Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bản sắc văn hóa việt nhìn từ góc độ sắp xếp gia đình (vietnamese identity in living arrangements)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.15 KB, 6 trang )

40

Xã hội học thực nghiệm

Xã hội học số 2 (66), 1999

Bản sắc văn hóa Việt
nhìn từ góc độ sắp xếp gia đình
Bùi Thế Cờng
giữa Bản tính đông á và đông nam á

Bản sắc văn hóa Việt Nam là một câu hỏi nghiên cứu đợc đặt ra từ lâu trong khoa học xã hội nớc
ta. Trong vấn đề này, ngời nghiên cứu luôn mắc phải một khó khăn, đó là xác định mối quan hệ hay là độ
đậm nhạt của bản tính Đông á và bản tính Đông Nam á trong bản sắc văn hóa dân tộc.
Phần lớn các học giả Việt Nam đều công nhận ảnh hởng to lớn của văn hóa Đông á dới hình
thái Nho giáo đối với ngời Việt. Nhng các nghiên cứu văn hóa, khảo cổ và nhân chủng học cho phép
ngời ta tin rằng, trong sâu xa tâm thức Việt là một cơ tầng văn hóa bản địa đã phát triển lâu đời trớc khi
có ảnh hởng của văn hóa Hán, và cơ tầng này về căn bản là mang tính Đông Nam á, dựa trên điều kiện tự
nhiên rừng và lúa nớc. Văn hóa Hán đợc tiếp biến với độ khúc xạ lớn qua nền văn hóa bản địa (Phan
Ngọc, 1998; Trần Quốc Vợng, 1998; Trần Ngọc Thêm, 1997).
hình thái sắp xếp gia đình: Khác biệt vùng và tộc ngời

Nhờ trong vòng mời năm qua ngày càng nhiều công trình nghiên cứu xã hội thực nghiệm có chất
lợng, mà các nhà vạch chính sách và các học giả đã ý thức rõ hơn rằng Việt Nam là một xã hội đa dạng xét
trên nhiều khía cạnh, trong đó có khía cạnh vùng. Điều này bao gồm cả hình thái sắp xếp gia đình.
Giữa gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng
Phân tích của D. Bélanger trên số liệu Khảo sát mức sống dân c Việt Nam 1992-1993 cho thấy hộ
gia đình mở rộng hoặc hộ đa gia đình chiếm 32,5% tổng mẫu nghiên cứu. Đồng thời khuôn mẫu sắp xếp
gia đình cũng biến đổi đáng kể từ Bắc vào Nam. Tỷ lệ hộ gia đình mở rộng hoặc hộ đa gia đình có xu hớng
tăng lên theo chiều dài đất nớc từ trên xuống, ngoại trừ vùng miền núi phía Bắc (D. Bélanger, 1995. Xem:
Bùi Thế Cờng, 1998, bảng 4).


Dựa vào số liệu cuộc Điều tra Nhân khẩu học giữa kỳ 1994, Lê Văn Dụy và Phan Thị Ngọc Trâm
cũng đi đến kết quả tơng tự: tỷ lệ hộ gia đình mở rộng tăng lên từ Bắc vào Nam (Lê Văn Dụy, 1997).
Giữa định hớng đằng nội và định hớng song phơng
Phân tích của D. Bélanger nêu lên sự khác biệt vùng trong việc chủ hộ sống với gia đình ngời con
nào. Trong khi tỷ lệ hộ gia đình có con rể của chủ hộ cùng sống trong hộ ở ba vùng phía Bắc (Miền núi
trung du phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ) không quá 5,5%, thì tỷ lệ này ở hai vùng phía cực
Nam (Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long) xấp xỉ 20%, còn ở hai vùng Duyên hải miền Trung và
Tây Nguyên thậm chí là hơn 30% (D. Bélanger, 1995. Xem: Bùi Thế Cờng, 1998, bảng 5).
Lê Văn Dụy và cộng sự sử dụng chỉ số mẫu hệ (số hộ có con rể trên 100 hộ có con dâu) và chỉ ra
rằng chỉ số này tăng lên từ Bắc vào Nam, điều đó có nghĩa là định hớng đằng nội đã tăng lên từ phía ngợc
lại, từ Nam lên Bắc. Chỉ số mẫu hệ ở miền Bắc là 6,8% so với 16,7% ở miền Trung và 26,7% ở miền Nam
(Lê Văn Dụy, 1997).
Cũng dựa trên số liệu cuộc Điều tra Nhân khẩu học giữa kỳ 1994, John Knodel và các cộng sự sử
dụng hệ số nơi ở đằng nội (patrilocal ratio) để xem xét hình thái gia đình ngời Việt cao tuổi, theo đó hệ số
nơi ở đằng nội là tỷ lệ ngời già sống với ít nhất một con trai cha/đã kết hôn so với (chia cho) tỷ lệ ngời
B n quy n thu c Vi n Xó h i h c.

