Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận kỹ năng lãnh đạo trong khu vực công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.17 KB, 26 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I. SƠ LƯỢC VỀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
HUYỆN AN MINH

1
2

1. Sơ đồ tổ chức

2

2. Cơ cấu tổ chức

2

3. Nguyên tắc tổ chức

2

4. Sứ mạng

3

5. Tầm nhìn

3


6. Giá trị cốt lõi

3

6.1. Trung thành

3

6.2. Yêu tổ quốc, yêu đồng bào

3

6.3. Tiên phong, gương mẫu

3

6.4. Bản lĩnh

4

6.5. Đoàn kết

4

6.6. Năng động, sáng tạo

4

7. Chức năng, nhiệm vụ


4

8. Quyền hạn

4

PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

5

1. Cơ sở lý luận

5

1.1. Khái niệm thách thức phát triển

5

1.2. Nhận diện thách thức phát triển

5

1.3. Nguyên tắc lãnh đạo một thách thức phát triển

5

1.3.1. Tạo ra môi trường che chở lành mạnh để duy trì sự tập trung của
mọi người
1.3.2. Phát triển theo từng giai đoạn: Cho mọi người thời gian để tìm ra
điều gì có tác dụng

1.3.3. Tìm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy để phát triển những
giá trị và khả năng mới

6

6

6


2
1.3.4. Cho phép mọi người có một phần hùn vốn trong sự phát triển những
khả năng của họ
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Bối cảnh xã hội thời kỳ hội nhập

7
7
7

2.1.1. Thời cơ

7

2.1.2. Thách thức

8

2.2. Tình hình TN trên địa bàn huyện An Minh hiện nay


8

2.2.1. Thuận lợi

9

2.2.2. Khó khăn

9

2.3. Bối cảnh tổ chức

10

2.3.1. Ưu điểm

10

2.3.2. Hạn chế

10

2.4. Những kỳ vọng về chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
huyện An Minh trong thời kỳ hội nhập
PHẦN III. LÃNH ĐẠO THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN CỦA ĐOÀN TNCS
HỒ CHÍ MINH HUYỆN AN MINH THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Tạo ra một môi trường che chở lành mạnh duy trì sự tập trung của mọi người
1.1. Trở thành một áp lực khuấy động và quấy động sự tự mãn vốn đã tồn tại
trong văn hóa của tổ chức
1.2. Tạo ra một môi trường che chở lành mạnh duy trì sự tập trung của mọi

người
1.3. Tạo ra những người lãnh đạo đích thực - yếu tố cốt lõi quyết định sự thành
công của một thách thức phát triển
2. Phát triển theo từng giai đoạn: Cho mọi người thời gian để tìm ra điều gì có tác
dụng
2.1. Cung cấp những hỗ trợ cần thiết để giúp mọi người chuyên tâm vào quá
trình phát triển
2.2. Mạnh dạn đối diện với trở ngại và có mặt kịp thời để xử lý những xung đột
xảy ra trong quá trình lãnh đạo một thách thức phát triển
3. Tìm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy để phát triển những giá trị và
khả năng mới

13

14
14
14

15

16

17

17

18

19



3
3.1 Tìm kiếm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy

19

3.2. Thiết lập mối quan hệ đúng đắn với các nhân vật hữu quan

19

4. Cho phép mọi người có một phần hùn vốn trong sự phát triển những khả năng
của họ
KẾT LUẬN

20
22


4
DANH MỤC VIẾT TẮT
TNCS: Thanh niên Cộng sản
ĐTN: Đoàn thanh niên
ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
TNVN: Thanh niên Việt Nam
ĐVTN: Đoàn viên thanh niên
TN: Thanh niên
TNTP: Thiếu niên tiền phong


5

LỜI MỞ ĐẦU
Đoàn thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh
niên Việt Nam (TNVN) do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện. Được xây dựng và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh cách
mạng của dân tộc, chính vì lẽ đó mà tổ chức Đoàn luôn giữ vai trò quan trọng đối với TNVN
trong suốt chiều dài lịch sử. Trong thời chiến, Đoàn lãnh đạo TNVN bản lĩnh, kiên cường đấu
tranh giành lấy độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Trong thời bình, Đoàn định hướng
thanh niên (TN) phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nêu cao tinh thần xung phong, tình
nguyện, xung kích, đi đầu trong công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, thế hệ TNVN vốn được kế thừa
những tinh hoa truyền thống của dân tộc và thành quả của cách mạng, nay lại có thêm cơ hội
tiếp cận tri thức mới nên có mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao hơn trước, nhạy cảm với
thời cuộc. Do vậy mà Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục được kỳ vọng để lãnh đạo, dẫn dắt
TNVN gánh vác trọng trách đưa đất nước tiến lên những tầm cao mới. Thực tiễn cho thấy tổ
chức Đoàn các cấp đã không ngừng phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện của đoàn viên,
TN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước, qua đó mà tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế của mình, xứng đáng đội dự
bị tin cậy của Đảng.
Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, hoạt động của Đoàn TN trong thời
gian qua vẫn còn không ít những hạn chế. Tổ chức Đoàn chưa giúp phát huy hết tiềm năng,
sức sáng tạo của TN; công tác giáo dục của Đoàn tuy rộng nhưng chưa sâu; việc đoàn kết, tập
hợp TN ở một số địa phương, trên một số lĩnh vực còn rất nhiều hạn chế; công tác TN nhiều
nơi chưa thực sự mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, một bộ phận thanh thiếu niên có biểu hiện
phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, ý thức chấp hành
pháp luật kém, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa của dân tộc…
Là một người cán bộ Đoàn, qua thực tiễn công tác của mình, tôi nhận thức sâu sắc
những thách thức mà tổ chức Đoàn các cấp đang gặp phải trong quá trình thực hiện sứ mạng
của mình và luôn trăn trở với điều đó. Thông qua việc học tập, nghiên cứu nội dung môn kỹ
năng lãnh đạo khu vực công, tôi lựa chọn đề tài “Lãnh đạo thách thức phát triển của Đoàn

thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện An Minh trong thời kỳ hội nhập” để làm tiểu
luận môn học, đồng thời cũng là để đóng góp cho sự phát triển của tổ chức và bổ sung thêm
những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của bản thân trong thời gian
sắp tới.


6
PHẦN I. SƠ LƯỢC VỀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
HUYỆN AN MINH
1. Sơ đồ tổ chức
Bí thư huyện đoàn
P.Bí thư huyện đoàn Chủ tịch Hội đồng đội huyện

UVTV huyện đoàn Phó Chủ tịch Hội
đồng đội huyện

11 xã, thị đoàn

78 chi đoàn ấp,
khu phố

UVTV huyện
đoàn phụ trách
tổ chức

8 chi đoàn ngành

13 chi đoàn ngành và
42 chi đoàn trường


P.Bí thư huyện đoàn - Chủ
tịch Hội LHTN huyện

UVTV huyện
đoàn - Phụ trách
phong trào

2 ĐCS ngành

12 chi đoàn ngành
trực thuộc

UVTV huyện đoàn
- Phó Chủ tịch Hội
LHTN huyện

3 Đoàn trường THPT

36 chi đoàn lớp
trực thuộc

2. Cơ cấu tổ chức
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện An Minh (sau đây gọi tắt là Đoàn thanh niên huyện,
viết tắt là ĐTN huyện) được tổ chức thành 2 cấp:
- Cấp huyện: Gồm cơ quan chuyên trách là huyện đoàn, với 7 biên chế chính thức.
- Cấp cơ sở: Gồm Đoàn cơ sở (ĐCS) và chi đoàn cơ sở (CĐCS), với 11 xã, thị đoàn, 3
Đoàn trường Trung học phổ thông (THPT), 2 Đoàn cơ sở ngành và 8 chi đoàn ngành trực
thuộc huyện.
Đoàn cơ sở và chi đoàn cơ sở, là nền tảng của Đoàn, được thành lập theo địa bàn dân
cư, theo ngành nghề, theo đơn vị học tập, công tác, lao động, nơi cư trú và đơn vị cơ sở trong

lực lượng vũ trang nhân dân theo hướng dẫn của Ban Thường vụ (BTV) Trung ương Đoàn.
Chi đoàn là tổ chức tế bào của Đoàn, là hạt nhân nòng cốt đoàn kết, tập hợp thanh
thiếu nhi. Toàn huyện có 181 chi đoàn trực thuộc với 3.457 đoàn viên đại diện cho hơn 21.000
TN.
3. Nguyên tắc tổ chức
ĐTN huyện lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, được thể
hiện như sau:


7
- Cơ quan lãnh đạo cao cấp của ĐTN huyện do bầu cử lập ra, thực hiện nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐTN huyện là Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh huyện An Minh. Giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo là Ban chấp hành (BCH) huyện
Đoàn do Đại hội Đoàn cấp huyện bầu ra. Giữa hai kỳ họp BCH, cơ quan lãnh đạo là BTV
huyện Đoàn do BCH huyện Đoàn bầu ra.
- BCH huyện Đoàn các cấp có trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình với Đại hội
hoặc hội nghị đại biểu cấp huyện, với BCH Đoàn tỉnh Đoàn Kiên Giang, với huyện ủy An
Minh và thông báo cho BCH Đoàn cấp cơ sở trực thuộc huyện.
- Nghị quyết của ĐTN huyện phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cấp dưới phục tùng
cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức.
- Trước khi quyết định các công việc và biểu quyết của Đoàn, các thành viên đều được
cung cấp thông tin và phát biểu ý kiến của mình, ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu
các báo cáo lên Đoàn cấp trên cho đến kỳ Đại hội đại biểu cấp trên, song phải nghiêm chỉnh
chấp hành nghị quyết hiện hành.
4. Sứ mạng
Sứ mạng lịch sử của ĐTN huyện trong giai đoạn hiện nay là đoàn kết tập hợp TN, xây
dựng lớp TN sống có ước mơ, hoài bão, cống hiến xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam trên
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.

5. Tầm nhìn
ĐTN huyện An Minh xây dựng một tổ chức vững mạnh và rộng lớn với tổng số đoàn
viên chiếm trên 65% TN có mặt tại địa phương, trở thành một trong những đơn vị dẫn đầu
công tác Đoàn và phong trào TTN tỉnh Kiên Giang; từng cán bộ Đoàn là người bạn thân thiết,
người đồng hành tin cậy nhất của TN huyện nhà trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
6. Giá trị cốt lõi
6.1. Trung thành
Kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng của ĐCSVN, trung thành với ĐCSVN và với
nhân dân Việt Nam.
6.2. Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Xung kích, tình nguyện tham gia vào các hoạt động an sinh xã hội, vì cuộc sống cộng
đồng, xuất phát từ tình yêu thương với quê hương, với tổ quốc, với đồng bào mà không màng
đến lợi ích cá nhân, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
6.3. Tiên phong, gương mẫu


8
Tổ chức Đoàn ở bất kỳ cấp nào cũng cần phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trên
mọi lĩnh vực, mạnh dạn đảm đương những nhiệm vụ khó khăn cần đến sức trẻ, nhiệt huyết,
năng lượng của TN. Từng cán bộ Đoàn phải là người tiên phong về chính trị tư tưởng, gương
mẫu trong đạo đức, lối sống, có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ chức trách được
giao.
6.4. Bản lĩnh
Từng cá nhân và tổ chức của họ phải dám nghĩ, dám nói, dám làm và dám chịu trách
nhiệm; có tính độc lập cao, không ỷ lại không dựa dẫm vào người khác; không cầu an, không
ngại khó, không chùn bước trước những trở lực; có chí lớn, dám chấp nhận mạo hiểm để đạt
tới mục tiêu đã chọn.
6.5. Đoàn kết
Mở rộng tập hợp, đoàn kết các đối tượng TN khác nhau, hỗ trợ và định hướng TN
tham gia tổ chức Đoàn, Hội để rèn luyện, khởi nghiệp, lập nghiệp; đoàn kết trong nội bộ BCH

Đoàn các cấp trong thực hiện nhiệm vụ và xây dựng, phát triển tổ chức; đoàn kết giữa tổ chức
Đoàn các cấp từ huyện đến cơ sở để tạo sự thống nhất trong lề lối làm việc, quan điểm chỉ đạo
và thực hiện nhiệm vụ; đoàn kết giữa tổ chức đoàn với các tổ chức, cá nhân, ban ngành, đoàn
thể khác trong phối hợp thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
6.6. Năng động, sáng tạo
Năng động thích ứng trước những thay đổi, chủ động tiếp cận tri thức mới, công nghệ
mới; không ngừng sáng tạo để tạo ra những giá trị mới phù hợp với thực tiễn và xu thế chung
của đất nước và thế giới.
7. Chức năng, nhiệm vụ
- Đại diện, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi
(TTN) trên địa bàn huyện.
- Tổ chức hoạt động tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn viên, TTN nhằm góp
phần thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa
phương, đơn vị.
- Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức KT- XH làm tốt công tác TN,
tích cực chăm lo xây dựng Đoàn, xây dựng các hội của TN và Đội TNTP Hồ Chí Minh, tích
cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và chính quyền.
8. Quyền hạn của ĐTN 2 cấp huyện An Minh
- Kết nạp đoàn viên mới, quản lý đoàn viên, tiếp nhận, chuyển sinh hoạt Đoàn; giới
thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết nạp; giới thiệu cán bộ, đoàn viên vào quy
hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức kinh tế, xã hội.


9
- Tổ chức các hoạt động, các phong trào, nhằm đoàn kết, tập hợp TN, đáp ứng nhu
cầu, lợi ích chính đáng, hợp pháp của tuổi trẻ; liên kết, phối hợp với các ngành, các đoàn thể,
các tổ chức kinh tế - xã hội tạo sức mạnh đồng bộ trong công tác TN.
- Tổ chức các hoạt động tạo thêm việc làm và thu nhập cho cán bộ đoàn viên, TN, tạo
nguồn kinh phí cho hoạt động của Đoàn; được sử dụng con dấu hợp pháp.
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm thách thức phát triển
Thách thức phát triển là một quá trình tích cực, được hướng dẫn và có mục đích, trong
đó nhà lãnh đạo cố nhận diện sớm một thách thức mới, và can thiệp trước khi nó trở thành
một mối đe dọa hoặc một cơn khủng hoảng, nhằm giữ cho tổ chức tiếp tục tồn tại với sứ mạng
của nó.
1.2. Nhận diện thách thức phát triển
Thách thức phát triển diễn ra trong bối cảnh “hoạt động thường lệ” không còn tạo ra
được mức độ hài lòng, việc thực hiện, và năng suất cần thiết để tiến bộ. Tổ chức đối mặt với
một đe dọa từ từ, mà những khả năng hiện có không thể làm lắng dịu, do đó cần phát triển
những khả năng mới để tồn tại và lớn mạnh.
1.3. Nguyên tắc lãnh đạo đích thực một thách thức phát triển
Những áp lực kinh tế, xã hội và văn hóa có thể làm ngắt quãng tình trạng cân bằng
trong cộng đồng, quốc gia, và trong các tổ chức. Khi ấy, các nhà lãnh đạo có trách nhiệm phải
đóng vai trò một áp lực khuấy động để kích hoạt một quá trình phát triển vốn gia tăng sức
khỏe cho tổ chức và việc thực hiện của các cá nhân trong tổ chức đó. Khi trạng thái cân bằng
của hệ thống bị đứt quãng bởi một áp lực khuấy động, một cơ hội thích ứng mới sẽ nảy sinh.
Vấn đề là tổ chức cần phải tiên liệu được thách thức, tận dụng những thời cơ đặc biệt để tích
lũy những nguồn lực cần thiết giúp tổ chức tiếp tục tồn tại và phát triển lớn mạnh.
Thách thức phát triển cần sự tập trung hoàn toàn từ tập thể lãnh đạo để trợ giúp và
định hướng quá trình. Đó là một hoạt động không ổn định, vì nó đòi hỏi một sự sẵn lòng đối
với thử nghiệm và va chạm và ưu tư đáng kể khi mọi người dốc sức xây dựng những khả năng
mới cho phép họ đối mặt với những nguy cơ với óc thực tế, xem xét những thực tế mới, và tận
dụng những thời cơ nảy sinh.
Lãnh đạo đích thực một thách thức phát triển là việc thực hiện những nhiệm vụ sau:
Tạo ra môi trường che chở lành mạnh để duy trì sự tập trung của mọi người; phát triển theo
từng giai đoạn, cho mọi người thời gian tìm ra điều gì có tác dụng; tìm sự kết hợp đúng đắn
của những lực đòn bẩy để phát triển những giá trị và khả năng mới và cho phép mọi người có
một phần hùn vốn trong sự phát triển những khả năng của họ.



