Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC và THỰC HÀNH dự PHÒNG đột QUỴ não của NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT áp THUỘC CHƯƠNG TRÌNH QUẢN lý NGOẠI TRÚ KHOA KHÁM BỆNH – BỆNH VIỆN đa KHOA TỈNH THANH hóa năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.57 KB, 64 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

CHU THỊ HOÀNG ANH

ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH
DỰ PHÒNG ĐỘT QUỴ NÃO CỦA NGƯỜI BỆNH
TĂNG HUYẾT ÁP THUỘC CHƯƠNG TRÌNH QUẢN LÝ
NGOẠI TRÚ - KHOA KHÁM BỆNH – BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TỈNH THANH HÓA NĂM 2019
Chuyên ngành : Điều dưỡng
Mã số
:
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Bs Nguyễn Hữu Tú

HÀ NỘI – 2019
DANH MỤC CHŨ VIẾT TẮT


2

1. THA
2. ĐQN
3. TBMMN
4. WHO


5. WSO
6. ĐTNC

Tăng huyết áp
Đột quỵ não
Tai biến mạch máu não
Tổ chức y tế thế giới
Hội đột quỵ thế giới
Đối tượng nghiên cứu


3

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG


4

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thứ 3 trên thế giới sau các bệnh lý
tim mạch và ung thư, là nguyên nhân chính của tình trạng tàn tật kéo dài, gây
nên gánh nặng lớn về tinh thần, cảm xúc và kinh tế cho bệnh nhân, gia đình
và xã hội [1].
Theo dự báo của Tổ chức Đột quỵ Thế giới, nếu năm 2010 trên thế giới
có khoảng 16 triệu người bị đột quỵ lần đầu, tử vong là 5,9 triệu (35%) thì
đến năm 2030, tỷ lệ này là 22 triệu và tử vong là 7,8 triệu (34%) [2]. Đột quỵ
có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân: bệnh lý (đái tháo đường, tăng huyết áp,
cholesterol máu,…), hành vi (hút thuốc lá, uống rượu,…), hay do di truyền và

lịch sử gia đình [3] nhưng tăng huyết áp là nguyên nhân chính dẫn đến đột
quỵ [4]. Theo thống kê của WHO trong số 9,4 triệu ca tử vong do biến chứng
tăng huyết áp, chịu trách nhiệm cho ít nhất 45% tử vong do bệnh tim và 51%
trường hợp tử vong do đột quỵ [5]. Nhận thức của cộng đồng về đột quỵ, tăng
huyết áp và các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi đối với bệnh tim mạch ở
Nkonya-Wurupong cho thấy 35% tin rằng tăng huyết áp là một yếu tố nguy
cơ của đột quỵ và chỉ có 26% hiện đang được điều trị tăng huyết áp. Kiến
thức về hậu quả tăng huyết áp bao gồm bệnh tim mạch và đột quỵ thay đổi
đáng kể cùng với các nguồn giáo dục và nhận dạng đột quỵGhana [56].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy tăng huyết áp gây biến chứng đột
quỵ chiếm tỉ lệ 62%, người bị tăng huyết áp không được kiểm soát thì nguy
cơ đột quỵ tăng 7 lần [6]. Theo Nguyễn Lân Việt, tăng huyết áp là nguy cơ
hàng đầu dẫn đến đột quỵ não với tỉ lệ 79.17%, người bị tăng huyết áp giai
đoạn II không được kiểm soát thì nguy cơ đột quỵ tăng 4 lần [7]. Nghiên cứu
của Lý Thị Kim Thương về nhận thức về các yếu tố nguy cơ và biểu hiện
cảnh báo đột quỵ não của người dân phường Tây Sơn thành phố Pleiku (2016)


5

cho thấy tỉ lệ người dân có nhận thức về các biểu hiện cảnh báo nguy cơ đột
quỵ não không đạt chiếm 58.8%, người có nhận thức đạt chỉ chiếm12.4% [8].
Nghiên cứu của Trịnh Thị Thủy Hồng năm (2015) cho thấy có tới 64,2% đối
tượng nghiên cứu không có kiến thức đạt và 70,6% đối tượng nghiên cứu
không có thực hành đạt để dự phòng biến chứng của bệnh tăng huyết áp [9].
Tiến hành khảo sát nhanh về kiến thức, thái độ và một số yếu tố liên
quan dự phòng biến chứng đột quỵ não của 10 bệnh nhân được chẩn đoán
tăng huyết áp đến khám định kì tại khoa khám bệnh – BVĐK Tỉnh Thanh Hóa
phát hiện thấy chỉ có 03 bệnh nhân biết về biến chứng đột quỵ não có thể bị
gây nên bởi tăng huyết áp nhưng thái độ chủ quan, đồng thời không rõ về các

yếu tố liên quan đến nguy cơ gây nên biến chứng này.
Nhận thấy việc cung cấp thông tin để giúp những bệnh nhân tăng huyết
áp có kiến thức, thái độ đúng đắn, cũng như tăng cường sự hiểu biết về một số
yếu tố liên quan đến nguy cơ gây biến chứng đột quỵ não trên bệnh nhân tăng
huyết áp, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá kiến thức và thực hành dự
phòng đột quỵ não của người bệnh tăng huyết áp thuộc chương trình
quản lý ngoại trú - Khoa khám bệnh – Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh
Hóa năm 2019” với 2 mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức và thực hành dự phòng đột quỵ não của
người bệnh tăng huyết áp thuộc chương trình quản lý ngoại trú Khoa khám bệnh – Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm 2019
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành dự phòng
đột quỵ não của người bệnh tăng huyết áp thuộc chương trình quản lý
ngoại trú - Khoa khám bệnh – Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa
năm 2019


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh tăng huyết áp
1.1.1. Định nghĩa
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh mạn tính, phổ biến ở các quốc gia
đang phát triển trong đó có Việt Nam. WHO cho thấy có khoảng 40% dân số
toàn cầu bị tăng huyết áp, con số này vẫn tiếp tục tăng lên do tình trạng già
hóa dân số đang diễn ra ở hầu hết quốc gia trên thế giới.
Tăng huyết áp được định nghĩa là khi huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg
và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg [10]
1.1.2. Phân độ tăng huyết áp
Tăng huyết áp được phân loại thành hai loại là THA nguyên phát và

