Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Kiến thức và thực hành cssk trước trong sau sinh của các bà mẹ tại 3 xã Hợp Thành Phủ Lý Ôn Lương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.66 KB, 18 trang )

Kiến thức và thực hành cssk trước trong sau sinh của các bà mẹ tại 3 xã Hợp Thành Phủ Lý
Ôn Lương :
Thai nghén đối với người phụ nữ là một hiện tượng sinh lý mang nhiều tính
chất đặc biệt rất dễ chuyển thành bệnh lý, vì thế người phụ nữ khi mang thai cần
được ngành y tế chăm sóc theo dõi sát hơn các đối tượng khác. Một trong những
công việc có ý nghĩa nhất của chăm sóc thai sản là đi khám thai trong thời kỳ có
thai vì nếu khám thai đầy đủ sẽ giảm được bệnh tật và tử vong cho cả mẹ và con.
Theo Chuẩn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc SKSS ban hành năm 2002 của Bộ
Y Tế trong quá trình mang thai mỗi thai phụ phải được khám thai ít nhất 3 lần để
đánh giá tình trạng của bà mẹ và của thai, lần thứ nhất trong 3 tháng đầu, lần thứ 2
trong 3 tháng giữa, lần 3 trong 3 tháng cuối.
- Kết quả điều tra tỷ lệ đi khám thai trong thời kỳ mang thai của các bà mẹ
có con dưới 1 tuổi được thể hiện ở biểu đồ 1 là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
thực hành chăm sóc thai sản tại 3 xã. Với tỷ lệ 100% bà mẹ có đi khám thai và
81% khám thai trên 3 lần đã cho thấy hầu hết các đối tượng phụ nữ có thai trên địa
bàn đã quan tâm đến việc chăm sóc sức khoẻ khi mang thai và thực hiện khá tốt
Chuẩn quốc gia về CSSK sinh sản.
Đối với các xã miền núi đa phần người dân là nghèo ( theo số liệu bảng 3.8:
1/5 số bà mẹ sống trong gia đình xềp loại kinh tế nghèo, 67,7% có điều kiện kinh
tế trung bình) thì đây là con số hết sức đáng khích lệ vì theo Chiến lược quốc gia
về chăm sóc SKSS giai đoạn 2001- 2010 chỉ tiêu cần đạt được là 90% tỷ lệ phụ nữ
có thai được khám thai trước khi sinh và 60% số phụ nữ đang mang thai được thăm
khám trên 3 lần [2].
Thảo luận nhóm cho thấy nguyên nhân của kết quả trên đây là do hầu hết
các chị em đều nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc khám thai
đối với sức khoẻ của người mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, con số 17,1% bà mẹ không
khám thai đủ số lần theo quy định vẫn là điểm tồn tại cần tác động trong thời gian
tới. Đặc biệt trong các lý do không khám thai đủ số lần, lý do chính là bà mẹ thấy
người khoẻ nên không đi khám. Như vậy vẫn còn những bà mẹ chưa nhận thức
được ý nghĩa của việc khám thai đầy đủ. Vì vậy việc tuyên truyền cho các bà mẹ
cần được đẩy mạnh để mọi phụ nữ có thai đều đi khám thai đầy đủ.


Về nơi khám thai, kết quả ở bảng 2 cho thấy hầu hết các bà mẹ chọn khám
thai tại các cơ sở y tế nhà nước ( 96,2% ). Điều tra của tác giả Trần Việt Anh về
tình hình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em tại huyện Đông Anh-Hà Nội năm 2000,
cũng cho kết quả tương tự: 97,8% thai phụ khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước.
Điều này cho thấy xu hướng chung tại các vùng nông thôn, phụ nữ khi mang thai
thường khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước. Nghiên cứu cho thấy tại ba xã miền
núi có nhiều dân tộc khác nhau như Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương nhưng rõ ràng
tỷ lệ thai phụ đi khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước không hề thua kém một địa
phương ở ngay sát thủ đô Hà Nội.
Trong thảo luận nhóm, khi được hỏi về sự lựa chọn nơi khám thai, các bà
mẹ cho biết họ rất tin tưởng vào công tác khám chữa bệnh của trạm y tế xã, đã
quen với việc đi khám tại trạm y tế mỗi khi bị ốm vì vậy khi có thai cũng khám tại
đây. Mỗi tháng ở các trạm có một ngày riêng để khám thai. Theo các bà mẹ thì
đi khám thai tại trạm rất dễ dàng, nhân viên y tế cũng là người quen, cùng
làng xã nên nhiệt tình. Thêm vào đó, tại ba xã hầu như không có phòng khám tư
nào. Ngoài ra chỉ có một trường hợp khám thai tại bệnh viện huyện. Đây là gia
đình xếp loại giàu nhất làng nên muốn đi khám thai tại bệnh viện huyện cho tốt.
Như vậy trạm y tế xã đã tạo được niềm tin đối với người dân, trong đó có các
bà mẹ mang thai.
Nghiên cứu cho thấy kiến thức và thực hành của các bà mẹ về việc đi khám
thai là một ưu điểm nổi bật của địa phương. Những thành công này cần được phát
triển và củng cố bền vững nhưng cũng chỉ ra nhu cầu đầu tư cho các trạm y tế xã
cả về nhân lực cũng như trang thiết bị để đảm bảo và nâng cao chất lượng công tác
khám thai tại địa phương.
- Tiêm phòng uốn ván đảm bảo cho bà mẹ không bị uốn ván sau đẻ và đảm
bảo cho con không bị uốn ván sơ sịnh. Vì thế đây là một nội dung quan trọng của
công tác chăm sóc thai sản. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bà mẹ được tiêm phòng uốn
ván khi mang thai là 94,3% (biểu đồ 3.3), cao hơn so với 91% bà mẹ được tiêm
phòng uốn ván theo thống kê toàn quốc năm 2003 [4]. Tuy nhiên số được tiêm đủ
hai mũi là chỉ là 82.9% và vẫn còn 4,7% bà mẹ không tiêm phòng uốn ván trong

suốt thời kỳ thai nghén. Như vậy việc tiêm phòng uốn ván của các bà mẹ mang thai
đã được thực hiện chưa đầy đủ. Việc tiêm phòng uốn ván được thực hiện khi bà
mẹ đi khám thai. Những trường hợp không tiêm phòng đủ số lần đều do bà mẹ
không đi khám thai không đủ số lần (số liệu về việc khám thai đã cho biết 17,1%
bà mẹ không khám thai đủ 3 lần) do đó cần tích cực tuyên truyền giáo dục để
người phụ nữ đi khám thai và tiêm phòng uốn ván đầy đủ hơn.
- Về việc uống bổ xung viên sắt, tại ba xã có 11/105 bà mẹ không biết, hay
vì một lí do nào đó không được uống viên sắt (chiếm 10,5%, biểu đồ 3.4). Những
bà mẹ này có nguy cơ rất cao dẫn tới thiếu máu, thiếu sắt trong thời kỳ thai nghén
và trẻ sơ sinh của các bà mẹ này cũng có nguy cơ cao thiếu sắt. Sự thiếu hụt yếu tố
vi lượng này có thể gây nhiều rối loạn dẫn tới nhiều bệnh lý khác nhau như thiếu
máu, giảm khả năng đề kháng, dễ bị nhiễm khuẩn, dễ bị chảy máu sau đẻ, thai suy
dinh dưỡng, chậm phát triển.
Điều đáng lưu ý hơn nữa là trong số 94 bà mẹ ( chiếm 88% ) có uống viên
sắt thì có tới 35 bà mẹ ( chiếm55% ) uống không đầy đủ, uống dưới 90 ngày. Số
người này nhớ thì uống không nhớ thì thôi, uống vài ngày cách quãng rồi bỏ. Nếu
so sánh với Chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản thì rõ ràng
thực hành uống bổ sung viên sắt của các bà mẹ khi có thai chưa đạt [3]. Qua thảo
luận nhóm cho thấy các bà mẹ chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc uống bổ
xung viên sắt, dẫn tới việc họ không chú ý quan tâm và thực hiện không tốt. Vì vậy
việc tuyên truyền nâng cao trách nhiệm cho các bà mẹ và nhắc nhở họ là biện pháp
khắc phục tồn tại này.
- Vấn đề uống vitamin A sau đẻ của các bà mẹ cũng đáng báo động. Có gần
2/3 số bà mẹ được hỏi là không biết, hay không được uống vitamin A (biểu đồ 3.5).
Điều này do nhiều nguyên nhân như do số bà mẹ được thăm khám sau đẻ rất ít,
trạm y tế không đủ thuốc hoặc do hiểu biết của các bà mẹ chưa cao. Theo chúng tôi
số lượng bà mẹ được uống cả viên sắt và vitamin A còn thấp hơn nữa. Kết quả của
chúng tôi cũng tương tự với kết quả của Trần Hùng Minh trong nghiên cứu tại
Quảng Xương : 76,3% bà mẹ có sử dụng vitamin A sau khi sinh [13]. Như vậy
hướng dẫn bà mẹ uống vitamin A còn là một nội dung chưa được phổ biến nhiều

