Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.89 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NÔNG THỊ BÍCH PHƢỢNG

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2018

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NÔNG THỊ BÍCH PHƢỢNG

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trƣơng Quang Vinh



Hà nội – 2018
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do chính tôi
thực hiện, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất
kỳ đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có
chú thích rõ ràng, minh bạch. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực
của luận văn tốt nghiệp này. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ luận văn.

Ngƣời cam đoan

Nông Thị Bích Phƣợng

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………

7

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH

SỰ………………………………………………………………………

13

1.1 - Sự cần thiết của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam ……………….

13

1.1.1 Về mặt lý luận………………………………………………………

13

1.1.2 Về mặt thực tiễn……………………………………………………..

19

1.2 - Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt đối với pháp nhân thương
mại phạm tội …………………………………………………………… 21
1.3 - Khái niệm, điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại phạm tội…………………………………………………… 30
1.3.1 Khái niệm pháp nhân thương mại phạm tội…………………………. 30
1.3.2 Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại…….

36

1.3.3 Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại………. 41
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI PHẠM TỘI…. 45
2.1 Hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội……………..


45

2.1.1 Phạt tiền………………………………………………………………

45

2.1.2 Đình chỉ hoạt động có thời hạn………………………………………

52

2.1.3 Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn………………………………………..

54

2.2 Hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội…………… 57

4


2.2.1 Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định……. 58
2.2.2 Cấm huy động vốn…………………………………………………… 61
2.2.3 Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính…………………..

67

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
PHẠM TỘI………………………………………………………………… 71
3.1 Yêu cầu áp dụng đúng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

trong pháp luật hình sự Việt Nam………………………………………….. 71
3.1.1 Yêu cầu tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong áp dụng hình phạt đối với
pháp nhân thương mại phạm tội……………………………..………….

71

3.1.2 Yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp…………………………………….

75

3.1.3 Yêu cầu hội nhập quốc tế…………………………………………….. 78
3.2 Một số giải pháp áp dụng đúng hình phạt đối với pháp nhân thương mại
phạm tội ở Việt Nam………………………………………………………… 80
3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt đối với
pháp nhân thương mại phạm tội……………………………………………. 80
3.2.2 Tăng cường tổng kết công tác xét xử và hướng dẫn áp dụng hình phạt đối
với pháp nhân thương mại phạm tội………………………………………..

85

3.2.3 Nâng cao trình độ chuyên môn của thẩm phán và hội thẩm………..

86

3.2.4 Một số giải pháp khác………………………………………………… 88
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………. 93
PHỤ LỤC…………………………………………………………………… 98

5



DANH MỰC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLDS:

Bộ luật Dân sự

NXB:

Nhà xuất bản

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được thì cũng phải kể tới một bộ phận dưới danh nghĩa pháp nhân đã
vì lợi nhuận mà vi phạm những quy định của pháp luật làm ảnh hưởng không
nhỏ tới nền kinh tế của đất nước, tới tính mạng, sức khỏe của con người, làm

ô nhiễm môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Song trước khi BLHS 2015 ra
đời, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về trách nhiệm hình sự đối với
những pháp nhân thương mại phạm tội nên việc xử lý pháp nhân thương mại
khi phạm tội chỉ dừng ở mức xử lý về mặt dân sự, hành chính, kinh tế. So với
những thiệt hại mà pháp nhân thương mại phạm tội gây ra, mức xử phạt hành
chính này là chưa thỏa đáng, chưa có sự răn đe, ngăn ngừa và bảo vệ.
BLHS Việt Nam năm 2015 đã có quy định về pháp nhân thương mại
phạm tội và dành một chương để quy định về trách nhiệm hình sự. Đây là
một sự đổi mới, đột phá trong pháp luật hình sự Việt Nam mặc dù trên thế
giới đã có rất nhiều nước có quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân thương
mại phạm tội như Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo, Thái
Lan, Indonexia, Campuchia,...[22]
BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ
1/1/2018, tại thời điểm hiện tại chưa có vụ án nào ở Việt Nam do pháp nhân
thương mại phạm tội được khởi tố và xử lý; tuy nhiên thực tế ở Việt Nam
vẫn đang tồn tại rất nhiều pháp nhân thương mại vì lợi ích kinh tế bản thân
mà vi phạm các quy định của pháp luật cần được xử lý nghiêm khắc để răn
đe, phòng ngừa. Những nghiên cứu pháp luật về pháp nhân thương mại phạm
tội ở Việt Nam hiện tại còn nhỏ lẻ. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả lựa