THA thứ phát. Có gần 90% số ca được phân loại "tăng huyết áp nguyên phát",
dùng để chỉ các trường hợp không tìm thấy nguyên nhân gây tăng huyết áp
(vô căn). Chỉ có khoảng 5–10% số ca là tăng huyết áp thứ phát gây ra bởi các
bệnh tại các cơ quan khác như thận, động mạch, tim và hệ nội tiết [10] [11]
Tăng huyết áp không được điều trị và kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tổn
thương nặng các cơ quan đích và gây các biến chứng nguy hiểm như tai biến
mạch não, nhồi máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ, suy tim, suy
thận … thậm chí dẫn đến tử vong [10]
1.1.3. Một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp
1.1.3.1. Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được
- Tuổi (nam giới ≥ 55, nữ giới ≥ 65)
- Giới tính (nam hoặc nữ đã mãn kinh)
- Tiền sử gia đình có cùng huyết thống bị tăng huyết áp
- Chủng tộc
1.1.3.2. Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được


7

- Chế độ ăn nhiều muối
- Hút thuốc lá
- Rối loạn Lipid máu
- Đái tháo đường
- Béo phì(BMI > 23)
- Ít vận động thể chất
1.1.4. Dịch tễ học tăng huyết áp
1.1.4.1. Trên thế giới
Theo thống kê của WHO, trên toàn thế giới, tăng huyết áp ước tính gây
ra 7,5 triệu ca tử vong, khoảng 12,8% tổng số ca tử vong. Trên khắp các khu
vực của WHO, tỷ lệ mắc bệnh huyết áp tăng cao nhất ở châu Phi, tỷ lệ huyết

áp tăng thấp nhất là ở Khu vực Châu Mỹ [12]. Năm 2010, 31,1% (khoảng tin
cậy 95%, 30,0-32,2%) người trưởng thành trên thế giới bị tăng huyết áp;
28,5% (27,3-29,7%) ở các nước thu nhập cao và 31,5% (30,2-32,9%) ở các
nước thu nhập thấp và trung bình [13]
CHÂU PHI: Báo cáo tình trạng tăng huyết áp ở Châu Phi cho thấy có
khoảng 80 triệu người trưởng thành bị tăng huyết áp ở châu Phi cận Sahara vào
năm 2000 và con số này sẽ tăng lên 150 triệu vào năm 2025 . Dù vẫn còn trẻ hơn
tất cả các châu lục khác, Châu Phi sẽ chứng kiến sự tăng trưởng gấp 13 lần về
quy mô dân số già - từ 56 triệu ngày nay lên 716 triệu vào cuối thế kỷ. Sự gia
tăng này sẽ dẫn đến tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính và tăng huyết áp sẽ tiếp tục
được đẩy lên trong những thập kỷ tới vì sự thay đổi nhân khẩu học [14].
CHÂU ÂU: Tỷ lệ tăng huyết áp tự báo cáo cao nhất (người trưởng thành
≥15 tuổi) được ghi nhận ở Hungary (32%), Bulgaria (30%), Latvia (29%),
Đức (29%) và Litva (28%), Na Uy (13%), Pháp (14%), Thụy Điển (16%),
Vương quốc Anh (16%) và các quốc gia Benelux (tất cả dưới 17%) [15].


8

Hiểu biết về tăng huyết áp ở Ba Lan sau Tháng đo lường tháng 5 năm
2017 cho 5834 người dân, có 35,3% người dân bị tăng huyết áp. Trong số
những người được dùng thuốc huyết áp, có tới 535 người (49,1%) không
kiểm soát được huyết áp [16].
CHÂU MỸ: Nghiên cứu ở Mỹ về gánh nặng tăng huyết áp ở người
trưởng thành ở Hoa Kỳ 1999 đến 2000 cho kết quả: Tỷ lệ người mắc THA
chiếm tỉ lệ 31.3%, trong đó 28.4% sử dụng thuốc hạ huyết áp, 2.9% trong số
đó ít nhất hai lần có cơn tăng huyết áp không nhận biết được [17].
Nghiên cứu khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh dưỡng ở thành phố New
York, 2013: Tỷ lệ tăng huyết áp chung ở người trưởng thành ở thành phố New
York là 33,9% và tăng theo tuổi [18]. Một nghiên cứu về tỷ lệ, nhận thức, điều

trị và kiểm soát tăng huyết áp ở Bồ Đào Nha cho thấy, trong số các đối tượng
tăng huyết áp, chỉ có 46,1% biết về huyết áp cao của họ, 39,0% đang dùng
thuốc hạ huyết áp và 11,2% được kiểm soát huyết áp (<140/90 mmHg) [19].
CHÂU Á: Gánh nặng chăm sóc sức khỏe của bệnh cao huyết áp ở châu
Á : WHO ước tính từ năm 2000 đến 2025, số bệnh nhân được chẩn đoán mắc
tăng huyết áp sẽ tăng khoảng 60% lên tới 1,56 tỷ và châu Á sẽ đóng góp vào
một tỷ lệ lớn trong số bệnh nhân này [20].
Tại Trung Quốc và Ấn Độ, tổng số bệnh nhân tăng huyết áp dự kiến sẽ
tăng lên hơn 500 triệu vào năm 2025. Mức tăng tuyệt đối của Ấn Độ và Trung
Quốc lần lượt là 95,3 triệu và 117,6 triệu [21].
Tỷ lệ tăng huyết áp từ các nghiên cứu mới nhất là: Bangladesh: 17,9%;
Bhutan: 23,9%; Ấn Độ: 31,4%; Maldives: 31,5%; Nepal: 33,8%; Pakistan:
25%; và Sri Lanka: 20,9% [21].
ĐÔNG NAM Á: Tại Singapore, Khảo sát Y tế Quốc gia năm 2010 cho
thấy tỷ lệ hiện mắc theo tuổi cụ thể đối với tăng huyết áp tăng rõ ràng từ 40