trong các chương trình CSSK bà mẹ- trẻ sơ sinh.
- Nghiên cứu định tính qua thảo luận nhóm cho thấy hầu hết các bà mẹ uống
viên sắt và vitamin A theo chỉ dẫn của nhân viên y tế ở trạm. Họ biết làm thế thì tốt
cho sức khoẻ nhưng không nêu được ý nghĩa của những loại thuốc này. Thực trạng
này phản ánh một điều rằng bản thân các bà mẹ chưa nhận thức được tầm quan
trọng của việc uống viên sắt và vitamin A, chưa nhận thấy việc bỏ qua, không uống
các chất bổ sung sẽ có thể đưa đến nhiều hậu quả cho thai nhi lúc ra đời cũng như
ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất của trẻ sau này. Cán bộ y tế ở địa phương cần
quan tâm hơn về vấn đề này, tăng cường giáo dục vận động việc uống viên sắt và
Vitamin A cho các bà mẹ có thai, kết hợp với hướng dẫn và cung cấp các loại thuốc
này bằng những hình thức phù hợp điều kiện sống của các bà mẹ, đảm bảo việc
uống viên sắt đầy đủ ở 100% phụ nữ có thai .
- Chế độ ăn nghỉ của bà mẹ trong thời gian mang thai và sau sinh là một vấn
đề khá rộng. Trong khuôn khổ của nghiên cứu, chúng tôi chỉ xin bàn về hai vấn đề
là chế độ làm việc, nghỉ ngơi và chế độ ăn của các bà mẹ. Để có được nhiều thông
tin đa dạng về vấn đề này chúng tôi đã sử dụng hình thức thảo luận nhóm tập
chung . Đây là một kỹ thuật nghiên cứu định tính phù hợp cho việc tìm hiểu về
niềm tin, thái độ, hành vi trong quần thể, lại gần gũi với các hình thức sinh hoạt tại
cộng đồng, giúp các bà mẹ thoải mái, tự tin đưa ra ý kiến của mình. Tuy nhiên có
phần hạn chế do kỹ thuật này không cho phép đưa ra tần số phân bổ của các niềm
tin và các hành vi trong cộng đồng. Thảo luận nhóm đă cho thấy các bà mẹ đã có
kiến thức về chế độ ăn uống bồi dưõng khi có thai và sau khi sinh nở nhưng do
điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên thực tế họ không được hưởng những chế
độ ưu tiên mà lẽ ra họ phải được nhận. Những tập tục ăn kiêng ít được áp dụng.
Các bà mẹ có kiến thức về việc nghỉ lao động nặng trước và sau khi sinh nhưng do
điều kiện gia đình, do đặc thù của lao động nông nghiệp là theo mùa vụ nên thời
gian nghỉ của chị em còn ít. Nhưng vẫn còn có quan niệm sai lầm như cho rằng
làm càng nhiều thì đẻ càng dễ. Thực trạng trên đây không chỉ phụ thuộc vào sự tác
động của hệ thống y tế mà lại phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện kinh tế, tuổi tác,
số con của bà mẹ và đặc biệt là những phong tục tập quán của địa phương. Vì vậy

muốn cải thiện chế độ ăn nghỉ cho bà mẹ không chỉ dựa vào sự tuyên truyền giáo
dục của y tế mà cần sự tác động của toàn cộng đồng. Về phía y tế, trạm y tế các xã,
mà cụ thể là nhân viên của trạm, đội ngũ y tế thôn bản cần cung cấp những kiến
thức, thông tin về chế độ ăn uống, bồi dưỡng, nghỉ ngơi của bà mẹ và trẻ nhỏ,
tuyên truyền giáo dục không chỉ các bà mẹ mà cả những người thân trong gia đình
để họ tạo điều kiện cho người phụ nữ khi mang thai và sinh đẻ được nghỉ ngơi
nhiều hơn .
- Trong chuẩn bị của bà mẹ cho sinh nở, nghiên cứu cho thấy các bà mẹ
quan tâm nhiều về quần áo ( 99,0% bà mẹ), tiền (81,9% bà mẹ) và thực phẩm
(61,9% bà mẹ) (bảng 3.4) vì đây là những thứ cần thiết nhất và sự chuẩn bị này
cũng phù hợp với phong tục địa phương. Đối với việc chuẩn bị nơi sinh có quá nửa
số bà mẹ không chuẩn bị vì họ cho rằng cứ khi nào chuyển dạ thì đến trạm y tế.
Đây là điều bất cập vì như thế nếu trạm y tế không có đủ điều kiện để xử trí
những ca đẻ khó thì sẽ rất chậm trễ trong việc cấp cứu sản phụ.
Về dự kiến thời gian đẻ, vẫn còn một nửa số bà mẹ chưa tính thời gian sinh
theo tuần. Công việc này tuy rất đơn giản nhưng giúp bà mẹ có dự tính phù hợp
cho việc sinh nở, phát hiện nguy cơ thai già tháng.
Những phân tích trên cho thấy những người phụ nữ đã biết sự cần thiết phải
chuẩn bị trước sinh nhưng chưa thật đầy đủ. Điều này một phần do điều kiện kinh
tế, trình độ văn hoá của người mẹ, mặt khác cũng phụ thuộc vào khả năng tuyên
truyền và quản lý thai nghén của dịch vụ y tế tại địa phương. Thực tế, hơn một nửa
số phụ nữ được hỏi không tham dự những buổi nói chuyện về CSSK khi có thai, có
thể chính vì vậy họ vẫn chưa nhận thấy vai trò quan trọng của việc chuẩn bị cho trẻ
ra đời.
Vì vậy cần tiếp tục tuyên truyền hướng dẫn sản phụ về công tác chuẩn bị
trước khi sinh nở. Việc chuẩn bị chu đáo này không những thể hiện sự quan tâm
đến sức khoẻ của chính mình, đến đứa con sắp ra đời mà còn giúp cán bộ y tế có
sự dự phòng để sẵn sàng giải quyết khi biến cố xảy ra.
- Chăm sóc bà mẹ lúc sinh đẻ là rất quan trọng vì đây là giai đoạn có nhiều
nguy cơ đối với tính mạng cả mẹ và con. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết

các bà mẹ sinh con tại trạm y tế (88,5%). Khi thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết
lý do đẻ tại trạm y tế là vì đa số khám thai tại đây, khoảng cách từ nhà đến trạm
gần hơn so với đến bệnh viện huyện, chi phí phải chăng, đảm bảo an toàn, chưa
thấy trường hợp nào xảy ra tai biến. Như vậy, phần lớn các bà mẹ đã có sự lựa
chọn an toàn và hợp lý cho việc sinh đẻ.
Tuy nhiên một điều đáng quan tâm là nghiên cứu cho thấy vẫn còn 11,5% bà
mẹ đẻ tại nhà. Vào cuối những năm 90, việc sinh đẻ tại nhà vẫn còn khá phổ biến ở
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện
CSSKBĐ ở Việt Nam năm 1999 cho biết vẫn còn 23% bà mẹ sinh con tại nhà [5].
Nghiên cứu của tác giả Trần Hùng Minh về chăm sóc SKSS tại Quảng Xương –
Thanh Hoá năm 2000 cũng ghi nhận tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà rất cao: 21,6%,
trong khi tỷ lệ khám thai ở đây cũng đạt tới trên 95% [13]. Như vậy mặc dù bà mẹ
có nhận thức và thực hành tốt về việc đi khám khi mang thai nhưng điều này vẫn
chưa đảm bảo họ sẽ sinh con tại trạm y tế xã. Tỷ lệ này là cao gấp đôi khi so sánh
với số liệu của một số nghiên cứu tại khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng như
tại Kim Bảng năm 1998, chỉ có 5,2% bà mẹ sinh con tại nhà [19], tại Đông Anh –
Hà Nội năm 2000, tỷ lệ này chỉ là 5,5% [1].
Trong số các trường hợp đẻ tại nhà, bảng 3.5 cho thấy phần lớn các bà mẹ
cho biết là do đẻ rơi, không kịp đến các cơ sở y tế, những trường hợp này đều được
sự chăm sóc của nhân viên trạm y tế xã hoặc y tế thôn bản. Do còn đến 50% bà mẹ
không tính thời gian dự kiến đẻ theo tuần và không chuẩn bị sẵn nơi đẻ nên số
trường hợp đẻ không kịp đến trạm là điều dễ hiểu. Vì vậy, trong thời gian tới cần
tiếp tục tuyên truyền hướng dẫn cho các bà mẹ có sự chuẩn bị tốt hơn cho cuộc đẻ.
Bên cạnh đó do điều kiện địa hình đồi núi, đường sá xa xôi và không thuận tiện
cho đi lại nên rất dễ xẩy ra trường hợp bà mẹ chuyển dạ mà không đưa được tới
trạm y tế xã, nhất là những ca chuyển dạ trong đêm, khi mưa lũ.
Có 25% trường hợp đẻ ở nhà do bà mẹ cho rằng ở nhà đủ điều kiện cho
cuộc đẻ và mời người đỡ đẻ về nhà đều là những trường hợp đẻ lần thứ 2-3 chứ
không phải con đầu lòng. Như vậy vẫn có những bà mẹ chưa nhận thức được sự
nguy hiểm khi sinh con tại nhà. Cá biệt có 1 trường hợp do điều kiện kinh tế khó

khăn nên mẹ chồng đỡ đẻ cho con dâu, mặc dù chi phí cho một lần đẻ tại trạm y tế
không nhiều, khoảng 100 nghìn đồng.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rõ mối liên quan giữa tai biến sản khoa và
việc sinh đẻ tại nhà, thiếu sự hỗ trợ chuyên môn của cán bộ y tế. Vì vậy các
chương trình chăm sóc sức khoẻ trong thời gian tới cần giải quyết triệt để tồn tại
này. Một mặt cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục cho các bà mẹ khi mang thai có

×