10
1.3.1. Tạo ra môi trường che chở lành mạnh để duy trì sự tập trung của mọi người
Lãnh đạo đích thực một thách thức phát triển không bao giờ là điều dễ dàng. Trong bất
kỳ nhóm nào đang tìm cách phát triển, không tránh khỏi có lúc mọi người thấy do dự, xao
nhãng, hoặc ra mặt chống đối. Vì vậy, để ngăn chặn sự hỗn loạn của quá trình và tạo ra không
khí và điều kiện cho sự phát triển khơi mở, nhiệm vụ của lãnh đạo là tạo ra một môi trường
che chở lành mạnh, nhằm giúp “che chở” mọi người vượt qua công việc khó khăn và mất
phương hướng là phát triển những khả năng mới thích ứng với những điều kiện mới. Môi
trường che chở yếu ớt hoặc thiếu vắng sẽ ngăn trở quá trình phát triển vì mọi người quá hoang
mang để học tập và thử nghiệm những cách thực hành và những hoạt động mới.
Tùy thuộc vào bối cảnh và tính chất đặc thù của thách thức phát triển, những thành
phần của môi trường che chở có thể thay đổi. Một môi trường che chở có thể bao gồm sự sử
dụng quyền hạn một cách rộng lượng nhưng kiên quyết nhằm định rõ những ranh giới giữa
những gì có thể làm và không thể làm. Nó cũng có thể bao gồm một tập hợp những giá trị
không thể thỏa hiệp hoặc những nguyên tắc hướng dẫn. Hay có thể là việc sử dụng những
biểu tượng, câu chuyện nhằm định hướng mọi người thực hiện công việc thích ứng và nhắc
nhở họ về mục đích cao hơn. Tạo ra môi trường che chở lành mạnh là làm cho mọi người đối
mặt với thực tế và gánh vác công việc thích ứng của một thách thức phát triển, ngay cả khi họ
có miễn cưỡng, hoang mang hoặc kháng cự.
1.3.2. Phát triển theo từng giai đoạn: Cho mọi người thời gian để tìm ra điều gì có tác
dụng
Con người và tổ chức của họ thay đổi rất chậm chạp, luôn cần phải thử nghiệm và
khám phá, thông thường qua phương pháp thử và sai để tìm ra cái gì có tác dụng trong thực
tế. Họ cần thời gian để thích ứng với những thực tế mới và điều chỉnh theo những quá trình
mới. Nhiệm vụ lãnh đạo lúc này là trở thành một áp lực khuấy động để hướng mọi người vào
công việc phát triển: kích thích họ bằng cách nhắc nhở họ về mối đe dọa nếu họ không phát
triển, và khơi gợi một khao khát phát triển bằng cách nối kết tầm nhìn hoặc mục đích phát
triển với những mong ước của mọi người về một tổ chức tốt hơn. Phát triển thường cũng là
một quá trình đầy rẫy những bấp bênh, thất bại, tính toán nhầm lẫn, và đôi khi là những bước

nhảy vọt của sự hiểu biết và tiến bộ. Và điều nhà lãnh đạo cần làm là phải cung cấp sự hỗ trợ
cần thiết để giúp mọi người chuyên tâm vào quá trình, nhất là khi nó trở nên khó khăn và gây
nản lòng.
1.3.3. Tìm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy để phát triển những giá trị và
khả năng mới
Để phát triển những khả năng mới phục vụ cần thiết cho sự phát triển, công việc lãnh
đạo là thay đổi những giá trị và niềm tin lỗi thời để một nhóm có thể vượt qua những rào cản,


11
tiến lên một mức hoạt động cao hơn, và tận dụng những cơ hội mới. Việc tìm kiếm một sự kết
hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy trong tổ chức còn giúp kích thích và tăng tốc quá trình
phát triển sao cho giúp mọi người đối mặt với thực tế khó khăn của mình và điều chỉnh cách
nhìn phù hợp với một điều kiện thay đổi.
1.3.4. Cho phép mọi người có một phần hùn vốn trong sự phát triển những khả năng
của họ
Có một thực tế là mọi người thường làm việc tích cực hơn để hoàn thiện những gì họ
hiểu là của họ. Vì vậy một nhà lãnh đạo cần không ngừng tìm kiếm sự cân bằng đúng đắn và
phân phối quyền lợi một cách hợp lý. Và cũng cần lưu ý rằng, trong một thách thức phát triển,
sự sáng suốt là cần thiết để giữ sự cân bằng thích đáng giữa nỗ lực và phần thưởng cho tất cả
mọi người.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Bối cảnh xã hội thời kỳ hội nhập
2.1.1. Thời cơ
Phải khẳng định rằng hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế tất yếu toàn cầu bởi
những lợi ích to lớn mà nó mang lại. Bất kỳ một quốc gia, một địa phương nào muốn phát
triển, muốn nâng cao đời sống của mỗi người dân đều phải nỗ lực hết mình nhằm đạt được
hiệu quả cao nhất của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Trong những năm trở lại đây, hoạt động ngoại giao đa phương đã góp phần nâng cao vai trò
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam không chỉ vươn lên tầm cao trong quan

hệ đối ngoại, mà còn có tiếng nói quan trọng tại Liên hợp quốc – diễn đàn quốc tế đa phương
lớn nhất trên hành tinh.
Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và
toàn cầu. Nền kinh tế toàn cầu hoá với các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến
và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng mang đến cho chúng ta có
cơ hội thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động
và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức
quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh
hưởng đó, tri thức loài người, kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật,
công nghệ… được phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân
loại.
Với TNVN, quá trình hội nhập là điều kiện, môi trường thuận lợi để TN thể hiện tài
năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Với đường lối đúng đắn của Đảng, đất nước tiếp tục ổn
định, vị thế của đất nước không ngừng tăng lên đã tạo cơ hội lớn cho TN học tập, tiếp cận văn


12
minh nhân loại, nâng cao tri thức. Bên cạnh đó, sự quan tâm của mỗi gia đình đối với lớp trẻ
không ngừng tăng lên là cơ sở, nguồn lực, điều kiện quan trọng để chăm lo tốt hơn cho TN
những năm tới đây.
2.1.2. Thách thức
Tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. TNVN
đối mặt với những thách thức lớn xuất phát từ những nguy cơ chung của đất nước mà Đảng ta
chỉ ra: kinh tế đất nước vẫn còn nhiều khó khăn; sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, sự phân
hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, quá trình phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo ra những
thách thức về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, bản lĩnh và tác động sâu sắc
đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của TN. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn âm mưu xóa
bỏ những thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN và chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà mục tiêu chính của chúng là nhằm vào TN, coi đây là

đối tượng dễ lung lạc để dùng các thủ đoạn kinh tế, chính trị và văn hoá tác động làm biến
chất, tạo mầm mống chống đối chế độ; chúng ra sức lôi kéo, tha hóa TN, kích động TN tham
gia các hoạt động gây mất an ninh trật tự, nguy cơ phá vỡ sự ổn định chính trị của đất nước.
Song song đó, toàn cầu hóa làm gia tăng nguy cơ TN dễ dàng tiếp cận với những sản
phẩm độc hại phi văn hóa, thông qua nhiều con đường, nhất là qua internet, mạng xã hội, các
phương tiện thông tin, truyền thông. Việc tiếp cận này tác động trực tiếp, liên tục và với
cường độ cao đến lối sống, nếp sống của TN sẽ tạo ra nhiều sức ép, gây nhiều khó khăn, phức
tạp cho việc bảo vệ và phát huy văn hoá dân tộc trong giới trẻ. Kéo theo đó là sự gia tăng của
các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tội phạm nguy hiểm, côn đồ, hung hãn, băng nhóm…
đã, đang và sẽ tác động ngày càng xấu đến TN.
Rõ ràng, hội nhập không chỉ đem đến thuận lợi và thời cơ mà còn đem đến nhiều khó
khăn và thách thức đối với TN. Do vậy mà yêu cầu xây dựng lớp TN có đủ bản lĩnh, ý chí,
trình độ để phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ, khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tự
học tập, tự rèn luyện, có đủ tâm, đủ tầm để tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chủ động tham gia vào nền kinh tế tri thức và quá trình hội nhập quốc tế là
nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, mà ĐTN là then chốt.
2.2. Tình hình TN trên địa bàn huyện An Minh hiện nay
An Minh là huyện nằm trong vùng U Minh Thượng của tỉnh Kiên Giang, phía đông giáp
với huyện U Minh Thượng, phía bắc giáp với huyện An Biên, phía nam giáp với huyện Thái
Bình của Tỉnh Cà Mau, phía tây là Biển Đông. Địa giới hành chính của huyện được chia thành
10 xã 01 thị trấn, có 78 ấp, với diện tích tự nhiên 59.050 ha và tổng dân số 120.193 người, trong
đó TN là 21.175 người, chiếm tỷ lệ 17,62% (thống kê năm 2018), chủ yếu đang hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản.


13
Quá trình hội nhập cũng có những tác động không nhỏ đến tình hình TN của huyện An
Minh, tạo ra những thuận lợi và khó khăn cơ bản:
2.2.1. Thuận lợi
Trong những năm qua tình hình tư tưởng TN cơ bản ổn định, đại bộ phận TN tin tưởng

vào sự lãnh đạo của Đảng; tích cực học tập, lao động và công tác góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội huyện nhà, ổn định tình hình an ninh chính trị; chấp hành tốt các chủ trương,
Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trình độ học vấn của TN được nâng
lên, đáp ứng yêu cầu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lao động, sản xuất; xung kích tình nguyện
tham gia các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; có ý thức tự lực, tự cường, lập thân lập nghiệp, tăng thu nhập ổn định cuộc sống, đóng
góp trí tuệ và sức trẻ vào sự phát triển chung của huyện.
Chủ trương xây dựng Nông thôn mới góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn
huyện, việc giao thương, đi lại thuận lợi và dễ dàng hơn, các địa điểm vui chơi, giải trí, rèn
luyện thể dục thể thao cho TN cũng từng bước phát triển hơn, đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh
hoạt, học tập và rèn luyện cho TN.
2.2.2. Khó khăn
So với các huyện còn lại trên địa bàn tỉnh, An Minh là huyện có thu nhập bình quân đầu
người thấp hơn mặt bằng chung, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn khá cao. Thu nhập bấp bênh vì
phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản - những ngành nghề
chịu tác động lớn của quy luật cung cầu được mùa mất giá và biến đổi khí hậu, đầu ra cho các
sản phẩm nông nghiệp hiện còn chưa ổn định.
Với địa hình có 6/11 xã, thị trấn giáp biển, nhiều TN lựa chọn công việc đánh bắt thủy
hải sản xa bờ, cùng với một số không nhỏ TN rời địa phương đi làm ăn xa, do vậy trên tổng
số hơn 21 nghìn TN thì hiện tại số TN có mặt trên địa bàn chỉ còn 8.314 người, chiếm chưa
tới 40% trên tổng số TN. Kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên điều kiện để đáp ứng tốt các
nhu cầu về việc làm, thu nhập, học tập, lập nghiệp của TN huyện còn nhiều mặt hạn chế.
Tuy phải thừa nhận rằng hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan và rất cần
thiết cho sự phát triển đất nước, thực tiễn những thành tựu mà chúng ta có được hiện nay đã
chứng minh điều này, song chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng xu hướng này cũng đã và
đang mang lại nhiều hệ lụy, tác động tiêu cực đặc biệt là đối với giới trẻ, như đã nói ở trên, và
địa bàn An Minh cũng không phải là ngoại lệ.
Một thực tế đáng báo động là hiện nay trên địa bàn huyện có một bộ phận không nhỏ
TN có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, thờ ơ và ít quan tâm đến các vấn
đề kinh tế, chính trị của địa phương và đất nước. Họ sống thực dụng, ích kỷ, ngại rèn luyện

phấn đấu, thích hưởng thụ; chưa thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc tham gia các


14
hoạt động có ích, dễ bị dao động về mặt tư tưởng trước những diễn biến phức tạp của tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội trong khu vực và quốc tế; trình độ học vấn thấp, năng lực
chuyên môn yếu, thiếu sự sáng tạo và thụ động trong việc đón nhận thời cơ, tiếp cận khoa học
công nghệ. Bên cạnh đó, việc “yêu sớm” và quan hệ tình dục trước hôn nhân cùng lối sống
buông thả không may lại đang trở thành xu hướng, hiện tượng đáng buồn ở một bộ phận lớn
TN và đang có chiều hướng gia tăng. Tình hình TN tham gia tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật
tuy có phần giảm về số vụ nhưng lại tăng về mức độ và có xu hướng ngày càng trẻ hóa. Thống kê
của huyện cho thấy trung bình mỗi năm số người phạm tội từ 18 - 30 tuổi chiếm trên 50% tổng số
người phạm tội, dưới 18 tuổi chiếm trên 10%, đa số là phạm tội cờ bạc, số đề, đá gà ăn thua bằng
tiền, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích… phần lớn là TN địa bàn nông thôn, nhiều trường hợp
phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự. Tình trạng ma túy đá len lỏi vào những ngõ ngách
của các ấp, khu phố, với 9/11 xã, thị trấn có phát hiện TN dương tính với ma túy cũng gây ra
nhiều lo lắng và hệ lụy cho xã hội.
2.3. Bối cảnh tổ chức
2.3.1. Ưu điểm
Trong những năm qua, dưới sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và hướng dẫn
của Đoàn cấp trên, sự tạo điều kiện của chính quyền các cấp, sự phối hợp của các ban ngành
đoàn thể tạo sự đồng thuận cao trong công tác Đoàn và phong trào TTN trong toàn huyện,
song song đó là sự chủ động, nỗ lực và quyết tâm cao của các cấp bộ Đoàn trong toàn huyện
nên hầu hết các chỉ tiêu nhiệm vụ đề ra trong năm đều đạt và vượt, ĐTN huyện An Minh
nhiều năm liền được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Công tác tuyên truyền giáo dục từng bước đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền
theo hướng tiếp cận và phù hợp với lứa tuổi của ĐVTN; các đợt sinh hoạt chính trị giáo dục
truyền thống dân tộc, truyền thống của Đảng, của Đoàn, các sự kiện quan trọng của đất nước
và địa phương được tổ chức sâu rộng, đặc biệt là cuộc vận động “Tuổi trẻ An Minh học tập và
làm theo lời Bác” được đông đảo ĐVTN tích cực tiếp thu, học tập và vận dụng vào thực hiện

nhiệm vụ có hiệu quả. Công tác xây dựng và phát triển tổ chức Đoàn - Hội - Đội và Đoàn
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền được quan tâm, nâng lên về chất lượng. Việc sắp xếp
bố trí, quy hoạch cán bộ kịp thời, đúng quy định và từng bước chuẩn hóa, trẻ hóa đội ngũ cán
bộ Đoàn. Các phong trào xung kích, đồng hành trong ĐVTN được phát động mạnh mẽ, trong
đó nổi bật là phong trào đồng hành với TN trong lập thân, lập nghiệp, sáng tạo phát triển kinh
tế; phong trào tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng từng bước mang lại hiệu quả, tạo hiệu ứng
tốt trong xã hội.
2.3.2. Hạn chế


15
Bên cạnh những ưu điểm, thành tích đạt được, bản thân lãnh đạo tổ chức Đoàn 2 cấp
của huyện An Minh cũng nhận thức được tổ chức của mình vẫn còn nhiều mặt hạn chế:
- Công tác tuyên truyền, giáo dục phần nhiều mới chỉ tiếp cận được với nhóm ĐVTN
năng động, tích cực; kiến thức xã hội, kỹ năng tuyên truyền, khả năng tiếp cận TN của cán bộ
làm công tác Đoàn ĐBDC còn nhiều hạn chế. Các hình thức tuyên truyền mới chậm được
nhân rộng, ý thức tiếp thu của một số ĐVTN chưa cao, một số nơi hình thức tuyên truyền
chưa thu hút ĐVTN; khả năng nghiên cứu, nắm bắt chủ trương để tuyên truyền ra ĐVTN của
một số báo cáo viên còn yếu.
- Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm cho TN gặp nhiều lúng túng, lực lượng tham
gia lao động ngoài kênh giới thiệu của đoàn còn nhiều. Công tác hỗ trợ TN tiếp cận nguồn
vốn vay và quản lý nguồn vốn còn nhiều hạn chế. Chưa thường xuyên kiểm tra, nhân rộng các
mô hình phát triển kinh tế có hiệu quả, thiếu liên kết đầu ra cho các mô hình; vai trò xung
kích của một bộ phận ĐVTN trên lĩnh vực sản xuất kinh tế chưa rõ nét. Công tác xã hội hóa
các hoạt động TDTT ở cơ sở chưa được phát huy đúng mức.
- Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức ở một số cơ sở còn chậm, cán bộ đoàn biến động
nhiều, nhất là ở ấp, khu phố; việc bố trí cán bộ đoàn ở cơ sở có nơi chưa đảm bảo trình độ,
thiếu kỹ năng công tác. Công tác quản lý đoàn viên chưa chặt chẽ; đoàn viên xóa tên, chuyển
đi nhiều làm giảm số lượng đoàn viên so với đầu nhiệm kỳ; tỷ lệ đoàn viên tham gia sinh hoạt
định kỳ ít, nội dung và hình thức chưa phong phú; Công tác thi đua khen thưởng ở cơ sở thiếu

thường xuyên, chất lượng khen thưởng còn hạn chế, khen thưởng chuyên đề, đột xuất còn ít.
Chất lượng sinh hoạt đoàn nơi cư trú hiệu quả không cao.
- Công tác mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp TN, vận động thành lập các chi hội nghề
nghiệp, sở thích còn ít; nội dung, hình thức sinh hoạt CLB, đội nhóm ở cơ sở còn đơn điệu,
thiếu hấp dẫn.
- Bí thư chi đoàn ấp, khu phố thường xuyên thay đổi ảnh hưởng đến công tác chăm
bồi, giới thiệu đoàn viên ưu tú (ĐVUT) cho Đảng, Một số cơ sở Đoàn thiếu chủ động định
hướng cho đoàn viên, TN trong góp ý xây dựng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế
hoạch lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền. Vai trò tiêu biểu gương mẫu của Đảng
viên trẻ tham gia sinh hoạt đoàn một số nơi chưa thể hiện tốt. Tỷ lệ bí thư chi đoàn ở ấp, khu
phố là đảng viên còn thấp.
- Công tác tham mưu, phối hợp từng lúc từng nơi thiếu kịp thời, phương pháp chưa
khoa học. Việc đổi mới nội dung, phương thức chỉ đạo còn chậm, thiếu đồng bộ. Vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành của BCH, BTV Huyện đoàn còn nhiều mặt hạn chế, chưa thường
xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động Đoàn cấp cơ sở.


16
- Năng lực, kỹ năng nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, xã hội của một bộ phận cán bộ Đoàn
còn yếu; tư duy của một bộ phận cán bộ Đoàn trên một số lĩnh vực chậm đổi mới, chưa bắt
kịp với đòi hỏi của phong trào TN. Công tác TN ở một số nơi chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức và thường xuyên của cấp ủy, chính quyền. Công tác tham mưu của Đoàn với cấp
ủy, chính quyền cùng cấp có nơi chưa chủ động, công tác phối hợp với một số ngành, đoàn
thể tại địa phương có lúc chưa đồng bộ.
- Do điều kiện địa phương không có các công ty, xí nghiệp lớn nên không đáp ứng
được nhu cầu việc làm cho những TN không có đất sản xuất, TN phải rời địa phương đi làm
xa nhiều, ảnh hưởng lớn đến công tác tập hợp TN ĐBDC; Cơ chế, chính sách hỗ trợ cho TN
còn ít.
Những hạn chế nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Khách quan là do bối cảnh xã hội trong thời kỳ hội nhập, điều kiện

địa lý, nguồn lực thực tế của địa phương và tình hình TN nói chung về độ tuổi, tâm lý, nhu
cầu, sở thích, lối sống, trình độ văn hóa,… Nhưng đáng nói nhất là nguyên nhân chủ quan
xuất phát từ bản thân tổ chức với sự tự mãn, an phận chấp nhận thành tích “hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ hàng năm” đôi khi là chạy theo phong trào, chỉ tiêu hàng năm đến mức không
còn thời gian cho sự sáng tạo; nhiều cán bộ Đoàn nặng “kinh nghiệm”, làm việc theo lối mòn,
“trước sau giờ vậy”, ngại đổi mới, sợ sự thay đổi, không dám phạm sai lầm; nguồn lực dành
cho công tác Đoàn còn nhiều hạn chế nhưng việc thực hiện lại mang tính dàn trải, thiếu sự tập
trung nguồn lực vào các hoạt động trọng tâm, trọng điểm; lối làm việc nặng văn bản, giấy tờ,
báo cáo dẫn đến hành chính hóa, biến cán bộ Đoàn thành “những con người của văn phòng”,
ít thời gian tiếp xúc với cơ sở, tiếp cận TN, vai trò “người đồng hành với TN”, “người bạn tin
cậy của TN” do đó mà giảm đi ý nghĩa của nó; sự hụt hẫng những cán bộ Đoàn có trình độ, kỹ
năng, nhiệt tình với công tác Đoàn và phong trào TN có xuất phát điểm ngay từ khâu tuyển
dụng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ làm công tác này; những cán bộ Đoàn có tâm đôi khi lại
thiếu hụt những kỹ năng cần thiết để thích ứng và thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới.
Có người nói: "Nhìn lên còn thấy tổ chức ĐTN nhưng nhìn xuống thì không thấy TN
đâu?!". Ðem câu nói ấy đối chiếu với thực trạng TN nông thôn, cơ sở hiện nay quả thật không
sai! Sở thích, thói quen, lối sống, nhu cầu của TN, kể cả một số giá trị xã hội đã thay đổi khác
hơn nhiều so với trước đây. Phương pháp tập hợp, tuyên truyền, vận động TN trước giờ vẫn
hay dùng nay đã không còn phù hợp và hiệu quả. Rõ ràng là những “hoạt động thường lệ” đã
không còn phù hợp và không còn tạo ra được mức độ hài lòng, việc thực hiện, và hiệu quả cần
thiết để tổ chức Đoàn và TN ngày càng tiến bộ. Thực trạng thì đáng buồn, nhưng tổ chức
Đoàn các cấp hiện nay vẫn còn đang loay hoay và bế tắc trong việc tìm kiếm những giải pháp
phù hợp, do vậy mà lỡ mất thời cơ để trở nên mạnh mẽ hơn. ĐTN 2 cấp huyện An Minh đối


17
mặt với một đe dọa từ từ, mà những khả năng hiện có không thể làm lắng dịu, do đó cần phát
triển những khả năng mới để tồn tại và lớn mạnh.
Thường khi một người hay một tổ chức nhìn vào những nguy cơ và triển vọng thường
có khuynh hướng sợ hãi những nguy cơ, sự lựa chọn tiếp tục duy trì cái cũ, cái đã có thường

đơn giản và dễ dàng hơn là việc tạo ra sự khác biệt để tồn tại, thông qua những nỗ lực phi
thường để làm những việc phi thường mà chưa từng ai làm trước đó. Đây thực sự là thách
thức lớn với ĐTN huyện - một thách thức phát triển cần sự lãnh đạo tập trung để vượt qua.
2.4. Những kỳ vọng về chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện
An Minh trong thời kỳ hội nhập
Trong đấu tranh cách mạng Đảng, Bác Hồ đã giành cho TN những đánh giá rất có ý
nghĩa và quan trọng, khẳng định vị trí, vai trò của TN. Bước sang thời kỳ đổi mới đất nước,
ĐCSVN tiếp tục thể hiện niềm tin sâu sắc vào thế hệ TNVN, là lực lượng đi đầu trong cuộc
đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tư BCH Trung ương khóa VII đã nêu rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không,
đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách
mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc
vào TN”. Tiếp đó, Nghị quyết về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TN
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” được thông qua tại Hội nghị
lần thứ bảy BCH Trung ương khóa IX tiếp tục khẳng định: “TN là rường cột của nước nhà,
chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thời gian qua, công tác Đoàn và phong trào TTN huyện luôn được sự quan tâm lãnh
đạo sâu sát của cấp ủy Đảng, sự hỗ trợ, tạo điều kiện của chính quyền, các ban ngành đoàn thể
huyện. Trong những năm tiếp theo, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ tiếp tục tạo ra
những cơ hội lớn cho ĐTN huyện, song cũng chứa đựng nhiều thách thức cho tổ chức trong
việc gìn giữ những giá trị cốt lõi vốn có, và đạt đến sứ mạng của mình:
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện An Minh phải tiếp tục vai trò là tổ chức chính trị xã
hội lớn nhất của TN huyện An Minh, là trường học xã hội chủ nghĩa của TN huyện tạo môi
trường đưa TN vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của
người lao động mới phù hợp với yêu cầu hội nhập như hiện nay.
- Định hướng TN đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù nhằm mục
đích chia rẽ khối đoàn kết thống nhất toàn dân, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.



18
- Tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để TN phát huy hết những phẩm chất tốt đẹp:
năng động, sáng tạo, bản lĩnh, trí tuệ, tạo nên lớp TN “vừa hồng vừa chuyên” để thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình.
- Là Đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà
nước và các ngành. Đoàn luôn luôn xác định nhiệm vụ của mình là đội quân xung kích cách
mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng
vẻ vang của Đảng và của Bác Hồ.
Với những kỳ vọng nói trên, tổ chức Đoàn 2 cấp của huyện An Minh cần nhận diện
đúng thách thức phát triển mà mình đang gặp phải, để lãnh đạo tổ chức đi đến thành công, đáp
ứng được những kỳ vọng.
PHẦN III. LÃNH ĐẠO THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ
CHÍ MINH HUYỆN AN MINH THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Tạo ra một môi trường che chở lành mạnh duy trì sự tập trung của mọi người
1.1. Trở thành một áp lực khuấy động và quấy động sự tự mãn vốn đã tồn tại trong
văn hóa của tổ chức
Có một thực tế là cho đến thời điểm này, tổ chức Đoàn các cấp của huyện và cá nhân
từng cán bộ Đoàn phần lớn hài lòng với kết quả mình đạt được vào cuối mỗi năm, hài lòng
với thông báo đánh giá “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” của Đoàn cấp trên, khi tổ chức của họ
nỗ lực hoàn thành các chỉ tiêu, “chạy theo” làm đủ hết các chương trình mà ĐTN cấp trên yêu
cầu thực hiện, cố gắng để hoàn thành việc minh chứng cho bộ tiêu chí đánh giá thi đua cuối
năm dài vài chục trang, với hơn 100 nội dung từ rất nhỏ đến rất lớn, từ rất chi tiết đến rất tổng
quát, và tổ chức không biết bao nhiêu hoạt động đồng loạt trong năm theo chỉ đạo từ Trung
ương Đoàn. Thế nhưng khi nhìn lại thì hoạt động của các huyện đoàn có điểm gì tạo nên sự
khác biệt để học tập lẫn nhau? Làm rất nhiều nhưng vì sao vẫn không giữ được TN tìm đến và
ở lại với tổ chức? Các chương trình thường đếm số cuộc tổ chức, số lượt tham gia để tính
thành tích, nhưng hiệu quả của chương trình tới đâu thì chưa thể hoặc không thể đánh giá
được. Chỉ thấy ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu

chưa nâng lên, TN vi phạm pháp luật có chiều hướng tăng về số lượng và mức độ nghiêm
trọng, thậm chí là ngày càng trẻ hóa… Phải chăng đã có những tính toán sai lầm xuất phát từ
chính “Bộ tiêu chí đánh giá công tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu nhi đối với các huyện,
thị, thành đoàn”, và bảng phân bổ chỉ tiêu được Tỉnh đoàn ban hành ngay từ đầu năm?
Đã đến lúc cần mạnh dạn thay đổi quan điểm đánh giá chất lượng công tác Đoàn hàng
năm, xây dựng lại hệ thống tiêu chí đánh giá và thay cách đánh giá lệ thuộc văn bản như hiện
nay. Trong số các nhiệm vụ trọng tâm: tuyên truyền giáo dục; phong trào xung kích và đồng
hành với TN; xây dựng tổ chức Đoàn; phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh; mở rộng mặt trận


19
đoàn kết tập hợp TN và Đoàn tham gia xây dựng Đảng, ở từng nhiệm vụ trọng tâm hãy hướng
dẫn nhiều nội dung nhưng nên cởi mở để cho cơ sở tự lựa chọn những việc nào cần tập trung
thực hiện trước tiên, phù hợp với nguồn lực hiện có và yêu cầu thực tế của địa phương, và tập
trung đào tạo cho cán bộ Đoàn cơ sở những kỹ năng cần thiết để thực hiện những nhiệm vụ
đó. Hạn chế làm dàn trãi, chia nhỏ nguồn lực dẫn đến việc nào cũng làm nhưng việc nào cũng
dở.
Để làm được điều đó - thay đổi những suy nghĩ cố hữu trong phương thức chỉ đạo,
đánh giá và lề lối làm việc - cần quán triệt tư duy mới tại một hội nghị công khai gồm những
cán bộ Đoàn chủ chốt, nêu bật thực trạng, hạn chế mà tổ chức Đoàn các cấp đang gặp phải,
đặc biệt là những thách thức đối với công tác Đoàn và phong trào TN thời kỳ hội nhập, và giải
thích triển vọng có được - sự tin tưởng và ủng hộ của các nhân vật hữu quan chủ chốt bao
gồm đoàn viên TN (ĐVTN), các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức cá nhân có liên quan
và cộng đồng - nếu tổ chức Đoàn có thể thay đổi cách thức hoạt động và phát triển những
tiềm năng của nó. Cung cấp các nguyên tắc chỉ dẫn cũng như định hướng một bộ tiêu chí mới
và phương pháp triển khai thực hiện việc đánh giá, quán triệt những gì cần thiết trên phương
diện lãnh đạo chung trong mọi cấp độ của tổ chức Đoàn để tạo sự thống nhất trong quan điểm
thực hiện.
1.2. Tạo ra một môi trường che chở lành mạnh duy trì sự tập trung của mọi người
Thay đổi văn hóa của tổ chức - văn hóa tự mãn, trọng cái tôi, sợ mạo hiểm - đã được

hình thành từ rất lâu trước đây và vẫn còn đang tiếp tục được duy trì. Người lãnh đạo một tổ
chức Đoàn bất kỳ cần rèn luyện cho mình tư duy cởi mở để thiết lập lại một nền văn hóa tổ
chức mới - văn hóa ưa sự sáng tạo, sẵn sàng học tập từ sai lầm, và chịu đựng được va chạm;
một văn hóa mà mỗi người đều sẵn sàng chìa tay ra với các đồng nghiệp, xây dựng những cầu
nối, và chữa lành những cái tôi bị tổn thương do mọi người thỉnh thoảng giẫm lên chân nhau
trong nỗ lực xác định xem những năng lực, thực tiễn, và quy chế mới mẻ nào tỏ ra có triển
vọng lớn lao nhất trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Khi đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và cách thức thực hiện chúng, cần cân
nhắc chọn lựa giữa việc tiếp tục duy trì phương pháp chỉ đạo cũ, nội dung cũ, cách thực hiện
cũ - một cách đơn giản và dễ dàng nhưng hiệu quả không cao và kết quả không làm thay đổi
thực trạng hiện có - với việc làm cho mọi người chấp nhận mạo hiểm để tạo ra những thay đổi
cần thiết. Cũng cần xem xét kỹ những kỹ năng, kiến thức nào mà những cán bộ Đoàn hiện tại
đang thiếu khi muốn “mạo hiểm”, và hướng họ tự hoàn thiện bản thân, trở nên có học vấn
hơn, lành nghề hơn, và cần cù hơn. Cho phép tổ chức của mình có thể phạm những sai lầm,
nhưng với một tập thể kiên định gồm những người tận tâm và tài giỏi - những người sẵn sàng
học tập và không thể chê trách - thành công sẽ đến.


20
Trong quá trình tổ chức đang tìm cách phát triển, việc học tập mô hình hay, thử
nghiệm những cách làm và hoạt động mới sẽ không tránh khỏi có lúc mọi người thấy do dự,
xao nhãng, hoặc ra mặt chống đối. Nhiệm vụ của những lãnh đạo Đoàn các cấp lúc này là tạo
ra một môi trường che chở lành mạnh, giúp “che chở” mọi người vượt qua công việc khó
khăn và ngăn chặn sự hỗn loạn của quá trình thay đổi để phát triển. Người lãnh đạo cần sử
dụng quyền hạn một cách rộng lượng nhưng kiên quyết - thấu hiểu cho những khó khăn của
cơ sở để tận tình định hướng, hỗ trợ, nhưng cũng cần quyết đoán và thiết lập những nguyên
tắc không thể thỏa hiệp trong việc đánh giá kết quả thực hiện - nhằm định rõ những ranh giới
của những gì mọi người có thể và không thể làm và hướng mọi người thực hiện công việc
thích ứng, nhắc nhở họ về mục đích cao hơn của tổ chức.
Tìm hiểu sự né tránh công việc phát sinh của những người đang đảm đương nhiệm vụ

và làm cho họ đối mặt với thực tế và gánh vác công việc thích ứng của một thách thức phát
triển, ngay cho dù họ có miễn cưỡng, hoang mang, hoặc kháng cự, thông qua đề cao sự gắn
kết giữa văn hóa tổ chức với đạo đức làm việc cá nhân, ủng hộ và khuyến khích sự thay đổi
để tiến bộ một cách tích cực và công khai, chẳng hạn ngợi khen, biểu dương những ý tưởng
mới, tưởng thưởng cho quá trình học tập từ sự thay đổi chứ không chỉ là kết quả mà một
người đạt được khi tạo ra sự thay đổi.
1.3. Tạo ra những người lãnh đạo đích thực - yếu tố cốt lõi quyết định sự thành
công của một thách thức phát triển
Và suy cho cùng, điều tiên quyết của việc lãnh đạo một thách thức phát triển trước hết
là phải có người lãnh đạo chân chính, như quan điểm của Bác Hồ: “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người thủ
lĩnh đích thực của TN phải mang “diện mạo của lý tưởng”, một người bạn hoàn toàn đáng tin
cậy đối của TN. Thực trạng công tác cán bộ hiện nay, những quy định trong việc tuyển dụng,
lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ đang “làm khó” cho tổ chức Đoàn các cấp. Có thể điểm qua
mấy vấn đề như sau:
Thứ nhất, công tác tuyển dụng nhân sự mới: ứng cử viên chỉ cần đáp ứng đủ trình độ,
tiêu chuẩn về chuyên môn theo yêu cầu, thi tuyển những môn điều kiện và chuyên ngành,
nhưng liệu trình độ chuyên môn (đa số được đào tạo ở những ngành nghề khác, không liên
quan đến công tác TN) và “những hiểu biết trên giấy” đã đủ cho những “thủ lĩnh TN tương
lai”? Việc tuyển dụng cán bộ Đoàn vì thế mà mang tính “hên xui” quá nhiều.
Thứ hai, công tác sắp xếp, bố trí cán bộ Đoàn thực hiện theo quy định là vô cùng khó
cho tổ chức Đoàn trong lựa chọn nhân sự thay thế: chẳng hạn khi một cơ quan chuyên trách
của Đoàn cấp huyện thiếu hụt nhân sự, việc tìm người thay thế không hề dễ dàng. Nếu chuyển
nhân sự từ ngành khác sang thì một là không đáp ứng được yêu cầu về độ tuổi (quá 30), hai là


21
nếu đảm bảo được tuổi thì lại không có chút kiến thức về Đoàn hay một kỹ năng công tác TN
nào. Nếu bố trí được sẽ lại hao tốn nguồn lực (thời gian, kinh phí) cho việc học lại từ đầu, thời
gian để họ quen dần với công việc. Nhiều trường hợp dù có học bao nhiêu, thời gian bao lâu

cũng không phù hợp để làm công tác Đoàn. Một lựa chọn khác có vẻ khả thi hơn là tìm người
gần gũi công tác Đoàn và có kinh nghiệm hoạt động cơ sở: rút lãnh đạo Đoàn cấp dưới về,
song, với quy định hiện nay, người lao động phải đủ 5 năm công chức ở cơ sở mới được rút về
huyện, và thực tế là đợi đến lúc những cán bộ đủ điều kiện thời gian công chức có thể rút về
được thì đa phần đều không còn đáp ứng được độ tuổi theo quy chế cán bộ Đoàn.
Thứ ba, việc sắp xếp đầu ra cho cán bộ Đoàn hết tuổi chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức của cấp ủy Đảng cùng cấp. Điều này tạo ra sự ì ạch, mệt mỏi, buông xuôi, chán nản
cho nhiều cán bộ Đoàn vào giai đoạn gần hết tuổi cán bộ Đoàn theo quy định, làm mất động
lực để thực hiện nhiệm vụ và thích ứng với những chiến lược thay đổi để phát triển.
Nên chăng là quan tâm lựa chọn những con người có niềm đam mê, nhiệt huyết và
phù hợp để làm công tác Đoàn ngay từ đầu - thông qua thiết kế thêm một phần phỏng vấn cho
kỳ thi tuyển dụng. Việc lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ nên dành chút ngoại lệ cho ĐTN (về
thời gian thực hiện nhiệm vụ công chức), bằng cách cộng thêm thời gian họ thực hiện nhiệm
vụ công tác ĐTN ở vai trò bán chuyên trách, để không bỏ lỡ những cá nhân tài năng, nhiệt
tình và tâm huyết ở cơ sở. Cũng cần đặc biệt quan tâm sắp xếp đầu ra “hợp tình hợp lý” cho
cán bộ Đoàn, có như vậy mới giúp họ yên tâm công tác, yên tâm cống hiến hết mình vì sự
phát triển của tổ chức.
2. Phát triển theo từng giai đoạn: Cho mọi người thời gian để tìm ra điều gì có tác
dụng
2.1. Cung cấp những hỗ trợ cần thiết để giúp mọi người chuyên tâm vào quá trình
phát triển
Trong quá trình học tập để phát triển, con người và tổ chức của họ thay đổi rất chậm
chạp, luôn cần phải thử nghiệm và khám phá, thông thường qua phương pháp thử và sai để
tìm ra cái gì có tác dụng trong thực tế. Quá trình này thường đầy rẫy những bấp bênh, thất bại,
tính toán nhầm lẫn, khó khăn và gây nản lòng, nhưng nếu vượt qua được những trở ngại thì nó
lại là những bước nhảy vọt của sự hiểu biết và tiến bộ. Và điều mà những người cán bộ Đoàn
chủ chốt cần làm lúc này là phải cung cấp sự hỗ trợ cần thiết để giúp mọi người chuyên tâm
vào quá trình, nhắc nhở họ về mối đe dọa nếu họ không phát triển, và khơi gợi một khao khát
phát triển bằng cách nối kết tầm nhìn hoặc mục đích phát triển với những mong ước của mọi
người về một tổ chức tốt hơn.

Và cũng đến lúc tổ chức Đoàn cần nhận thức được rằng, với một nguồn lực có hạn - cả
về con người lẫn kinh phí - không thể thực hiện quá nhiều việc trong cùng một lúc. Sự dàn


22
trãi, thực hiện nhiệm vụ thiếu trọng tâm trọng điểm, rượt đuổi “Bộ tiêu chí” đã khiến hoạt
động Đoàn dần trở nên thiếu chiều sâu, làm thì nhiều nhưng hiệu quả không cao. Tổ chức
Đoàn cần quay nhìn lại sứ mạng của mình, giữ những giá trị cốt lõi của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, và lựa chọn, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trọng tâm nào hướng gần nhất đến sứ mạng và
giá trị của tổ chức: đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho TN, xây dựng thế
hệ TN “vừa hồng vừa chuyên” kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Cần tránh sự
“thiếu khả năng và thiếu tập trung để xây dựng”, nghĩa là thực hiện công việc một cách dàn
trãi, “được chăng hay chớ”, và cũng không nên lựa chọn một chiến lược cải cách “một kích cỡ
vừa cho tất cả” và không tính đến “những vấn đề tổ chức, những chuẩn mực chuyên môn,
những nền văn hóa khác nhau được nhắm tới” - vì rõ ràng là điều kiện thực tế của từng địa
phương, đơn vị (môi trường sống, lĩnh vực công tác, tính chất TN, nguồn lực con người, kinh
phí… ) là không giống nhau. Hãy tặng cho họ sự tự chủ trong thực hiện nhiệm vụ, để họ phát
triển theo một cách đặc biệt và thành công nhất có thể.
Xác định thủ lĩnh TN hiện nay đang thiếu và yếu kỹ năng hội nhập, kỹ năng tiếp cận
TN, làm việc nhóm, tổ chức sự kiện, tuyên truyền miệng… cần được định hướng và trang bị
thêm để đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập, song, cần thiết kế một quá
trình học tập từng giai đoạn một để khám phá cái gì thật sự có tác dụng trong mỗi bộ phận của
hệ thống. Việc đẩy mạnh tới trước mà không tính đến sự khó khăn mọi người gặp phải trong
việc thích ứng với bối cảnh mới và tinh thông những năng lực mới, góp phần làm suy yếu quá
trình đang thật sự được thực hiện. Bên cạnh đó, việc thực hiện mọi thứ trong cùng một lúc
(quá nhiều phong trào cần thực hiện trong một năm, quá nhiều chỉ tiêu cần đạt được trong một
năm, quá nhiều hoạt động cần được tổ chức đồng loạt trong một năm… ) tạo ra một áp lực
khủng khiếp lên tổ chức ĐTN các cấp, nhất là ở ấp, khu phố - nơi mà công việc thì đầy mà
con người và kinh phí thì không đảm bảo. Vậy nên, cần để cho tổ chức Đoàn các cấp tự lựa
chọn việc nào mà họ muốn làm, muốn ưu tiên để tập trung thực hiện trước, và thực hiện theo

một lộ trình hợp lý, góp phần tạo cơ hội cho những sáng tạo và sự học tập thông qua quá trình
thử nghiệm.
2.2. Mạnh dạn đối diện với trở ngại và có mặt kịp thời để xử lý những xung đột xảy
ra trong quá trình lãnh đạo một thách thức phát triển
Cũng lưu ý rằng, người lãnh đạo công tác Đoàn không nên đánh giá thấp những trở
ngại mà mọi người đối mặt trong khi phác họa và tạo dựng những khả năng mới. Cần luôn đặt
mình ở trong tâm thái để học tập từ thực tế và xác định ở chỗ nào mà những thay đổi chiến
lược hoặc những hiệu chỉnh giữa chừng là cần thiết đối với một kế hoạch phát triển bất kỳ.
Quan tâm đến những xung đột đáng kể trong toàn bộ hệ thống trong quá trình cải
cách, vì những xung đột này có thể cung cấp dữ kiện hữu ích để xác định điều gì đang thiếu


23
trong chiến lược ban đầu và có thể làm điều gì khác đi. Tuy nhiên, cũng cần xuất hiện kịp lúc
khi sự xung đột trở nên cao độ tạo ra nguy cơ hình thành một “tính cách quá tự vệ” giữa
những thủ lĩnh TN. Hướng mọi người tận tâm với công việc và tìm kiếm những “đồng sự”
mang thái độ “có thể thực hiện được” nhằm giúp thúc đẩy tổ chức và thành viên của nó đi tới
và vượt qua những rào cản tinh thần và vật chất.
Phát triển thực chất là một quá trình của việc “thử và sai”, cho nên việc làm đúng ngay
từ đầu hầu như là điều không thể. Việc vun bồi những khả năng thích hợp diễn ra thông qua
một loạt những thử nghiệm. Nhiệm vụ lãnh đạo là minh bạch ngay từ đầu và giải thích với họ
về tính chất thử nghiệm của quá trình cải cách, tạo ra một môi trường lựa chọn và thử nghiệm,
để cán bộ Đoàn từ huyện đến cơ sở khám phá những thực hành và ưu tiên nào thật sự cần thiết
cho sự phát triển của bản thân họ và tổ chức của họ.
3. Tìm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy để phát triển những giá trị và
khả năng mới
3.1 Tìm kiếm sự kết hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy
Để phát triển những khả năng mới phục vụ cần thiết cho sự phát triển, công việc lãnh
đạo là thay đổi những giá trị và niềm tin lỗi thời để một nhóm có thể vượt qua những rào cản,
tiến lên một mức hoạt động cao hơn, và tận dụng những cơ hội mới. Việc tìm kiếm một sự kết

hợp đúng đắn của những lực đòn bẩy trong tổ chức còn giúp kích thích và tăng tốc quá trình
phát triển sao cho giúp mọi người đối mặt với thực tế khó khăn của mình và điều chỉnh cách
nhìn phù hợp với một điều kiện thay đổi.
Có một điều dễ thấy là không thể cưỡng bức một sự thay đổi những giá trị và niềm tin
từ trên xuống dưới. Người lãnh đạo cần thiết kế một quá trình mà nó có thể cho phép mọi
người học biết về những thành viên khác qua việc tương tác với họ. Vì vậy, để bắt cộng đồng
gánh vác trách nhiệm cho sự phát triển của mình, người lãnh đạo cần tìm ra sự kết hợp đúng
đắn giữa những lực đòn bẩy: một niềm tin đúng đắn, một mục tiêu đúng đắn cho đối tượng
đúng đắn, một sự tuyên truyền phù hợp và cần thiết (truyền thông), và thiết lập mối quan hệ
đúng đắn với những cá nhân và tổ chức hữu quan.
3.2. Thiết lập mối quan hệ đúng đắn với các nhân vật hữu quan
Quá trình phát triển của tổ chức Đoàn hiển nhiên không thể là quá trình “thân cô thế
cô” mà có thể thực hiện được. Tổ chức Đoàn các cấp muốn thành công thực hiện nhiệm vụ thì
cần tương tác tốt với các nhân vật hữu quan và quản lý tốt sự ảnh hưởng của những nhân vật
ấy với chất lượng hoạt động Đoàn của địa phương, đơn vị mình, cụ thể như sau:
- Với Đảng bộ huyện: Tổ chức Đoàn cần tích cực tham mưu, đề xuất với Đảng về
những vấn đề liên quan đến TN và công tác thanh thiếu nhi, tham gia xây dựng, bảo vệ và
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, đóng góp ý kiến cho đảng viên và sự lãnh đạo


24
của các cấp ủy Đảng. Đảng có vững mạnh, kiên cường mục tiêu, lý tưởng cách mạng thì Đoàn
mới có điều kiện phát triển thuận lợi.
- Với UBND các cấp: Đoàn tham gia đóng góp, xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân
dân các cấp; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà
nước; vận động đoàn viên, TN xung phong, tình nguyện đi đầu trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, trực tiếp tham gia có hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tham gia giám sát hoạt động của chính quyền và tham gia phản biện xã hội.
- Với các ban ngành, mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội khác trên địa bàn huyện:
Đoàn chủ động phối hợp, liên kết hoạt động trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, dựa

trên đường lối, quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.
- Với báo chí, truyền thông: Đoàn chủ động cung cấp những thông tin chính thống về
hoạt động của tổ chức Đoàn và ĐVTN các cấp trên địa bàn huyện. Dựa vào báo chí, truyền
thông để nắm bắt nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng, dư luận xã hội trong TN, để tuyên truyền,
giáo dục, vận động thanh thiếu niên thực hiện lý tưởng, mục tiêu của tổ chức Đoàn và TN
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Với thanh thiếu niên: Đoàn chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, dư luận
xã hội trong thanh thiếu niên, tùy theo đặc điểm về tuổi tác, giới tính, dân tộc, tính ngưỡng
của thanh thiếu niên để xây dựng chương trình hành động, kế hoạch, phong trào phù hợp.
- Các tổ chức, cá nhân khác: Đoàn tranh thủ vận động để thực hiện xã hội hóa phong
trào thanh thiếu nhi, tăng cường nguồn lực hỗ trợ cho các hoạt động của Đoàn.
Nỗ lực lãnh đạo để phát triển những giá trị và khả năng mới trong xã hội là khía cạnh
quan trọng cho một thách thức phát triển. Thứ nhất, nền văn hóa và những truyền thống hiện
hành của tổ chức có thể chứa đựng những nguồn lực tích cực cũng như những ảnh hưởng tiêu
cực cho việc thuyết phục mọi người phát triển. Nhiệm vụ lãnh đạo công tác Đoàn là tìm kiếm
những nguồn lực có thể được dùng như những lực đòn bẩy để hỗ trợ sự phát triển. Những áp
lực khuấy động nên được thực hiện từng bước và đều đặn để cho phép mọi người có những
điều chỉnh về cách sống và thích ứng với những thực tế mới.
4. Cho phép mọi người có một phần hùn vốn trong sự phát triển những khả năng
của họ
Có một thực tế là mọi người thường làm việc tích cực hơn để hoàn thiện những gì họ
hiểu là của họ. Vì vậy một nhà lãnh đạo cần không ngừng tìm kiếm sự cân bằng đúng đắn và
phân phối quyền lợi một cách hợp lý. Và cũng cần lưu ý rằng, trong một thách thức phát triển,
sự sáng suốt là cần thiết để giữ sự cân bằng thích đáng giữa nỗ lực và phần thưởng cho tất cả
mọi người.


25
Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng của Đoàn, “thưởng phạt phân minh” sẽ giúp
những người cán bộ Đoàn và ĐVTN cảm thấy gắn bó với tổ chức Đoàn của họ. Đối đãi với

mọi người như thể họ là chủ, nhằm tạo ra lý do để họ quan tâm đến tổ chức và dốc hết sức
mình vì tổ chức. Họ hiểu rằng sự đổi mới và tiến bộ sẽ mang lại thành quả cho tổ chức cũng là
cho chính bản thân họ. Mọi người sẽ ra sức làm việc và giúp đỡ tổ chức nếu họ tự tin sẽ
hưởng được những thành quả lao động của mình.
Trong quá trình lãnh đạo thách thức phát triển này, người cán bộ Đoàn chủ chốt cần
quan tâm đến những đặc điểm chính yếu:
Thứ nhất, có nhiều ảnh hưởng chống lại sự phát triển, lái mọi người đến sự hoang phí
và lợi ích trước mắt. Vì vậy, người lãnh đạo cần chịu trách nhiệm đối với những ảnh hưởng
trợ giúp hoặc ngăn trở sự phát triển của toàn bộ hệ thống.
Thứ hai, nỗ lực đề xuất thay đổi mức trả công cho đóng góp của cán bộ Đoàn ở ấp,
khu phố, chí ít phải đảm bảo họ đủ điều kiện sống và chăm lo gia đình một cách cơ bản nhất.
Quan tâm đến họ với đúng nghĩa họ là lực lượng nòng cốt quan trọng nhất của tổ chức Đoàn
các cấp của huyện, và sự phát triển của họ có tác động sâu sắc đến sự thành bại trong công tác
Đoàn của huyện, nhằm hướng họ trở thành một phần quan trọng của tổ chức.
Thứ ba, thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát gắn với thi hành kỷ luật trong
Đoàn. Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở, định hướng cho cơ sở thực hiện nhiệm vụ và không
quên nhận những phản hồi về hiệu quả những chương trình, kế hoạch của Đoàn cấp trên đối
với quá trình phát triển.


×