www.ios.org.vn


Bùi Thế Cờng

41

già sống với ít nhất một con gái cha/đã kết hôn (Bui The Cuong,...1999). Kết quả chỉ ra rằng, trớc hết, hệ
số nơi ở đằng nội đạt tới mức khá cao trên quy mô cả nớc (3,7). Nhng khác biệt vùng là rất đáng kể: hệ số này
đặc biệt cao ở phần phía Bắc đất nớc (trên 5,6) so với mức thấp ở Trung Trung Bộ trở vào (dới 3,0).
Bảng 1: Chung sống của ngời cao tuổi với con cái đã trởng thành theo khu vực, Việt Nam ICDS 1994
% ngời cao tuổi (60+) sống với
Một con

đã trởng
thành

Một con
đã kết
hôn

Hơn một
con đã kết
hôn

Hệ số nơi ở đằng nội
Sống với con trai
cha kết hôn so
với con gái
cha kết hôn
1.0

Sống với con trai
đã kết hôn so với
con gái
đã kết hôn
3.7

Chung
77.2
52.1
3.5
Khu vực
Miền núi phía Bắc

81.2
64.8
3.5
1.2
6.9
Đồng bằng sông Hồng
71.6
44.2
0.9
0.9
5.6
Bắc Trung Bộ
72.8
46.4
1.1
0.9
7.7
Duyên hải miền Trung
77.2
48.8
5.6
1.0
2.9
Tây Nguyên
78.9
50.1
5.4
1.1
1.9
Đông Nam Bộ

84.8
58.7
7.3
1.2
1.6
Đồng bằng sông Cửu Long
81.6
55.0
4.8
0.9
2.9
Đô thị-Nông thôn
Đô thị
85.3
61.7
8.2
1.0
2.0
Nông thôn
75.4
50.0
2.4
1.0
4.7
Nguồn: Bui The Cuong, Truong Si Anh, Daniel Goodkind, John Knodel and Jed Friedman. 1999. Vietnamese Elderly Admist
Transformations in Social Welfare Policy. Trong: David Phillips (Editor). 1999. Aging in the Asia-Pacific Region: Issues and
Policies. Bảng đợc tính toán từ số liệu Khảo sát dân số học giữa kỳ 1994.

Cuộc Khảo sát RRDES cho thấy ở vùng đồng bằng sông Hồng phần lớn ngời cao tuổi sống với
gia đình con trai so với rất ít sống với gia đình con gái (50,5% so với 6,2%). Trong khi đó, cuộc Khảo sát