7


chọn đề tài: "Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong Luật
hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay một số tác giả đã có những bài viết nghiên cứu về vấn đề pháp
nhân thương mại phạm tội nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở tính cấp thiết trong
việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội,

vấn đề lỗi, những loại tội phạm mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự
hay liệt kê trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Do BLHS 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 mới có hiệu lực thi hành, tại thời điểm viết luận văn chưa có
vụ án nào khởi tố và xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội
nên việc nghiên cứu những vấn đề về pháp nhân thương mại còn rất mới mẻ ở
Việt Nam, chỉ dừng ở lý thuyết và có sự tham khảo từ luật pháp nước ngoài.
Một số bài viết về vấn đề pháp nhân thương mại phạm tội:
+ Võ Văn Trung - Tòa án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 9: "Trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật hình sự năm
2015";
+ Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh - Khoa thẩm phán: "Trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại theo Bộ luật hình sự năm 2015";
+ Hoàng Đức Cường - Viện kiểm sát quân sự Khu vực 43: "Pháp nhân
thương mại trong pháp luật Việt Nam và một số khuyến nghị";
+ Tác giả Hoàng Long với bài viết "Truy cứu trách nhiệm hình sự của
pháp nhân: Vấn đề mới tại Việt Nam, không mới với thế giới" trên báo Công
lý;
+ Đinh Văn Quế: “Hình phạt, quyết định hình phạt đối với pháp nhân
thương mại phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015” trên Tạp chí Kiểm sát;

8


+ PGS.TS Trịnh Quốc Toản có bài viết: "Vấn đề trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay"; Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, tập 29, số 01 (2013).
+ Dương Phúc Trường, Trần Mạnh Phú có bài viết: “ Bàn về hình phạt đối
với pháp nhân thương mại phạm tội” đăng trên báo điện tử Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Nông.
+ Ngoài ra còn nhiều tài liệu tham khảo khác có trong “Danh mục các tài

liệu tham khảo” được thể hiện trong luận văn.
Những bài viết trên là cơ sở dữ liệu cho tác giả thực hiện luận văn tốt
nghiệp cao học của mình. Luận văn sẽ làm sáng tỏ hơn quy định về hình phạt
đối với pháp nhân thương mại phạm tội trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội ở Việt Nam, để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật, nâng cao khả năng thực thi pháp luật và các giải pháp phòng ngừa, giúp
nâng cao chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với pháp
nhân thương mại phạm tội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn nêu sự cần thiết của việc quy định hình
phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong luật hình sự Việt Nam.
Luận văn cũng nêu khái quát về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương
mại phạm tội theo quy định của BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Từ
đó tác giả luận văn đưa ra một số khó khăn, vướng mắc có thể gặp phải khi áp
dụng hình phạt và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối
với pháp nhân phạm tội ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Lần đầu tiên, trong BLHS Việt Nam quy định pháp
nhân thương mại phạm tội được coi là tội phạm (điều 8) và phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định (điều 74). Bởi vậy, quá trình nghiên cứu tìm hiểu
9


về pháp nhân thương mại phạm tội cần tập trung làm sáng rõ những vấn đề
sau:
- Thứ nhất, luận văn khẳng định tính cấp thiết của việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam. Khái
niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm
tội. Điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương
mại phạm tội.