9

tuổi trở đi và, với dân số già, quốc gia này vẫn phải tiếp tục đối mặt với
những thách thức trong phòng ngừa và kiểm soát tăng huyết áp [22]
Nghiên cứu về Tăng huyết áp ở Malaysia nhìn chung, có xu hướng tăng
tỷ lệ tăng huyết áp ở người trưởng thành ≥30 tuổi: 32,9% năm 1996, 42,6%
năm 2006 và 43,5% trong năm 2011 [23] .
1.1.4.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc THA đang gia tăng một cách nhanh chóng. Theo
thống kê, năm 1960, tỷ lệ THA ở người trưởng thành phía bắc Việt Nam là
1%, 30 năm sau (1992) theo điều tra trên toàn quốc của Viện Tim mạch tỷ lệ
này đã đạt11,2%, tăng lên hơn 11 lần. Điều tra của Viện Tim mạch năm 20012002 trên 5012 người trưởng thành trên 25 tuổi tại 4 tỉnh phía Bắc cho thấy, tỷ
lệ tăng huyết áp là 16,3% [24]

Theo kết quả điều tra năm 2008, tỷ lệ tăng huyết áp ở người độ tuổi 25 64 là 25,1%. Năm 2015, có 18,9% người trưởng thành trong độ tuổi 18-69
tuổi bị tăng huyết áp, trong độ tuổi 18-25 tuổi tỷ lệ tăng huyết áp tăng từ
15,3% năm 2010 lên 20,3% năm 2015. Như vậy là cứ 5 người trưởng thành
25-64 tuổi thì có 1 người bị tăng huyết áp [25].
Nghiên cứu về mô hình bệnh tật tại bệnh viện và trạm y tế xã tại Đồng
Tháp năm 2008 cho kết quả THA là nguyên nhân thứ hai nhập viện tại các
bệnh viện huyện và cũng là 1 trong 10 nguyên nhân nhập viện nhiều nhất tại
bệnh viện tỉnh [26].
Nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng biến chứng ở bệnh
nhân tăng huyết áp của Phạm Hương Lan 2017, kết quả cho thấy kiến thức
của ĐTNC về các biến chứng trong bệnh THA: Có 59,4% ĐTNC có kiến thức
đạt và 40,6% ĐTNC có kiến thức không đạt, có 42,8% ĐTNC có thái độ tốt
về dự phòng biến chứng và 57,2% ĐTNC có thái độ chưa tốt về dự phòng
biến chứng trong bệnh THA [27]


10

Tăng huyết áp là một bệnh mạn tính có thể gây biến chứng trên hầu hết
các cơ quan trong cơ thể. Một trong những giải pháp tốt nhất để ngăn ngừa và
giảm thiểu thiệt hại do các biến chứng này gây ra là cung cấp kiến thức, thay
đổi thái độ của bệnh nhân giúp kiểm soát tốt huyết áp, có lối sống khoa học,
lành mạnh, tuân thủ thuốc điều trị của bác sỹ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người bệnh.
1.1.5. Biến chứng của tăng huyết áp
Bệnh THA tiến triển lâu ngày sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nhiều cơ quan
trong cơ thể, được gọi là các cơ quan đích và gây nhiều biến chứng nặng nề.
Theo báo cáo của WHO (2002), THA ước tính là nguyên nhân gây tử vong
cho 7,1 triệu người trẻ tuổi và chiếm 4,5% gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu
(64 triệu người sống trong tàn phế) [69]. Theo báo cáo về các yếu tố nguy cơ

sức khỏe toàn cầu của WHO năm 2009, THA là một trong những yếu tố nguy
cơ hàng đầu gây ra tử vong toàn cầu (13%) cao hơn cả hút thuốc lá (9%) [67].
Ước tính chi phí trực tiếp và gián tiếp cho THA của Mỹ năm 2003 đã lên tới
65,3 tỷ USD [52].
Các biến chứng thường gặp của THA là: Tai biến mạch máu não (đột
quỵ); Suy tim, nhồi máu cơ tim; Phình tách thành động mạch; Suy thận; Tổn
thương mắt [9],[10],[44].
1.1.5.1. Đột quỵ não (Tai biến mạch máu não)
Các động mạch trong hộp sọ nhất là các động mạch trong não cũng rất
dễ bị tổn thương do bệnh THA. Các động mạch bị dày lên, mất độ đàn hồi,
biến dạng và dễ làm hình thành các túi phồng nhỏ, cả động mạch lẫn túi
phồng nhỏ đều có nguy cơ bị vỡ khi xảy ra cơn THA kịch phát hoặc khi HA
tăng rất cao và kéo dài. Cơn THA kịch phát quá cao còn có thể gây phù não
và các tổn thương vi thể khác làm ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động của não.


11

Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với đột quỵ [15].
Vào đầu thế kỷ 21, tỷ lệ đột quỵ chuẩn hóa theo độ tuổi ở châu Âu dao động
từ 95 đến 290 / 100.000 mỗi năm, với tỷ lệ tử vong trong một tháng là từ 13
đến 35%. Ngoài ra, do dân số già, số lượng đột quỵ tuyệt đối dự kiến sẽ tăng
mạnh trong những năm tới: đến năm 2025, 1,5 triệu người châu Âu sẽ bị đột
quỵ mỗi năm [32]. Thống kê của các tác giả trên thế giới đã cho thấy tần suất
TBMMN tăng rất rõ ở những bệnh nhân THA, tần suất đó là 17% ở nam, 8%
ở nữ, tăng lên 51% ở nam và 35% ở nữ. Nếu là bệnh nhân THA theo nghiên
cứu của Kannel và cộng sự (hội nghị quốc tế về tuần hoàn não lần thứ 4 họp ở
Toulouse Pháp năm 1985) còn cho là bệnh THA làm tăng nguy cơ TBMMN
lên 7 lần so với người không có bệnh đó, nguy cơ này tăng dần theo tuổi và
mức HA cao nhất [40].

Đăng ký đột quỵ dựa trên dân số được thành lập tại 6 quốc gia châu Âu:
Pháp (Dijon); Ý (Sesto Fiorentino); Litva (Kaunas); Vương quốc Anh (Luân
Đôn); Tây Ban Nha (Menorca); và Ba Lan (Warsaw), tổng cộng có 2129 bệnh
nhân bị đột quỵ đầu tiên đã được đăng ký và sự khác biệt về các yếu tố nguy
cơ trước đột quỵ đã được tìm thấy giữa các nhóm dân số có tỷ lệ tăng huyết
áp cao nhất ở Warsaw và Kaunas (76% và 67%) [33]
Theo Nguyễn Quang Tuấn, khoảng 60% bệnh nhân bị đột quỵ có tiền sử
THA trong quá khứ và hiện tại đang bị THA và khoảng 78% bệnh nhân không
được kiểm soát THA một cách phù hợp. Xét tất cả các yếu tố nguy cơ thì
THA là yếu tố nguy cơ cao nhất gây ra đột quỵ (RR là 4,0 ở lứa tuổi 40 – 50
và giảm xuống 2,0 ở độ tuổi 70 – 80) và là yếu tố nguy cơ mạnh nhất trong
dân số (40% ở lứa tuổi 40 – 50. 30% ở độ tuổi 70 – 80) [44].Theo Nguyễn
Văn Đăng và cộng sự thuộc Bộ môn Thần kinh, trường Đại học Y Hà Nội đã
điều tra 1.707.609 người dân và cho thấy THA là nguyên nhân chính (59,3%)
gây ra tai biến mạch máu não [10]. Theo niên giám thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ


12

mắc TBMMN là 47,6/100.000 dân. Như vậy, hàng năm có khoảng 39.980 ca bị
TBMMN và chi phí trực tiếp để điều trị bệnh này là 144 tỷ VND/năm trong đó
hậu quả do THA gây ra là 85,4 tỷ VNĐ. Có khoảng 15.990 người bị liệt, tàn
phế, mất sức lao động do TBMMN/ năm. Theo Viên Văn Đoan (2003) tỷ lệ
bệnh nhân THA được điều trị đã có biến chứng TBMMN chiếm 11,6% trong
đó TBMMN xảy ra trong quá trình đang điều trị chiếm 0,67% [11].
1.1.5.2. Suy tim, nhồi máu cơ tim
Tăng huyết áp làm cho tim, nhất là thất trái phải làm việc trong điều kiện
có áp lực máu cao ở trong các động mach lớn nên buộc phải tăng co bóp để
thắng lực cản nhằm đưa được máu qua động mạch chủ nghĩa là phải tăng
công của cơ tim để duy trì tuần hoàn. Nếu HA tăng liên tục như trong bệnh

THA thì sẽ gây quá tải liên tục cho tim. Để đảm bảo cho việc tăng công đó,
tim mà trước hết là thất trái buộc phải thích ứng nghĩa là phải dày, to ra dần;
Tuy nhiên thất trái to cũng chỉ đến một giới hạn nhất định, nếu không điều trị
thì chức năng co bóp sẽ bị tổn thương, thất dần dần sẽ bị giãn, giảm khả năng
tống máu đi và sẽ xuất hiện suy tim. Trong suy tim, máu tống đi trong thì tâm
thu không hết nên ứ lại trong thất trái rồi phía trên thất như trong nhĩ trái rồi
trong tĩnh mạch phổi, mao mạch phổi, từ đó thấm vào tổ chức kẽ xung quanh
các phế nang và vào cả phế nang, cản trở việc trao đổi oxy và thán khí, làm
bệnh nhân khó thở [2].
Tai biến mạch vành như cơn đau thắt ngực sẽ xuất hiện khi một khu vực
của cơ tim bị thiếu máu nặng. Nguy cơ bị nhồi máu cơ tim cũng xảy ra khi có
thêm biến chứng đông máu làm tắc mạch đó đột ngột. THA đã được coi là
một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng trong bệnh thiếu máu cơ tim do
vữa xơ động mạch, người ta đã thấy nguy cơ tai biến mạch vành tăng song
song với mức THA, nghiên cứu của Framingham (Hoa Kỳ) đã cho thấy nguy
cơ đó tăng lên đến 4 lần nếu HA tâm thu từ 120 lên 180 mmHg. Nhiều nghiên


13

cứu ở các nước trong những năm qua cũng khẳng định chỉ riêng thất trái to do
bệnh THA cũng làm tăng tỷ lệ tai biến tim và tăng tỷ lệ tử vong do nguyên
nhân tim mạch [9].
Một phân tích tổng hợp các số liệu từ 61 nghiên cứu tiến cứu cho thấy
mối liên quan chặt chẽ giữa huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương với nguy
cơ bị bệnh mạch vành trong 5 nhóm tuổi khác nhau, từ nhóm tuổi 40-49 tới
nhóm 80-89 tuổi [44].
Theo Nguyễn Quang Tuấn, huyết áp là một yếu tố chính gây suy tim.
Nguy cơ suy tim tăng lên gấp 2 lần ở nam giới THA và gấp 3 lần ở nữ. Có
90% các ca suy tim mới trong nghiên cứu Framingham Heart Study có tiền sử

THA. Nguy cơ này liên quan chặt chẽ với huyết áp tâm thu hơn là huyết áp
tâm trương. Điều trị THA ở người lớn tuổi làm giảm tỷ lệ mới mắc suy tim
xuống khoảng 50% [44]. Theo điều tra dịch tễ học suy tim và một số nguyên
nhân chính tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam năm 2003 do Viện Tim mạch Việt
Nam phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện cho thấy nguyên nhân
hàng đầu gây suy tim tại cộng đồng là do THA (chiếm 10,2%) [43].
1.1.5.3. Phình tách thành động mạch
Áp lực tăng thường xuyên của dòng máu khi qua các động mạch sẽ làm
thay đổi cấu trúc các thành mạch, lớp cơ của thành mạch sẽ dầy lên, các tổ
chức liên kết phát triển nhằm làm cho thành mạch chắc hơn đủ sức chịu đựng
áp lực tăng cao của dòng máu. Tuy vậy, sự thích nghi đó cũng dẫn đến những
hậu quả xấu là làm hẹp lòng động mạch và làm giảm tính đàn hồi, mạch máu
bị xơ cứng nhất là đối với các tiểu động mạch cản trở máu đến các tổ chức,
ngoài ra lại làm tăng sức cản ngoại vi và càng làm tăng thêm huyết áp [2].
Áp lực tăng của dòng máu còn gây ra tổn thương cho lớp nội mạc thành
mạch, các tế bào dễ bị thương tổn hoặc làm giảm chức năng bảo vệ thành
mạch, dễ bị vữa xơ động mạch ở các động mạch lớn và vừa. Ở động mạch