ESEES của Trơng Sĩ ánh cho thấy ở vùng nghiên cứu phía Nam, mặc dù tỷ lệ ngời già sống với gia đình
con trai tơng tự phía Bắc (46,1%), song tỷ lệ sống với gia đình con gái lại cao hơn hẳn (26,4%). Điều này
đã khiến cho hệ số nơi ở đằng nội ở phía Bắc cao gấp hơn bốn lần ở phía Nam (8,15 so với 1,75).
Phân bố của hình thái sắp xếp gia đình các tộc ít ngời
Bức tranh định hớng giới về nơi ở của Việt Nam sẽ đầy đủ hơn nếu xem xét vấn đề này ở các tộc
ngời không phải Kinh. Một bảng mô tả tơng quan giữa hình thái sắp xếp gia đình và khu vực c trú dẫn
đến vài kết quả đáng chú ý (bảng 2).
Bảng 2: Phân bố các tộc ít ngời theo hình thái sắp xếp gia đình và vùng
Vùng

C trú hẳn
bên nhà
chồng sau
khi cới

Sẽ c trú
hẳn bên
nhà chồng
nhng sau
lễ cới cô
dâu trở lại
nhà cha
mẹ đẻ
sống một
thời gian
Nhóm 2

Sẽ c trú
hẳn bên
nhà chồng

sau một
thời gian
ngời
chồng ở rể

Cặp vợ
chồng sống
luân c với
cha mẹ hai
bên, hoặc
tuỳ hoàn
cảnh cụ thể
mà sống với
một bên

C trú
hẳn bên
nhà vợ
sau khi
cới

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

11
3
1


4
1

13
2

15

5

Nhóm 1
Miền núi Trung du phía Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Cả nớc

1
6
1
15

8

2
5
1

1
9

Chung

28
6
4
11
2
1
52

Ghi chú: Trong tính toán bảng này không bao gồm ngời Hoa. Vùng đồng bằng sông Hồng không có tộc ít ngời xét về mặt thống kê
nên không đa vào bảng.
Nguồn:
Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít ngời ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc). 1978; Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít ngời ở
Việt Nam (Các tỉnh phía Nam). 1984; Dang Nghiem Van, Chu Thai Son, Luu Hung: Ethnic Minorities in Vietnam. 1993; Bùi Thiết:
54 Dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác. 1999; Hoàng Nam: Bớc đầu tìm hiểu văn hóa tộc ngời văn hóa Việt Nam. 1998.

B n quy n thu c Vi n Xó h i h c.

www.ios.ac.vn


42

Bản sắc văn hóa Việt nhìn từ góc độ sắp xếp gia đình

Thứ nhất, hầu nh mọi tộc ngời sống ở vùng miền núi phía Bắc và Bắc Trung bộ đều theo định

hớng đằng nội về nơi ở (c trú bên gia đình nhà chồng). Hầu hết các tộc ngời sống ở vùng Duyên Hải
miền Trung trở vào sống luân c giữa cha mẹ hai bên hoặc c trú bên nhà vợ.
Nhng điểm thứ hai lý thú hơn nữa, ở chỗ nó chỉ ra ít nhất có năm nhóm sắp xếp gia đình dới đây:
1.

Sống bên nhà chồng ngay sau khi cới (khoảng 29% tổng số tộc ngời đợc xem xét).

2.

Sau lễ cới cô dâu trở về sống ở nhà cha mẹ đẻ một vài năm hoặc đến khi có con mới về hẳn bên
nhà chồng (khoảng 10%).

3.

Trớc khi ngời con gái về hẳn bên nhà chồng, có một thời kỳ ngời con trai ở rể, tuỳ từng tộc
ngời mà kéo dài từ 1 đến 12 năm (khoảng 29%).

4.

Sống luân c giữa cha mẹ hai bên cho đến khi có con thì ra ở riêng hoặc cho đến khi cha mẹ một
bên chết thì ở lại hẳn bên còn lại. Cũng có tộc ngời mà sau khi cới việc quyết định sống bên
nào là tuỳ hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình. Nhóm này bao gồm khoảng 15%.

5.

Sống hẳn bên nhà vợ sau khi cới (khoảng 17%).