- Thứ hai, luận văn nghiên cứu chế định hình phạt đối với pháp nhân
thương mại phạm tội bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
- Thứ ba, luận văn đề ra một số khó khăn, vướng mắc có thể gặp phải
khi áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội để từ đó đề
xuất phương hướng, một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt
đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại Việt Nam trong giai đoạn tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu các quan điểm khoa học về
chế định hình phạt đối với pháp nhân phạm tội, nghiên cứu quy định pháp luật
hình sự Việt Nam về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu về hình phạt đối với
pháp nhân thương mại theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Luận
văn tập trung làm rõ khái niệm khoa học về các khái niệm pháp nhân, pháp
nhân thương mại, khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt áp dụng đối
với pháp nhân thương mại phạm tội, điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình
sự của pháp nhân thương mại phạm tội. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

10


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận
nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách hình sự, quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước về đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Bên cạnh đó, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp phân tích, phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn góp phần hệ thống vấn đề lý luận về trách nhiệm
hình sự và hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong
luật hình sự Việt Nam.
- Về thực tiễn: Luận văn góp phần giải thích pháp luật, phân tích chế định
hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong tình hình thực tế tại
Việt Nam, từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với pháp nhân
thương mại phạm tội. Luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt thực tiễn và tham
khảo chuyên môn trong nghiên cứu và thực hiện pháp luật hình sự.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có kết cấu bởi 3 chương:

11


Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt đối với pháp nhân thương
mại phạm tội trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với
pháp nhân thương mại phạm tội.
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình
phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

12


CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN

THƢƠNG MẠI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ

1.1 Sự cần thiết của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thƣơng mại phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
1.1.1 Về mặt lý luận
Chế định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân xuất hiện từ thời La Mã
cổ đại đã gây nhiều tranh luận trong giới khoa học hình sự, chủ yếu với hai quan
điểm: ủng hộ và không ủng hộ trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Những nhà khoa học pháp lý ủng hộ việc thừa nhận trách nhiệm hình sự
của pháp nhân đã đưa ra các lý do như sau:
Thứ nhất, Pháp nhân không phải con người, không có chân tay để thực
hiện hành vi, không có ý chí để xác định lỗi. Tuy nhiên, pháp nhân lại có liên
quan đến con người, nhân viên, cá nhân hoạt động trong một tập thể. Ý chí của
pháp nhân cũng là ý chí chung của các thành viên được hội đồng thông qua và
nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi khách quan, vì vậy phải có lỗi. Nếu
chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân sẽ không đảm bảo sự công
bằng, do quyết định của pháp nhân là sự thống nhất ý kiến của một tập thể,
không tránh khỏi có trường hợp các hành vi liên tiếp của pháp nhân không vi
phạm quy định nhưng khi sâu chuỗi lại tạo ra những vi phạm nghiêm trọng,
trong trường hợp này việc xác định lỗi của cá nhân là rất khó khăn. Cần coi pháp
nhân là một chủ thể đặc biệt của tội phạm, vì vậy việc thừa nhận trách nhiệm
hình sự của pháp nhân sẽ tránh nguy cơ bỏ lọt tội phạm.

13


Ở Hoa Kỳ, Theo cuốn Từ điển pháp luật Hoa Kỳ, pháp nhân được định
nghĩa như sau: Pháp nhân là một thực thể, nó khác hơn một tự nhiên nhân, mà
có đời sống đầy đủ trong sự dự liệu pháp lý, nó có thể thực hiện chức năng một
cách hợp pháp, có thể bị kiện hoặc thưa kiện và có thể quyết định thông qua đại