14

chủ nếu có mảng vữa xơ bị loét, dòng máu có áp lực cao do bệnh nhân THA
có thể làm cho máu lọt vào giữa các lớp của thành mạch, tách dọc các lớp đó
ra và gây nên biến chứng phồng tách động mạch rất nguy hiểm đến tính mạng
bệnh nhân [9].
1.1.5.4. Suy thận
Các tổn thương thận xuất hiện chậm hơn và cũng kín đáo hơn, thường
chỉ bộc lộ ở giai đoạn cuối của bệnh. Ngay trong giai đoạn đầu người ta đã
thấy giảm cung lượng thận, nhưng độ lọc cầu thận vẫn giữ được do có cơ chế
bù trừ. Về lâu dài, khi tổn thương xơ các mạch thận phát triển, thận bị teo nhỏ

thì suy thận mới thấy rõ [9].
Một nghiên cứu ở Nhật Bản trên 100.00 nam và nữ cho thấy mối liên
quan giữa mức độ THA và nguy cơ phát triển bệnh thận mạn tính trong vòng
17 năm theo dõi. Cũng như vậy, nguy cơ bệnh thận mạn tính tăng lên ở những
bệnh nhân có huyết áp bình thường cao so với nhóm có huyết áp tối ưu
(<120/80 mmHg). Những bệnh nhân THA mà không thể kiểm soát được, cho
thấy sự suy giảm nhanh chóng chức năng thận. Kết quả phân tích nghiên cứu
tiến cứu MRFIT cũng cho thấy sự liên quan mật thiết giữa THA và bệnh thận
giai đoạn cuối, nhưng cho dù ở bất cứ mức độ nào của huyết áp thì nguy cơ
này cũng tăng 2 lần ở những người Mỹ gốc Phi so với người da trắng [44].
Theo khuyến cáo của Hiệp hội Thận học quốc tế, huyết áp mục tiêu ở
bệnh nhân có bệnh thận và đái tháo đường phải thấp hơn các trường hợp
huyết áp khác (130/80 mmHg so với 140/90 mmHg), vì người ta cho rằng
mối liên quan giữa huyết áp với các kết cục lâm sàng sẽ chặt chẽ hơn ở những
người có các bệnh này [44].
1.1.5.5. Tổn thương mắt
Tổn thương đáy mắt và bệnh lý võng mạc trong bệnh THA liên quan trực
tiếp với sự gia tăng HA. THA gây hẹp động mạch võng mạc lan tỏa nhưng


15

không đều, tiến triển gây xuất huyết và phù gai thị. Về chức năng thị lực
không phụ thuộc nhiều vào dạng tổn thương cũng như vị trí của nó: xuất
huyết và xuất tiết ở điểm vàng có thể dẫn đến sự giảm thị lực trầm trọng,
trong khi phù gai thị chỉ làm giảm thị lực, nhiều khi nó lan đến điểm vàng.
Đối với bệnh tăng huyết áp sự hiện diện của phù gai thị và xuất huyết hai bên
có tiên lượng xấu: Tỷ lệ sống đến 10 năm là dưới 50% ở người tăng huyết áp
đã điều trị tích cực giữa năm 1963 và 1983 [9].
1.3 Biến chứng đột quỵ não

1.3.1. Triệu chứng gợi ý đột quỵ
- Yếu hoặc tê mặt, tay hoặc chân, đặc biệt một bên cơ thể
Bệnh - Rối loạn ý thức
nhân - Có bất thường về lời nói hoặc sự hiểu biết
đột - Bất thường về nhìn ở một hoặc cả hai bên mắt
ngột - Mất thăng bằng, chóng mặt hoặc phối hợp động tác
- Đau đầu dữ dội mà không rõ căn nguyên
1.3.2. Biểu hiện lâm sàng

Biểu
hiện
lâm
sang

- Rối loạn ý thức, trí nhớ
- Co giật cục bộ
- Liệt, rối loạn cảm giác ½ cơ thể, mặt
- Hội chứng tiểu não, hội chứng tiền đình trung ương
- Rối loạn lời nói, rối loạn thị giác
- Liệt dây thần kinh sọ
- Hội chứng màng não


16

1.3.3. Hậu quả của đột quỵ
Tê liệt hoặc yếu: Thường là ở một bên cơ thể, bao gồm cả mặt và miệng.
Thị giác: Bệnh nhân có thể không tập trung nhìn được, có thể có
điểm mù hoặc có vấn đề với tầm nhìn ngoại vi.
Khó khăn trong giao tiếp: Mất ngôn ngữ là khái niệm được dùng để

Hậu
mô tả tập hợp sự thiếu hụt về giao tiếp, bao gồm gặp vấn đề khi nói,
quả
hiểu, đọc và viết.
của
Rối loạn cảm xúc: Biểu hiện không kiểm soát, không lý giải được
đột
của hành động khóc, tức giận hoặc cười mà có thể ít có liên hệ đến
quỵ
trạng thái cảm xúc hiện tại của bệnh nhân. Những biểu hiện này
thường đến và đi nhanh chóng và có thể giảm dần theo thời gian.
Trầm cảm: Lo âu (đặc biệt là về khả năng gặp một cơn đột quỵ khác)
và trầm cảm là những biểu hiện thường gặp sau đột quỵ.
1.3.4 Nguy cơ gây đột quỵ
1.3.4.1. Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được
* Tuổi
- Di truyền: Tiền sử gia đình có cùng huyết thống bị đột quỵ
- Chủng tộc / Dân tộc
- Giới tính
1.3.4.2. Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được
Yếu tố bệnh lý
Thói quen, lối sông
- Tăng huyết áp
- Hút thuốc lá
- Đái tháo đường
- Chế độ ăn nhiều muối
- Cholesterol máu cao
- Không hoặc ít hoạt động thể chất
- Đau ngực
- Thừa cân / béo phì và phân phối mỡ cơ thể

- Cơn thiếu máu não thoáng qua - Uống rượu, bia
(TIA)
- Stress
- Lo âu, căng thẳng
- Thường xuyên bị lạnh đột ngột
* Theo JNC VII:
Việc thay đổi lối sống là một cách phòng ngừa bệnh tăng huyết áp cũng
như biến chứng của bệnh [51].
- Giảm cân: Duy trì trọng lượng cơ thể bình thường (BMI: 18,5 - 24,9).


17

- Hạn chế uống rượu: Uống rượu không quá 2 ly nhỏ mỗi ngày tương
đương 30 ml ethanol, 720 ml bia, 300 ml rượu vang, hoặc 90 ml whisky mỗi
ngày. Với nữ giới và người nhẹ cân, liều lượng giảm chỉ còn một nửa.
- Hoạt động thể lực: Đi bộ nhanh ít nhất 30 phút mỗi ngày và hầu hết các
ngày trong tuần.
- Giảm lượng muối < 100 mmol mỗi ngày (2,4 g natri hoặc 6 g muối).
- Duy trì đủ lượng kali trong khẩu phần (khoảng 90 mmol mỗi ngày).
- Duy trì chế độ ăn uống đủ lượng canxi và magie cho sức khỏe nói chung.
- Ngừng hút thuốc và giảm lượng chất béo bão hòa và cholesterol trong
khẩu phần cho sức khỏe tim mạch tổng thể.
* Tại Việt Nam:
Theo hướng dẫn chẩn đoán, điều trị THA của Bộ Y tế áp dụng các biện
pháp tích cực thay đổi lối sống cho mọi bệnh nhân để ngăn ngừa tiến triển,
giảm được HA, giảm số thuốc cần dùng và giảm các biến chứng của bệnh
THA cho người bệnh [52]:
- Chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng:
+ Giảm ăn mặn (< 6 gam muối hay 1 thìa cà phê muối mỗi ngày).

+ Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi.
+ Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và axit béo no.
- Tích cực giảm cân (nếu quá cân), duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số
khối cơ thể (BMI: Từ 18,5 – 22,9 kg/m2).
- Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90 cm ở nam và dưới 80 cm ở nữ.
- Hạn chế uống rượu, bia: Số lượng ít hơn 3 cốc chuẩn/ngày (nam), ít
hơn 2 cốc chuẩn/ngày (nữ) và tổng cộng ít hơn 14 cốc chuẩn/tuần (nam), ít
hơn 9 cốc chuẩn/tuần (nữ). 1 cốc chuẩn chứa 10g ethanol tương đương với
330 ml bia hoặc 120 ml rượu vang, hoặc 30 ml rượu mạnh.
- Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào.


18

- Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: Tập thể dục, đi bộ hoặc
vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30 – 60 phút mỗi ngày.
- Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh, cần chú ý đến việc thư giãn, nghỉ
ngơi hợp lý.
- Tránh bị lạnh đột ngột.
1.4. Kiến thức, thực hành dự phòng đột quỵ não
1.4.1 Kiến thức dự phòng đột quỵ não
Theo Đại điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý kiến thức là: Điều
hiểu biết do tìm hiểu, học tập mà nên: kiến thức khoa học, kiến thức văn hóa,
kiến thức xã hội [49].
Kiến thức hay tri thức của mỗi người được tích lũy dần qua quá trình học
tập và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Mỗi người có thể thu được kiến
thức từ nhiều nguồn khác nhau như từ thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng
nghiệp, những người xung quanh, sách vở và các phương tiện thông tin đại
chúng cung cấp.
Kiến thức là một trong các yếu tố quan trọng giúp con người có các suy

nghĩ và tình cảm, thái độ đúng đắn, từ đó dẫn đến những hành vi hay thực
hành phù hợp trước mỗi sự việc hay tình huống cụ thể.
Mặc dù phát hiện sớm và điều trị đột quỵ là hiệu quả nhất nhưng kiến
thức về các yếu tố nguy cơ trong hành vi lối sống sẽ giúp phòng ngừa và giảm
bớt hậu quả của đột quỵ.
Một số nghiên cứu về kiến thức cơ bản chung về các yếu tố nguy cơ đột
quỵ còn thấp (Biederman, et al.2012): 39% người bệnh biết huyết áp cao là
yếu tố nguy cơ của đột quỵ, 52% nhận thức được bệnh tiểu đường và đột quỵ,
44% phản ứng với chế độ ăn uống kém, 44% không biết và 33% xác định
căng thẳng là yếu tố rủi ro. Tương tự, một nghiên cứu khảo sát năm 2010 của
cư dân người Mỹ gốc Phi ở Mississippi về kiến thức về yếu tố đột quỵ phát


19

hiện ra rằng nhiều người không biết các yếu tố lối sống như thiếu hoạt động
thể chất, uống quá nhiều rượu, tiểu đường, hút thuốc và cholesterol cao góp
phần vào nguy cơ đột quỵ (Sallar et al., 2010). Phát hiện trong 1 báo cáo
nghiên bởi Koenig, Whyte, O hèDonnell, Skidmore, Penrod, & 2007 và 15
năm trước bởi Kothari, Saubbeck et al. 1997 về kiến thức tối ưu về các yếu tố
nguy cơ đột quỵ cho thấy có đến 52% người bệnh không thể kể tên được một
yếu tố nguy cơ đột quỵ.
Một nghiên cứu khác ở châu Á vào năm 2005 của tác giả Pandian JD và
cộng sự tiến hành ở bang Punjab Ấn Độ cho thấy 21% trong số dân ở đây
không kể được một YTNC nào của ĐQN [56].
Ở Việt Nam, số lượng các nghiên cứu về hiểu biết bệnh ĐQN trong cộng
đồng còn rất ít. Nguyễn Văn Triệu đánh giá tình trạng hiểu biết của người dân
ở tỉnh Hải Dương về ĐQN cho thấy hiểu biết của người dân về các YTNC và
dự phòng ĐQN còn hạn chế, 11,5% người dân cho rằng ĐQN không thể dự
phòng được, 34,7% người dân không cho rằng béo phì dễ bị ĐQN [57].Theo

tác giả Bùi Đức Long, tại Hải Dương tình trạng bệnh THA và ĐQN phải vào
viện điều trị ngày càng tăng, nam nhiều hơn nữ, 55,8% nam và 44,2% nữ. Số
lượng bệnh nhân ĐQN nội trú nhiều hơn bệnh nhân THA trong cùng khoảng
thời gian [58]. Một nghiên cứu của Trần Văn Tuấn tại tỉnh Thái Nguyên năm
2000- 2003 cho thấy, tỷ lệ mắc ĐQN ở khu vực thành phố cao hơn ở khu vực
nông thôn, sự khác nhau ở 2 khu vực có ý nghĩa thống kê p < 0,05; ĐQN gặp
nhiều ở những người có trình độ văn hóa phổ thông trung học trở xuống. Tỷ
lệ tử vong tăng dần theo tuổi. Tuổi trung bình của bệnh nhân ĐQN tử vong là
67,96 ± 10,86, nhóm tuổi trên 60 có tỷ lệ tử vong cao nhất.Bệnh ĐQN xảy ra
ở bất kỳ giờ nào trong ngày, nhưng nhiều nhất là vào thời gian từ 4 giờ đến 12
giờ, và xảy ra nhiều nhất ở các tháng 2, 5, 11 trong năm [52].
1.4.2. Thực hành dự phòng đột quỵ não


20

Theo đại từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, thực hành là:
- Làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế: Lí thuyết đi đôi với thực hành.
Hay: Thi hành, thực hiện: Thực hành nghiêm túc các quy chế của cơ quan
[46].
- Thực hành là biến các kiến thức, hiểu biết thành các hành động cụ thể
để đạt được những mục đích nhất định. Trong cuộc sống các hoạt động thực
hành không thể thiếu được để đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống từ thấp đến
cao.
- Thực hành các biện pháp chăm sóc sức khỏe, phòng chống bệnh tật là
các thực hành thiết yếu để giúp cho mỗi người có sức khỏe và phòng, chống
được các bệnh tật.
- Hoạt động thực hành phòng chống bệnh tật rất đa dạng và phong phú.
Để có các thực hành phòng, chống bệnh tật đúng đắn trước tiên phải đạt được
các cơ sở kiến thức, hiểu biết về vấn đề sức khỏe bệnh tật và đạt được ở đối

tượng các thái độ quan tâm tích cực, đúng mức đến vấn đề sức khỏe, bệnh tật.
- Cụm từ “thực hành” trong đời sống thực tế về chăm sóc sức khỏe rất đa
dạng và phong phú, vì thế các cá nhân và cộng đồng cần được giáo dục và
hướng dẫn thực hành về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho cá nhân và cho cộng
đồng. Như vậy nhu cầu đào tạo thực hành đúng đắn về phòng bệnh, chữa
bệnh, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mỗi người, mỗi gia đình và cho cả
cộng đồng là rất cần thiết. Như vậy “thực hành” với nghĩa là làm cho mọi
người dân thực hành phòng, chống bệnh tật, chăm sóc nâng cao sức khỏe có ý
nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi cá nhân và của cộng đồng.
Có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy việc thay đổi các yếu tố rủi ro đối với
đột quỵ sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ đột quỵ tới 80% (Howard,Cushmann,
Kissela, Kleindorfer, McClure, & Saffoord, 2011 & Meschia và cộng sự,


21

2014), việc hành vi lối sống không được kiểm soát và chăm sóc sức khỏe
không hợp lý sẽ làm gia tăng tỉ lệ đột quỵ(Lackland et al., 2013).
Nghiên cứu của Siraj Ahmad và cộng sự tiến hành trên 354 bệnh nhân
THA tại Ấn Độ, cho thấy: 31,4% ĐTNC vẫn hút thuốc, 15,5% ĐTNC vẫn
uống rượu. Có tới 72,3% ĐTNC có kiến thức chưa đạt, 77,7% ĐTNC có thái
độ chưa đạt và 82,8% có thực hành chưa đạt về dự phòng biến chứng của
bệnh tăng huyết áp [57]. Nghiên cứu của Malik A và cộng sự tiến hành trên
209 bệnh nhân THA điều trị nội trú của một bệnh viện ở Samarkand,
Uzbekistan năm 2012 cho thấy: Có 44% bệnh nhân theo dõi HA tại nhà,
42,5% theo dõi cân nặng của mình và 81,8% đã giảm lượng mối ăn hàng
ngày, 82,8% ĐTNC hạn chế uống rượu, 80,9 % ĐTNC không hút thuốc [59].
Bùi Thị Thanh Hòa (2012) cho kết quả: 48,3% ĐTNC có kiến thức chưa
đạt về dự phòng biến chứng THA [62]. Nghiên cứu của Ngô Thị Hương Giang
(2013) cho thấy: Chỉ có 50,4% số ĐTNC điều trị THA là dùng thuốc kết hợp

với thay đổi lối sống, vẫn còn 49,6% Số ĐTNC vẫn thực hiện sai nguyên tắc
điều trị [63]. Trịnh Thị Hương Giang (2013) cho kết quả: 17,8% ĐTNC có kiến
thức chưa đạt về phòng biến chứng THA, có 21,1% ĐTNC vẫn sử dụng rượu,
bia; 42,9% ĐTNC không giảm lượng muối, nước mắm khi chế biến thức ăn;
64,7% thực hành không đạt để phòng biến chứng TBMMN [64].


22

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn
- Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp thuộc chương trình
quản lý ngoại trú - Khoa khám bệnh – Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa
năm 2019
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân THA đã có biến chứng tai biến mạch máu não
- BN đang nhiễm trùng nặng như viêm phổi, viêm não, màng não, ...
- Bệnh nhân đang mắc các bệnh cấp tính nội, ngoại khoa.
- BN có tiền sử rối loạn tâm thần.
- BN không hợp tác nghiên cứu.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại phòng khám bệnh ngoại trú - Khoa khám
bệnh – Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa
2.3. Thời gian nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 10/2019 đến hết tháng 7/2020.
Thời gian
Nội dung hoạt động
Tháng 01/2020 - Thu thập số liệu tại địa điểm nghiên cứu

đến tháng 4/2020
Tháng 4/2020 đến - Xử lí và làm sạch số liệu
tháng 5/2020
Từ tháng 5/2020 - Phân tích số liệu
đến tháng 6/2020 - Hoàn hiện đề tài
Tháng 7/2020
- Bảo vệ đề tài
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang

Ghi chú


23

2.4.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.4.2.1. Cỡ mẫu
- Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng 1 tỉ lệ
Công thức:
n = Z12−α / 2

p (1 − p )
d2

Trong đó:
- n: cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu
- α = 0.05 tương ứng với độ tin cậy là 95%.
- Hệ số giới hạn tin cậy


Z12−α / 2

- Độ chính xác mong muốn = 0.05
- p = 0.5, tỷ lệ người bệnh tăng huyết áp có kiến thức, thực hành dự
phòng đột quỵ.
+ Thay vào công thức trên ta được cỡ mẫu N = 384 đối tượng tham gia
nghiên cứu.
+ Dự phòng số đối tượng không tham gia nghiên cứu là 3%, ta được cỡ
mẫu là N = 400 đối tượng
2.4.2.2. Phương pháp chọn cỡ mẫu
- Chọn mẫu có chủ đích.
- Tất cả đối tượng đủ tiêu chuẩn đều được lựa chọn vào nghiên cứu
không phân biệt độ tuổi, giới tính.
- Tiến hành thu thập số liệu từ tháng 01/2020 - 4/2020. Hàng ngày
nghiên cứu viên và ĐTV ngồi tại phòng khám nội khoa của BVĐK tỉnh
Thanh Hóa từ thứ 2 đến thứ 6.


24

- Mỗi bệnh nhân đến xếp sổ khám bệnh THA sau khi khám bệnh trong
thời gian chờ kết quả xét nghiệm được hỏi ý kiến, mời tham gia vào nghiên
cứu cho đến khi đủ mẫu nghiên cứu.
- ĐTV phát phiếu điều tra cho người bệnh, quan sát cách người bệnh
điền bộ câu hỏi và không giải thích gì thêm.
2.4.3. Các biến số nghiên cứu
2.4.3.1. Biến số cơ bản về đối tượng nghiên cứu
- Đặc điểm cá nhân: tuổi, giới, dân tộc (kinh hoặc khác), tôn giáo
- Trình độ học vấn bao gồm các mức độ: Không đi học, phổ thông, trung
cấp/cao đẳng/dạy nghề, đại học/sau đại học.

- Nghề nghiệp: Nông nghiêp, lao động tự do, cán bộ/công chức/viên
chức, công nhân/nông dân, nghề khác (hưu trí, làm thuê, thủ công,…)
- Tình trạng hôn nhân: Độc thân / chưa lập gia đình, sống chung với
vợ/chồng, ly dị/ly thân, góa.
- Điều kiện kinh tế gia đình: Cận nghèo, hộ nghèo, trung bình, khá/giàu.
- Chiều cao, cân nặng của người bệnh, tính chỉ số BMI
- Chỉ số huyết áp đo lần gần đây nhất
- Một số tiền sử về bệnh, dùng thuốc của người bệnh và thói quen của
người bệnh trong lối sống hang ngày.
2.4.3.2. Biến số cho mục tiêu 1: Kiến thức, thực hành dự phòng đột quỵ của
người bệnh tăng huyết áp.
- Kiến thức dự phòng đột quỵ
+ Loại đột quỵ não phổ biến nhất.
+ Điều nào sẽ tăng gấp đôi nguy cơ đột quỵ
+ Nhóm tuổi nào có nguy cơ bị đột quỵ cao nhất
+ Các dấu hiệu cảnh báo về thời gian cơn thiếu máu não thoáng qua
(TIA) biến mất.


25

+ Dấu hiệu cảnh báo đột quỵ
+ Mục đích chính của điều trị và chăm sóc
+ Những thói quen lối sống có thể gây nguy cơ đột quỵ cao hơn
+ Nguy cơ đột quỵ khi đã bị một cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA)
+ Phương pháp điều trị nào dành cho những người bị đột quỵ
+ Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất được biết đến đối với đột quỵ
+ Hậu quả của đột quỵ
+ Cần làm gì để tránh nguy cơ đột quỵ
+ Thời điểm nên gọi xe cứu thương 115 khi phát hiện người có dấu hiệu

đột quỵ
- Thực hành dự phòng đột quỵ:
+ Kiểm soát huyết áp và tuân thủ chế độ điều trị
+ Thực hành thay đổi hành vi lối sống dự phòng đột quỵ
2.4.3.3. Biến số cho mục tiêu 2: Một số yếu tố liên quan dự phòng biến chứng
ĐQN trên người bệnh tăng huyết áp
* Mối liên quan giữa các yếu tố với kiến thức dự phòng đột quỵ
- Mối liên quan giữa một số đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, dân tộc với
kiến thức về bệnh ĐQN
- Mối liên quan giữa nghề nghiệp với kiến thức dự phòng đột quỵ
- Mối liên quan giữa trình độ học vấn với kiến thức dự phòng đột quỵ
- Mối liên quan giữa tình trạng kinh tế với kiến thức dự phòng đột quỵ
- Mối liên quan giữa tiền sử bệnh lý, tiền sử dùng thuốc của người bệnh
với kiến thức dự phòng đột quỵ
* Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành dự phòng đột quỵ
- Mối liên quan giữa nghề nghiệp với việc kiểm sóat huyết áp và thay đổi
hành vi lối sống dự phòng đột quỵ


×