Có thể xếp năm nhóm trên vào hai kiểu lớn, trong đó ba nhóm đầu đợc xếp vào kiểu phụ hệ còn
hai nhóm sau thuộc kiểu gia đình song phơng. Nh vậy, khoảng gần 70% các tộc ngời theo định hớng
đằng nội về nơi ở. Số còn lại theo định hớng gia đình song phơng, bao gồm những tộc ngời sống theo

nơi ở đằng ngoại hoặc sống luân c hai bên. Nhng trong kiểu định hớng đằng nội, số nhóm tộc ngời
trong đó con gái về sống bên nhà chồng ngay sau khi cới chỉ chiếm khoảng hơn 40%, trong khi số nhóm
tộc ngời còn duy trì chế độ ở rể một thời gian trớc khi về hẳn bên nhà chồng hoặc cô dâu ở lại nhà một
thời gian sau khi cới chiếm khoảng 60%. Điều này chủ yếu liên quan đến khu vực miền núi phía Bắc, nơi
phổ biến hình thái nơi ở đằng nội. Phải chăng đây chính là di sản của kiểu gia đình song phơng thuộc cơ
tầng văn hóa sâu (lâu đời) hơn mang bản tính Đông Nam á, trớc khi các tộc ngời này chấp nhận một bản
sắc văn hóa nhiều tính Đông á hơn.
Có thể sắp xếp theo cách khác, chẳng hạn xếp ba nhóm ở giữa vào với nhau, xem chúng là những
hình thái quá độ giữa hai cực phụ hệ (nhóm 1) và mẫu hệ (nhóm 5). Trong bất kỳ cách sắp xếp nào cũng
cho thấy rằng Việt Nam là một đất nớc đa dạng về mặt sắp xếp đời sống gia đình xét theo khu vực và tộc
ngời. Nhng tính đa dạng này tuân theo một sự phân bố khu vực từ Bắc vào Nam, thể hiện sự quá độ giữa
bản tính Đông á và Đông Nam á, theo địa lý cũng nh lịch sử.
nhận xét

Khác biệt trong cấu trúc thân tộc và gia đình thể hiện sự tơng phản lớn giữa nền văn hóa Đông á
và Đông Nam á. Có hai kiểu gia đình truyền thống ở châu á: kiểu gia đình gia trởng nhấn mạnh hơn đến
uy quyền nam giới và kiểu gia đình song phơng mang tính dân chủ giới hơn. Kiểu thứ nhất phổ biến ở
vùng Đông á (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) và phần phía Bắc của Nam á (Bangladesh, Bắc ấn Độ,
Nepal và Pakistan). Kiểu thứ hai tìm thấy ở vùng Đông Nam á và phần phía Nam của Nam á gồm Nam ấn
Độ và Sri Lanka (K.O. Mason, 1992).
Những dữ liệu trên đem lại bằng chứng cụ thể trong lĩnh vực sắp xếp gia đình, cho thấy Việt Nam
là một điểm đặc biệt lý thú trong bản đồ văn hóa khu vực, nơi diễn ra mạnh mẽ sự hỗn dung văn hóa giữa
Đông á và Đông Nam á. Những dữ liệu thực nghiệm này giúp ta kết nối với trạng thái hiện tại trong lĩnh
vực nghiên cứu bản sắc văn hóa Việt Nam. Chúng góp phần xác nhận giả thuyết về sự kết hợp và tranh
chấp của bản tính Đông á và bản tính Đông Nam á trong các nền văn hóa ở Việt Nam. Xét về mặt hình
thái sắp xếp gia đình, phía Bắc nghiêng nhiều hơn về đặc tính văn hóa Đông á (định hớng đằng nội), trong
khi phía Nam nghiêng nhiều hơn về đặc tính văn hóa Đông Nam á (định hớng gia đình song phơng).