diện, pháp nhân có thể làm một số việc giống như con người và có cả trách
nhiệm lẫn quyền lợi. [25]
Thứ hai, việc quy định trách nhiệm hình sự không chỉ nhằm mục đích
trừng trị mà nó còn có ý nghĩa giáo dục, răn đe, cải tạo. Pháp nhân không phải
con người nên việc quy định hình phạt đối với pháp nhân không thể giống cá
nhân, không có hình phạt tù có thời hạn. Các hình phạt đối với pháp nhân nhằm
mục đích khắc phục hậu quả do pháp nhân gây ra hoặc ngăn chặn những hậu
quả có thể tiếp tục xảy ra nếu pháp nhân đó tiếp tục hoạt động.
Thứ ba, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không loại
trừ trách nhiệm hình sự đối với cá nhân. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt tức là
buộc thành viên tự chịu trách nhiệm khi đưa ra quyết định của mình [54]. Khi
pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm, trách nhiệm đó thuộc về ai tùy thuộc vào
mức độ lỗi. Việc tách rời trách nhiệm hình sự của pháp nhân với trách nhiệm
hình sự của cá nhân sẽ đảm bảo sự công bằng, tránh lợi dụng pháp nhân để thực
hiện các hành vi trái pháp luật mang lại lợi ích cho riêng một cá nhân. Giả sử
một cá nhân trong hội đồng quản trị lợi dụng chức vụ và quyền hạn đã đưa ra
những mệnh lệnh sai trái dẫn đến thiệt hại thì có thể cả pháp nhân và cá nhân đó
đều phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi đó được nhân danh pháp nhân.
Bên cạnh đó, những nhà khoa học pháp lý không ủng hộ việc thừa nhận
trách nhiệm hình sự của pháp nhân lại đưa ra các lý do như sau:
Thứ nhất, pháp nhân không phải một thực thể, không có tư duy, không có
chân tay để hoạt động. Hành vi của pháp nhân là thông qua con người - người

14


chỉ đạo điều hành, người thực hiện hành vi, vì vậy pháp nhân không tự có lỗi.
Pháp nhân không phải là một chủ thể của tội phạm, không thể thực hiện tội
phạm nên không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Thứ hai, không thể áp dụng hình phạt đối với pháp nhân như đối với con

người. Pháp nhân không có thực thể, không thể có hình phạt tử hình, tù giam
hay cải tạo. Bởi lẽ mục đích của việc áp dụng hình phạt là trừng trị, răn đe và
giáo dục. Nếu hình phạt không thể áp dụng thì không cần thiết quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Thứ ba, theo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, việc trừng trị pháp nhân
theo pháp luật hình sự không đảm bảo mục đích của hình phạt là ngăn ngừa,
trừng trị, giáo dục và răn đe, cải tạo.
Cho đến nay, trên thế giới hiện nay có khoảng 120 nước có quy định về
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Nhiều nước quy định trách nhiệm hình
sự về pháp nhân từ rất sớm như Anh, Pháp, Canada, Hà Lan và nhiều nước
khác.[1]
Ở Anh vào giữa thế kỷ XIX, các Tòa án Anh đã thiết lập trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân. Thời kỳ này, các tội phạm mà pháp nhân phải gánh chịu
trách nhiệm thường là các trường hợp pháp nhân không thực hiện nghĩa vụ pháp
lý. Sau đó là sự xuất hiện của các vụ án gây thiệt hại về cộng đồng do pháp nhân
thực hiện. Chính vì thế trách nhiệm hình sự của pháp nhân được mở rộng. Đến
năm 1977, lý thuyết đồng nhất hóa được áp dụng trong luật hình sự nước Anh,
theo thuyết này, những quyết định được ban hành hoặc thực hiện bởi một số
lãnh đạo của pháp nhân được coi là hành vi tương tự của pháp nhân. Hiện nay,
luật hình sự nước Anh đã chính thức thừa nhận trách nhiệm hình sự của pháp
nhân là một nguyên tắc chung. Pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự với tư cách
tương tự cá nhân với tội phạm khác và tội phạm được thực hiện bởi một trong

15


những người lãnh đạo của pháp nhân trong khuôn khổ, chức năng và mức độ lỗi
nhất định. Về hình phạt, ở Anh chỉ quy định phạt tiền là hình phạt duy nhất được
áp dụng đối với pháp nhân phạm tội.[54]
Ở Pháp năm 1670, trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã xuất hiện trong

Dụ của Nhà vua Pháp nhưng sau đó, đến cách mạng 1789, nguyên tắc này lại bị
loại bỏ. Qua thời gian chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân tiếp tục được
đưa vào dự thảo luật hình sự của Pháp, tuy nhiên không thành công do biến
động về chính trị, xã hội. Đến năm 1992, BLHS của Pháp chính thức ghi nhận
nguyên tắc trách nhiệm hình sự của pháp nhân và tiếp tục được áp dụng đến nay.
BLHS của Pháp đã quy định hình phạt đối với pháp nhân được chia làm phạm
trọng tội và khinh tội, đó là hình phạt tiền; giải thể; chịu sự giám sát tư pháp
trong thời gian tối đa là 5 năm; Cấm huy động vốn trong thời hạn tối đa 5 năm
hoặc vĩnh viễn;...[54]
Ở Canada vào cuối thế kỷ XIX, tiếp thu kinh nghiệm từ Tòa án Anh, các
Tòa án Canada đã xét xử pháp nhân các tội xâm phạm tài sản, các tội gây hại đời
sống cộng đồng như gây tiếng ồn, làm ô nhiễm công nghiệp, hủy hoại môi
trường rồi sau đó là các tội phạm khác. Tuy nhiên tại thời điểm đó, việc áp dụng
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân còn chưa chặt chẽ và chưa nhận được sự
quan tâm, ủng hộ từ phía Quốc Hội Canada. Cho đến khi xảy ra thảm họa hầm
lò Oétxtrây (Westray) ngày 9/5/1992 làm chết 26 công nhân thợ lò do lỗi khinh
suất của lãnh đạo công ty "Curagh". Tuy nhiên trách nhiệm hình sự không đặt ra
đối với pháp nhân nên công ty Curagh không bị truy tố, xét xử. Đến năm 2003,
dự án luật về Westray đã được thông qua và có hiệu lực, BLHS của Canada
2003 đã ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân và quy định hình phạt tiền
là hình phạt duy nhất áp dụng đối với pháp nhân phạm tội.[54]

16


Ở Hà Lan năm 1886, ban hành BLHS chỉ quy định trách nhiệm hình sự
của cá nhân, pháp nhân không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đến năm 1950,
trách nhiệm hình sự của pháp nhân được áp dụng với tội phạm về kinh tế, người
thực hiện tội phạm có thể bị phạt tù hoặc phạt tiền; còn hình phạt bổ sung là
đóng cửa một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp của người bị kết án; tịch thu tài

sản phạm tội, tước bỏ một số quyền của doanh nghiệp. Năm 1976, trách nhiệm
hình sự của pháp nhân được mở rộng áp dụng đối với mọi tội phạm. Hình phạt
áp dụng đối với pháp nhân phạm tội cũng đa dạng hơn một số nước nêu trên, đó
là: phạt tiền; giải thể; Niêm yết quyết định đã được Toà án tuyên hoặc thông báo
quyết định đó trên các phương tiện nghe nhìn; Tịch thu tài sản; Đình chỉ một
phần hoặc toàn bộ các hoạt động của pháp nhân [54].
Ở Việt Nam, lịch sử pháp luật Việt Nam cũng có đề cập đến trách nhiệm
hình sự của pháp nhân. Trong Quốc triều hình luật điều 82 chương Tạp luật đã
quy định: "Những trang trại ven biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ
hàng hóa lên bờ, thì xử biếm 3 tư, phải phạt gấp 3 tang vật để sung công; lấy
một phần thưởng cho người tố giác. Người chủ trang trại ấy mất chức giám
trang". Trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng được quy định trong thời kỳ
thực dân phong kiến trừng trị các vi phạm luật lệ hối đoái. Sau cách mạng tháng
8 năm 1945, chính quyền miền Nam cũng đã ban hành một số văn bản pháp luật
quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân như Điều 33 Dụ số 10 ngày
23/6/1950 và điều 26 Dụ số 33 ngày 16/11/1952; ở miền bắc, chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng ký sắc lệnh kèm theo Luật về chế độ báo chí: báo chí vi phạm luật có
thể bị truy tố trước tòa án. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự của pháp nhân trước
đây chưa thật sự được coi trọng. Đến năm 1985, khi làm dự thảo sửa đổi BLHS,
một số nhà làm luật đã đề nghị đưa trách nhiệm hình sự của pháp nhân quy định
vào BLHS nhưng chưa được Quốc hội chấp nhận do nội dung còn mới, cần phải
được nghiên cứu sâu hơn. Phải đến năm 2015, khi BLHS mới được ban hành,

17


trách nhiệm hình sự của pháp nhân chính thức được thừa nhận trong pháp luật
hình sự Việt Nam. BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã dành một chương
riêng quy định về pháp nhân thương mại phạm tội: điều kiện, phạm vi, hình phạt
và các quy định khác liên quan. Việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp

nhân thương mại đã đánh dấu sự thay đổi to lớn, là bước đột phá trong pháp luật
hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, từ lý luận đến thực tiễn áp dụng pháp luật là cả
một quá trình cần thẩm tra, đánh giá các quy định về trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân có phù hợp với thực tiễn Việt Nam không, những bất cập, khó khăn
gặp phải và cách khắc phục, từ đó hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng và pháp
luật nói chung.
Có thể thấy trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã xuất hiện rất sớm từ
thời cổ đại, qua các thời kỳ, diễn biến của lịch sử và sự phát triển của kinh tế, xã
hội không thể phủ nhận sự cần thiết phải có một chế định hình phạt áp dụng đối
với pháp nhân phạm tội. Mỗi một đất nước lại có những quan điểm và quy định
khác nhau về trách nhiệm của pháp nhân khi gây thiệt hại, trách nhiệm đó có thể
là dân sự, hành chính hay hình sự nhưng có thể khẳng định việc thừa nhận trách
nhiệm hình sự của pháp nhân là một xu thế phát triển chung của pháp luật hiện
đại.
Việc thừa nhận trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân còn được thể hiện
ở nhiều hiệp định tương trợ tư pháp quốc tế, các điều ước quốc tế song phương
và đa phương. Để bảo đảm nguyên tắc tùy nghi, thể hiện sự hài hòa giữa pháp
luật quốc tế với pháp luật quốc gia, các quốc gia cần quy định trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân trong pháp luật hình sự, đảm bảo sự công bằng cho các
pháp nhân ở các quốc gia, đặc biệt các pháp nhân có trụ sở hoạt động ở quốc gia
khác.

18


1.1.2 Về mặt thực tiễn
Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển, chính sách nhà nước thông
thoáng, tạo điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy đầu tư
nước ngoài đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt
Nam. Việc mở cửa hội nhập đã thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam có những thay

đổi, phát triển vượt bậc. Song một số doanh nghiệp lại lợi dụng những thiếu sót
trong cơ chế quản lý và quy định cuả pháp luật Việt Nam dẫn đến những vi
phạm và gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người,
gây ô nhiễm môi trường, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội. Những hậu
quả ấy để lại nhiều nỗi đau cho con người, cho nhân loại ngày nay và tương lai.
Trong khi đó các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp lại thờ ơ trước những hậu quả
đó hoặc trách nhiệm họ gánh chịu quá nhẹ nhàng so với những thiệt hại đã gây
ra. Các trách nhiệm pháp lý hiện tại lại không đủ sức răn đe, phòng ngừa hành vi
vi phạm.
Trong những năm qua, tỷ lệ vi phạm dưới danh nghĩa pháp nhân ngày
càng gia tăng và có xu hướng nghiêm trọng hơn. Song trước khi BLHS 2015
ra đời, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân thương mại phạm tội nên việc xử lý pháp nhân thương mại khi
phạm tội chỉ dừng ở mức xử lý về mặt dân sự, hành chính, kinh tế. So với
những thiệt hại mà pháp nhân thương mại phạm tội gây ra thì mức xử phạt
hành chính này là chưa thỏa đáng, kém hiệu quả, chưa có sự răn đe, ngăn
ngừa và bảo vệ, chưa giải quyết được triệt để vấn đề. Theo đó, Luật xử lý vi
phạm hành chính chỉ cho phép xử lý doanh nghiệp, pháp nhân có vi phạm,
mức xử phạt không quá 02 tỷ đồng [44]. Bên cạnh đó, việc xác định vi phạm
của pháp nhân, mức độ vi phạm, lỗi, mức độ thiệt hại là rất khó khăn khi
người bị hại hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại phải tự đi xác minh
thu thập chứng cứ.
19


Lịch sử pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định liên quan đến
trách nhiệm hình sự của pháp nhân nhưng các quy định chưa có sự thống
nhất. Sự chuyển biến của nền kinh tế, sự thay đổi về mặt chính trị - xã hội
dẫn đến những thay đổi trong các quy định của pháp luật. Việc mở cửa để hội
nhập đã đem đến những lợi ích to lớn về sự phát triển của kinh tế - xã hội,

nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những tiêu cực cần phải có những biện
pháp khắc phục kịp thời. Pháp luật hình sự Việt Nam cần thiết phải quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào quy định của pháp luật trong giai
đoạn hiện nay, nhằm ngăn ngừa, hạn chế tội phạm tiếp tục xảy ra, không chỉ
bảo vệ con người và tài nguyên thiên nhiên Việt Nam mà còn thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế cũng như sự hòa nhập của Việt Nam trên trường quốc
tế.
Mặt khác, Việt Nam đã ký kết công ước Liên hợp quốc về phòng, chống
tội phạm xuyên quốc gia (Công ước TOC). Công ước yêu cầu các thành viên
xác định những trách nhiệm pháp lý đối với pháp nhân trong việc tham gia
vào các nhóm tội phạm nghiêm trọng như tội rửa tiền, cản trở công lý,... Mặc
dù không quy định rõ trách nhiệm pháp lý phải là trách nhiệm hình sự nhưng
có thể thấy mức độ nghiêm trọng của những tội phạm này đang ở mức báo
động, mà việc áp dụng trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hành chính không
đủ sức răn đe, ngăn chặn [10].
BLHS Việt Nam năm 2015 đã có quy định về pháp nhân thương mại
phạm tội tại chương XI: Những quy định đối với pháp nhân thương mại
phạm tội. Đây là một sự đổi mới, đột phá trong pháp luật hình sự Việt Nam
mặc dù trên thế giới đã có rất nhiều nước có quy định xử lý hình sự đối với
pháp nhân thương mại phạm tội như Anh, pháp, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapore, Thái Lan, Indonexia, Campuchia,...

20


BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ
1/1/2018, tại thời điểm hiện tại chưa có vụ án nào ở Việt Nam do pháp nhân
thương mại phạm tội được khởi tố và xử lý. Trên thực tế vẫn tồn tại rất nhiều
pháp nhân vi phạm pháp luật ở mức độ khác nhau.
Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại có ý

nghĩa vô cùng quan trọng. Đối với pháp luật, giúp cho việc thắt chặt hành lang
pháp lý; đối với con người, giúp bảo vệ sự sống, quyền và các lợi ích hợp pháp
khác; đối với xã hội, với đất nước giúp duy trì sự ổn định, trật tự, an toàn. Việc
chứng minh được hành vi phạm tội của pháp nhân cũng giúp giải quyết các vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự, đảm bảo sự công bằng và nghiêm minh của pháp
luật. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là
hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn khách quan.

1.2

Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt đối với pháp nhân

thƣơng mại phạm tội
Điều 30 BLHS 2015 quy định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong bộ luật này, do Tòa án
quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó."[29]
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định hình phạt được Nhà nước áp dụng
cho 2 chủ thể, một là cá nhân người phạm tội, hai là pháp nhân thương mại
phạm tội. Đối với pháp nhân, BLDS quy định pháp nhân được chia làm pháp
nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Cần chú ý rằng pháp luật hình
sự Việt Nam quy định hình phạt chỉ áp dụng đối với pháp nhân thương mại mà
không phải tất cả các pháp nhân. Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương
mại phạm tội là việc Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc

21


nhất, bắt buộc pháp nhân thương mại phải thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo
quyết định có hiệu lực của Tòa án và thực hiện theo một trình tự, thủ tục được

pháp luật quy định.
Như vậy, hình phạt có bốn đặc điểm sau: thứ nhất, hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước. Thứ hai, hình phạt được quy định
trong BLHS. Thứ ba, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người hoặc pháp nhân
thương mại có hành vi phạm tội. