong lĩnh vực
đầu tư công.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận cùng với đánh giá thực trạng pháp
luật về phân cấp quản lý NSNN trong đầu tư công ở Việt Nam, luận văn phân tích
những ưu và nhược điểm, những nội dung bất hợp lý của các quy định về phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay; tìm ra
nguyên nhân gây ra những hạn chế đã chỉ ra.
Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật phân cấp ngân sách nhà nước
trong lĩnh vực đầu tư công và giải pháp tăng cường công tác thực hiện pháp luật về
phân cấp ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, tác
giả luận văn đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã
hội và các phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các phương pháp
chủ yếu bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp phân loại, v.v..
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng chủ yếu để làm sáng tỏ những quy định
của pháp luật liên quan đến các phân cấp quản lý NSNN trong lĩnh vực đầu tư công.
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên
cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên hợp lý, dễ hiểu.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh quy định của pháp luật
hiện hành về phân cấp quản lý NSNN trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam với
thực tiễn thực hiện.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính trong thu thập và xử lý
thông tin, dữ liệu để phân tích, so sánh, tổng hợp. Cách thức tiếp cận nguồn dữ liệu

3



là thông qua quan sát, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau). Nguồn dữ liệu
thu thập từ bên ngoài bao gồm: các bài báo, bài nghiên cứu, báo cáo thường niên,…
được đăng tải trên các báo, tạp chí, thông tin từ các website, báo cáo thường niên
kinh tế Việt Nam và các tổ chức có uy tín v.v..
5. Tình hình nghiên cứu
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước không phải là một vấn đề quá mới. Trước
đây đã có khá nhiều các công trình khoa học, bài báo nghiên cứu về vấn đề này.
Bài viết“Một số vấn đề pháp lý về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”được đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Luật học 26 (2010) trang 34 – 43 của PGS. TS Lê Thị Thu Thủy. Trong bài viết có
phân tích những nội dung cơ bản về lý luận bao gồm khái niệm, đặc điểm, nguyên
tắc và nôi dung của phân cấp quản lý NSNN. Từ đó, tác giả đi sâu vào thực trạng
pháp luật về phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam vào thời điểm năm 2010 và trên
cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Bài viết “Một số khía cạnh pháp lý về phân định thẩm quyền thu Ngân sách
Nhà nước ở Việt Nam” đã được đăng trong Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học
28 (2012) trang 85-94 của TS. Nguyễn Thị Lan Hương, phân tích và lý giải nguyên
nhân dẫn đến cần hoàn thiện pháp luật theo hướng phân cấp các khoản thu điều tiết
cố định cho NSĐP, kiểm soát tính hiệu quả trong phân bổ nguồn lực công vì công
bằng xã hội và lợi ích của người dân. Trên thực tế, còn tồn tại bất cập trong phân
định thẩm quyền thu NSNN dẫn đến hạn chế quyền tự chủ tài chính ở địa phương,
ngoài ra, nguyên tắc công khai, minh bạch chưa được triệt để tuân thủ trong quản lý
thu, chi NSNN.
Năm 2013, tác giả Lê Toàn Thắng đã thực hiện luận án tiến sĩ chuyên ngành
Quản lý tài chính công, Học viện Hành chính với đề tài “Phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay”. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học
mang tính tổng quát đối với vấn đề phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam vào giai
đoạn 2013. Mặc dù đây không phải công trình nghiên cứu dưới góc độ luật học, và
cũng căn cứ theo Luật Ngân sách nhà nước 2002, tuy nhiên, luận án gợi mở được


4


những lý luận và hệ thống hóa các nội dung về quản lý NSNN xây dựng cơ sở khoa
học để đánh giá thực trạng phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế
và từ đó đưa ra giải pháp cụ thể.
Bài viết “An essay on Fiscal Federalism” của Wallace E. Oates trong Journal
of Economic Literature, Vol.37, No.3 (September 1999), trang 1120 – 1149 đã đưa
ra quan điểm lý luận của học giả Wallace E. Oates giải thích sự cần thiết, nguồn gốc
dẫn đến nhu cầu phải phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cho các cấp chính
quyền, để tối đa hóa phúc lợi xã hội. Ngoài ra, bài viết còn đề cập đến các nội dung
khác của chế độ tài chính liên bang và các vấn đề xung quanh nó.
Tuy nhiên chưa có bài viết hay công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về
vấn đề pháp luật phân cấp quản lý ngân sách trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương sau:
Chương 1. Một số vấn đề lí luận về pháp luật phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công.
Chương 2. Thực trạng của pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÂN CẤP QUẢN LÝ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CÔNG
1.1. Khái luận về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực

đầu tư công
1.1.1. Khái niệm và bản chất của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Xuất phát từ hình thức cấu trúc của nhà nước, hệ thống chính quyền của
nhiều nước trên thế giới được phân thành nhiều cấp khác nhau, mỗi cấp lại có
những nhiệm vụ và quyền hạn riêng về hành chính, kinh tế, xã hội,... Vì thế, việc
hình thành hệ thống ngân sách nhà nước gồm nhiều cấp và việc phân cấp ngân sách
nhà nước là một tất yếu khách quan. Bởi vì mỗi cấp ngân sách nhà nước đều có
nhiệm vụ thu, chi mang tính độc lập tương đối. Đối với việc quản lý nhà nước nói
chung và quản lý tài chính nhà nước nói riêng, nếu cơ chế phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước được thiết lập phù hợp thì việc quản lý tài chính của nhà nước sẽ
được nâng cao góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định của nền kinh tế – xã hội.
Sự phân giao về ngân sách cho các cấp chính quyền làm nảy sinh khái niệm
về phân cấp quản lý ngân sách. Xuất phát từ quan điểm của nhiều nhà học giả nổi
tiếng thế giới như Musgrave – Oates, Tiebout hay Brennan – Buchanan…, lý thuyết
về phân cấp quản lý NSNN được nghiên cứu, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Lý thuyết phân cấp quản lý NSNN của Musgrave - Oates
Lý thuyết phân cấp quản lý NSNN của Musgrave – Oates được coi là thế hệ
lý thuyết đầu tiên và được xây dựng dựa trên quan điểm chuẩn tắc về hiệu quả và
công bằng. Theo lý thuyết truyền thống của Musgrave: Xuất phát từ hiệu quả kinh
tế, lợi ích của việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng được giới hạn về không
gian, phù hợp với sở thích của người dân địa phương. Nhờ phân cấp, người dân sẽ
bộc lộ sở thích thông qua “bỏ phiếu vì quyền lợi của mình”. Hàng hóa công cộng ở
địa phương sẽ làm gia tăng phúc lợi so với trường hợp chỉ có một cấp duy nhất cung
cấp các dịch vụ công cộng trong toàn bộ nền kinh tế. Từ đó dẫn đến cần thiết phải
có phân cấp ngân sách.

6


Wallace Oates (1937 – 2015) [35] là cha đẻ của lí thuyết phân quyền tài khoá

liên bang (Fiscal federalism), ông có ảnh hưởng lớn trong việc phân quyền ở không
những các quốc gia tiến bộ mà cả những quốc gia thời kì hậu Xô Viết. Trong tác
phẩm Fiscal Federalism (1972), ông đã phát triển cách tiếp cận này thành lý thuyết
phân cấp quản lý NSNN. Luận điểm nổi bật trong lý thuyết của Oates là phân cấp
quản lý NSNN sẽ làm gia tăng phúc lợi toàn xã hội.
Giả thuyết quan trọng trong lý thuyết của Oates là cơ quan trung ương, do
không nắm được thông tin chính xác, nên đối với tất cả các địa phương thuộc lãnh
thổ quốc gia mình đều sẽ cung cấp một khối lượng hàng hóa công cộng như nhau.
Việc cung cấp đồng nhất một lượng các hàng hóa công cho mọi địa phương là phù
hợp đối với với các hàng hóa mang lợi ích quốc gia như bảo vệ quốc phòng, nhưng
sẽ không phù hợp nếu các hàng hóa mang tính địa phương như xây dựng bệnh viện
hay trường học ở địa phương. Và chính quyền địa phương có thể tiếp cận thông tin
về nhu cầu của người dân thuộc địa phận quản lý của mình tốt hơn so với cơ quan
trung ương, từ đó sẽ cung cấp các hàng hóa công cộng phù hợp nhất với nhu cầu,
mong muốn của họ. Mặt khác, Oates cũng tin rằng khi cho phép các CQĐP cung
cấp những hàng hóa cụ thể, CQĐP sẽ linh hoạt hơn trong việc phân phối các hàng
hóa này, để bỏ ra chi phí thấp nhất có thể. Nói cách khác, đối với các địa phương
khác nhau, hàng hóa công cộng sẽ phụ thuộc vào sự khác biệt trong nhu cầu của
người dân địa phương ấy, được chính quyền địa phương phân phối hợp lý nhất với
chi phí thấp. Như vậy, với hoạt động phân cấp quản lý NSNN, chế độ dân chủ ở địa
phương được phát huy, từ đó góp phần vào quá trình dân chủ hóa của xã hội.
Như vậy, theo lý thuyết của Musgrave – Oates, CQTƯ nên được giao trách
nhiệm phân phối thu nhập và ổn định kinh tế vĩ mô vì tác động ngoại ứng của các
công cụ tài khóa có thể xảy ra, trong khi chức năng phân bổ nguồn lực hiệu quả nên
được giao cho tất cả các cấp chính quyền [22, tr. 26-29]
Lý thuyết phân cấp quản lý NSNN theo quan điểm lựa chọn công
Các lý thuyết phân cấp quản lý NSNN theo quan điểm lựa chọn công đã lý
giải về điều kiện để việc phân cấp quản lý NSNN đạt hiệu quả như lý thuyết “bỏ

7



phiếu bằng chân” (voting by their feet) của Tiebout (1956); hay dựa trên việc thiết
lập về quyền sở hữu nguồn lực của Brennan-Buchanan (1980); hay cơ chế dân chủ
trong bỏ phiếu bầu các nhà lãnh đạo địa phương như nghiên cứu của Inman và
Rubinfeld (1997)…
Xuất phát từ những lý thuyết đó, người ta đưa ra các khái niệm về thuật ngữ
có liên quan như sau:
Theo một số tác giả, phân cấp chính là phân quyền giữa trung ương và địa
phương [27, tr.12]. Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp, các hạng [28]. Phân cấp
có sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát dân và
sát tình hình thực tiễn, đồng thời, để giảm bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực
tiếp giải quyết những việc sự vụ. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn
rõ ràng và bảo đảm tính thống nhất từ trung ương đến cơ sở [13]. Có quan niệm khác
cho rằng, phân cấp có thể theo hai hướng: một hướng nằm ngang là sự phân chia căn
cứ vào sự khác nhau của các công việc của một cấp; hướng nằm dọc (thẳng đứng) là
sự phân chia theo cơ cấu thứ bậc công việc giữa các cấp khác nhau [25, tr.744].
Có ý kiến cho rằng, cần phân biệt “phân cấp quản lý” với một số khái niệm
gần với nó là phân công, phân nhiệm, phân quyền vì:
Phân công và phân nhiệm đều để chỉ sự xác định quyền hạn, trách
nhiệm cả theo chiều ngang và chiều dọc. Thông thường, người ta sử dụng
khái niệm phân công để chỉ quan hệ theo chiều ngang với dụng ý phân biệt
nó với phân cấp. Nếu phân quyền được hiểu là phân giao quyền hạn cho
một cơ quan hoặc một cấp chính quyền nào đấy thì thực ra sử dụng thuật
ngữ phân công và phân cấp là đầy đủ và chính xác hơn [15, tr.24-25].
Như vậy, cho đến nay, mặc dù được sử dụng một cách rộng rãi, song cách
hiểu về phân cấp còn chưa hoàn toàn thống nhất.
Dưới góc độ ngôn ngữ, “cấp” được hiểu là loại hạng trong một hệ thống (xếp
theo trình độ cao thấp, trên dưới) [26, tr.119]. Từ đó, phân cấp quản lý được cắt nghĩa
là giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy định nhiệm vụ và quyền hạn cho

mỗi cấp [28, tr.744]. Như vậy, ở đây có hai nội dung cần lưu ý là chuyển giao thẩm
quyền cho cấp dưới và xác định thẩm quyền của mỗi cấp trong đó.

8


Hiện nay, căn cứ vào cách phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ mà ở Việt
Nam hình thành các cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Phân cấp quản lý nhà nước, trước hết được hiểu là phân cấp giữa trung ương với
chính quyền cấp tỉnh; đồng thời, còn bao hàm cả phân cấp giữa các cấp chính quyền
địa phương với nhau.
Việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn chỉ có thể được tiến hành một khi
thẩm quyền và trách nhiệm của cấp chuyển giao và cấp được chuyển giao đã được
xác định hết sức rõ ràng. Vì vậy, bản thân khái niệm phân cấp phải hàm chứa trong
đó nội dung phân định thẩm quyền của từng cấp hay nói một cách khác, phân định
thẩm quyền là tiền đề cho việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc rộng hơn
nữa, điều chỉnh khối lượng nhiệm vụ, quyền hạn cho phù hợp với khả năng và điều
kiện thực tế của mỗi cấp chính quyền).
Quản lý nói chung được hiểu như là sự tác động của chủ thể quản lý tác động
đến đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng các công cụ và phương pháp thích
hợp nhằm đạt được những mục tiêu đã định.
Quản lý NSNN là hoạt động của chủ thể quản lý NSNN thông qua việc sử
dụng các phương pháp và công cụ quản lý thích hợp để tác động và điều hành hoạt
động của NSNN nhằm đạt được các mục tiêu đã định,
Trên cơ sở những lập luận đó, có thể khái niệm về phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước như sau: Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là sự phân định
thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp
giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng
cấp trong quản lý ngân sách nhà nước nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và
hiệu quả của hoạt động quản lý ngân sách nhà nước.

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chỉ xảy ra khi ở đó có nhiều cấp ngân
sách, phân cấp ngân sách thể hiện mối quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà nước.
Khi nói tới phân cấp quản lý ngân sách nhà nước người ta thường hiểu theo
nghĩa trực diện, dễ cảm nhận đó là việc phân giao nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp
chính quyền. Thực chất nội dung phân cấp rộng hơn nhiều. Nó giải quyết các mối

9


quan hệ giữa chính quyền nhà nước Trung ương và các cấp chính quyền nhà nước
địa phương trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến hoạt động của NSNN, bao
gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Quan hệ về thẩm quyền ban hành chế độ, chính sách;
Thứ hai, Quan hệ về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi;
Thứ ba, Quan hệ về quản lý của từng cấp trong chu trình ngân sách.
Về chế độ, chính sách trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cần làm rõ
những câu hỏi sau: Cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền ra các chế độ, chính sách,
định mức, tiêu chuẩn thu, chi và đó là những loại chế độ nào?
Về nguyên tắc, để bảo đảm tính thống nhất, những vấn đề chung áp dụng
trong phạm vi cả nước thì tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi do trung ương quy định;
các cấp chính quyền địa phương phải tuân thủ, tuyệt đối không được tự tiện điều
chỉnh hoặc vi phạm. Ngược lại, những vấn đề đặc thù của địa phương thì giao cho
chính quyền địa phương quy định, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương
trong từng thời kỳ; trung ương cũng phải tôn trọng thẩm quyền của các địa phương,
tránh can thiệp làm mất đi tính tự chủ của họ.
Phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nói chung, giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương nói riêng luôn là vấn đề phức tạp
nhất, khó khăn nhất, gây nhiều sự bất đồng nhất trong quá trình xây dựng và triển
khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách.
Sự khó khăn này bắt nguồn từ sự chênh lệch khá lớn giữa nguồn thu phát

sinh trên địa bàn từng tỉnh, thành phố và nhu cầu chi ngân sách nhà nước của các
địa phương này do trình phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các địa
phương, sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa các vùng, miền
trong cả nước.
Vì vậy, bất kỳ phương án phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp
ngân sách cũng khó làm hài lòng các cấp chính quyền địa phương. Để tạo động lực
cho các địa phương trong việc khai thác, bồi dưỡng nguồn thu, chủ động tính toán
sử dụng nguồn ngân sách của mình một cách hợp lý, có hiệu quả thì việc ổn định

10


ngân sách địa phương trong một khoảng thời gian nhất định là điều cần thiết. Tuy
nhiên, việc ổn định tỷ lệ điều tiết nguồn thu phân chia giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương cũng đạt ra nhiều vấn đề, có nguy cơ làm giãn cách về trình
độ phát triển giữa các vùng, miền nếu không có cơ chế linh hoạt về việc hỗ trợ, bổ
sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương.
Chu trình ngân sách nhà nước gồm 3 khâu cơ bản:
(i) lập, quyết định, phân giao dự toán ngân sách;
(ii) chấp hành, kiểm tra, kiểm toán ngân sách;
(iii) quyết toán ngân sách nhà nước.
Điều này cũng cần được phân định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của từng
cấp chính quyền, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, không tuân thủ đúng quy
trình, thủ tục về quản lý, điều hành ngân sách giữa các cấp chính quyền.
1.1.2. Khái niệm về phân cấp quản lý đầu tư công và phân cấp quản lý
Ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công
1.1.2.1. Khái niệm về đầu tư công và phân cấp quản lý về đầu tư công
* Khái niệm đầu tư công
Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Đầu tư công là một bộ phận quan trọng của tổng cầu, thúc đẩy tổng cầu
thông qua số nhân tài chính và do vậy, đầu tư công có vai trò quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Để phân biệt đầu tư công với các hoạt động đầu tư khác, cần xem xét một số
đặc điểm sau:
- Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước. Như vậy, các hoạt động
này được Nhà nước thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi
lẽ nhà nước là tổ chức chính trị công đặc biệt, có đầy đủ những điều kiện cũng như
ưu thế cần thiết để nhìn nhận, đưa ra các định hướng, phương án đầu tư thích hợp
nhất, giúp nền kinh tế phát triển đạt được những mục tiêu đã đặt ra, chính vì vậy
nhà nước là chủ thể quan trọng bắt buộc cần phải có trong quan hệ đầu tư công.

11


- Nguồn vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư công có sử dụng vốn Nhà nước.
Trên thực tế, vốn dành cho đầu tư công có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Ngân
sách nhà nước được sử dụng để đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội
mà khả năng thu hồi vốn thấp, phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường.
Ngân sách nhà nước cũng được sử dụng để duy trì các công trình công cộng. Đối
với những dự án có thể đem lại nguồn thu nhưng khó có thể thu hồi đủ vốn, ngân
sách nhà nước chỉ cấp vốn một phần cho dự án đó. Nguồn thứ hai là tín dụng nhà
nước được cấp theo các điều kiện ưu đãi từ các quỹ của Chính phủ hoặc từ nguồn
vốn ODA. Tín dụng nhà nước cho các dự án ưu tiên hoặc được triển khai trong một
số ngành khác nhau. Cơ quan nhà nước đi vay khoản tín dụng này là chủ đầu tư,
song có trách nhiệm trả lãi và gốc. Ngoài 2 nguồn chủ yếu trên, các chương trình,
dự án đầu tư công có thể sử dụng nguồn vốn do các cá nhân, tổ chức kinh tế tư nhân
tham gia đầu tư. Vì vậy, phải nhận định chính xác rằng vốn nhà nước không phải
nguồn vốn duy nhất của hoạt động đầu tư công.

- Mục tiêu của hoạt động đầu tư công là nhằm cải thiện môi trường đầu tư,
tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Đầu tư công có ý nghĩa
quan trọng, đóng vai trò tạo nền tảng vật chất kỹ thuật quan trọng cho đất nước, là
đòn bẩy đối với một số ngành và vùng trọng điểm, đồng thời thực hiện các chính
sách phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng. Một số hoạt động đầu tư công
cụ thể bao gồm:
+ Đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
+ Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
+ Đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích.
+ Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư.
Nhà nước chủ yếu đầu tư vào những công trình công cộng mà kinh tế tư nhân
không hoặc chưa đầu tư, không đầu tư vào những lĩnh vực thương mại, đặt lợi
nhuận là mục tiêu cao nhất (chứng khoán, khách sạn, nhà hàng).
Ngoài ra, thông qua các hoạt động đầu tư công, Nhà nước còn thu hút thêm

12


các nguồn vốn từ khu vực tư nhân cùng đầu tư với nhà nước theo nguyên tắc công
tư kết hợp.
Căn cứ vào thời hạn thực hiện, có thể chia đầu tư công thành 2 loại:
Một là, Các chương trình, dự án đầu tư công trung hạn: thường được lập và
thực hiện trong trung hạn, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
(thường là 05 năm);
Hai là, Các chương trình, dự án đầu tư công hàng năm: Kế hoạch đầu tư
công hằng năm để triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn, phù hợp
với mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm và cân đối vốn đầu tư
công hằng năm.
Căn cứ vào cấp quản lý, đầu tư công sử dụng nguồn vốn NSNN chia thành:

Một là, Các chương trình dự án đầu tư công thuộc thẩm quyền quản lý của
chính quyền trung ương, bao gồm: Các chương trình mục tiêu; các chương trình
mục tiêu quốc gia; dự án quan trọng quốc gia; chương trình, dự án sử dụng nguồn
vốn NSTW; các dự án khẩn cấp sử dụng nguồn vốn ngân sách trung ương;
Hai là, Các chương trình dự án đầu tư công thuộc thẩm quyền quản lý của
chính quyền địa phương, bao gồm: chương trình, dự án do cấp địa phương quản lý;
chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương.
* Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công
Phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công là sự phân định thẩm quyền, trách
nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và
tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường
chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư công.
Như đã phân tích, đầu tư công là hoạt động kinh tế quan trọng, thúc đẩy phát
triển kinh tế. Đầu tư công có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiều nền kinh tế, nhất
là những nước đang phát triển, đặc biệt là nhìn từ góc độ đảm bảo cơ sở cho phát
triển bền vững. Ở nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế và hình thức
sở hữu đa dạng, các hoạt động kinh tế, trong đó có đầu tư công, diễn ra vô cùng
phức tạp và sôi động. Nhà nước với ưu thế của mình, tiến hành quản lý đầu tư công

13


để giúp đảm bảo các dự án đạt được mục tiêu như đã đặt ra, hạn chế những rủi ro
của nền kinh tế thị trường mang lại. Mặt khác, để các chương trình, dự án đầu tư
công có thể thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau, với quy mô khác nhau, Nhà
nước đã tiến hành phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công.
Phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công là một biện pháp mang tính pháp
lý để giải quyết mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong việc xây dựng và
thực hiện các hoạt động đầu tư công, xác định vị trí của từng cấp chính quyền - yếu
tố quan trọng để hiện thực hoá nguyên tắc pháp chế - một đòi hỏi đối với phương

thức hoạt động của Nhà nước pháp quyền.
Phân cấp với mục đích tạo quyền tự chủ, sáng tạo, phát huy tính năng động
của địa phương, để khai thác thế mạnh và tiềm năng của chính quyền cơ sở là một
biểu hiện rõ nét của dân chủ và phù hợp với xu thế hiện nay là tăng cường tính tự
quản của địa phương trong việc quyết định những vấn đề xây dựng chương trình, dự
án đầy tư công của địa bàn lãnh thổ. Với mỗi địa phương khác nhau sẽ có những
yêu cầu khác nhau về đầu tư công, phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội, nhu cầu
của người dân ở địa phương đó. Vì vậy, việc phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư
công sẽ giúp các địa phương có thể chủ động xây dựng, thực hiện các kế hoạch đầu
tư công, tăng cường công tác tự quản lý, trách nhiệm giải trình và chịu trách nhiệm
về các hoạt động đầy tư công thuộc thẩm quyền của mình.
Đối với hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư công, yêu cầu đã và đang đặt ra
là bảo đảm tính khoa học, tính hiệu quả của quản lý nhà nước về đầu tư công để
hướng tới mục đích cuối cùng là tạo thuận lợi cho nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân
dân. Bởi vì đầu tư công nhằm phát triển kết cấu hạ tầng đồng thời phát triển kinh tế
xã hội, nâng cao chất lượng sống cho người dân. Việc phân định thẩm quyền rõ ràng,
dựa trên luận cứ khoa học rằng chắc là điều kiện để phát huy tính hiệu quả của cơ chế
quản lý nhà nước, tăng cường trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ,
công chức các cơ quan nhà nước và là cơ sở để nhân dân giám sát, kiểm tra hoạt động
của bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực hiện các hoạt động đầu tư công.
Với mục tiêu và ý nghĩa, vai trò như vậy, phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư

14


công là một đòi hỏi khách quan, được hình thành như một biện pháp rồi đến chính sách
và có thể được xem là một trong những nguyên tắc quản lý nhà nước về đầu tư công.
1.1.2.2. Khái niệm về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư công
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công là sự phân

định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù
hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của
từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý
ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công.
Hiểu đơn giản rằng, với các dự án đầu tư công cụ thể, các cơ quan trung
ương có thẩm quyền như thế nào, còn các cơ quan địa phương sẽ phải thực hiện các
công việc gì về ngân sách để thực hiện được dự án đó.
Về bản chất, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
công là việc phân chia nhiệm vụ, thẩm quyền từ cơ quan trung ương xuống các cơ
quan địa phương trong quản lý NSNN với đầu tư công.
Phân cấp quản lý ngân sách trong lĩnh vực đầu tư công là phân công, quy
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân theo hướng
phi tập trung hoá, gia tăng thẩm quyền, trách nhiệm của các ngành, các cấp chính
quyền địa phương, các đơn vị trong quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước liên
quan đến lĩnh vực đầu tư công.
Xuất phát từ sự khác biệt trong thế mạnh cũng như hạn chế trong quản lý nói
chung giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, xã hội đòi hỏi phải
có sự phân cấp quản lý về ngân sách nhà nước nói chung và trong lĩnh vực đầu tư
công nói riêng. Cụ thể, chính quyền trung ương có thể tác động đến tình hình kinh
tế trong phạm vi cả nước, có khả năng cung cấp các hàng hóa công cộng đáp ứng
nhu cầu chung của toàn xã hội, về phạm vi sử dụng nguồn lực khi thực hiện chính
sách vĩ mô rộng hơn so với chính quyền địa phương… Giả sử, đối mặt với tình
trạng ùn tắc giao thông, hệ thống đường xá xuống cấp nghiêm trọng, gây khó khăn
trong di chuyển của người dân và không đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông,

15


×