B n quy n thu c Vi n Xó h i h c.


www.ios.org.vn


Bùi Thế Cờng

43

Tuy nhiên, ngay cả ở phía Bắc, những hình thái sắp xếp gia đình quá độ ở các tộc ít ngời chỉ ra rằng bản
tính Đông Nam á ở đây vẫn rất sâu sắc.
Câu hỏi đặt ra là vì sao trong quá trình đi vào phía Nam, ngời Việt lại dễ dàng chấp nhận khuôn
mẫu gia đình Đông Nam á, mà không phải là ngợc lại, tức là buộc dân c bản địa chấp nhận khuôn mẫu
gia đình phía Bắc có tính Đông á hơn?
Câu trả lời có thể là nh sau: nh một số nghiên cứu văn hóa và nhân học đã đề cập, văn hóa Đông
Nam á ở ngời Việt là cơ tầng sâu xa nhất, có trớc khi ngời Việt bị áp đặt và tiếp thu văn hóa Đông á do
ngời Hán đem xuống trong 1.000 năm Bắc thuộc cũng nh gần 1.000 năm tiếp theo. Lịch sử Việt Nam
vào khoảng thế kỷ 16-19 đã diễn ra trong hai chiều hớng đối nghịch nhau. Một mặt, hơn bao giờ hết, đặc
biệt trong triều đại nhà Nguyễn thế kỷ 19, quá trình học tập văn hóa và cấu trúc xã hội Trung Hoa đã diễn ra
rất mạnh. Nhng trong những thế kỷ này cũng đã lại diễn ra quá trình ngời Việt tiến xuống phía Nam,
điều có nghĩa là tiếp xúc mạnh với văn hóa Đông Nam á bản địa. Kết quả là ngời Việt vừa tăng thêm bản
tính Đông á lại vừa trở về với cội nguồn Đông Nam á của mình. Việc tiến về phía Nam hoà nhập với dân
c bản địa giống nh là trở lại với tâm thức cội nguồn.

tài liệu tham khảo
1.
2.

Bélanger, Danièle. Household Structure and Family Formation Patterns in Vietnam. Ha Noi. 1995.
Bùi Thế Cờng. Ngời Việt cao tuổi đồng bằng sông Hồng trong những năm 90: Một phân tích sơ bộ. Báo cáo
nghiên cứu. Viện Xã hội học. Hà Nội-1996.
3. Bùi Thế Cờng. Sắp xếp đời sống gia đình ở ngời Việt cao tuổi đồng bằng sông Hồng: Thực tế, mong muốn và sự

điều chỉnh luật pháp. Tạp chí Xã hội học, số 4.1998.
4. Bui The Cuong, Truong Si Anh, Daniel Goodkind, John Knodel, and Jed Friedman. Vietnamese Elderly Admist
Transformations in Social Welfare Policy. Trong: David Phillips (Editor). Aging in the Asia-Pacific Regions:
Issues and Policies. 1999.
5. Bùi Thiết. 54 Dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác nhau. Hà Nội-1999.
6. Dang Nghiem Van, Chu Thai Son, Luu Hung. Ethnic Minorities in Vietnam. Ha Noi. 1993.
7. Hoàng Nam. Bớc đầu tìm hiểu văn hóa tộc ngời văn hóa Việt Nam. Hà Nội-1998.
8. Lê Văn Dụy và Phan Thị Ngọc Trâm. Cấu trúc dân số và cơ cấu hộ gia đình. Hà Nội-1997.
9. Mason, Karen Oppenheim. Family Change and Support of the Elderly in Asia: What Do We Know?. Trong: AsiaPacific Population Journal 7(3): trang 13-32. 1992.
10. Phan Ngọc. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Hà Nội-1998.
11. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh-1997.
12. Trần Quốc Vợng (Chủ biên). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội-1998.
13. Trơng Sĩ ánh. Báo cáo về khảo sát ngời cao tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh và sáu tỉnh xung quanh. 1997.
14. Viện Dân tộc học. Các dân tộc ít ngời ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc). 1978.
15. Viện Dân tộc học. Các dân tộc ít ngời ở Việt Nam (Các tỉnh phía Nam). 1984.

B n quy n thu c Vi n Xó h i h c.

www.ios.ac.vn


44

B¶n s¾c v¨n hãa ViÖt nh×n tõ gãc ®é s¾p xÕp gia ®×nh

B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.org.vn



45



×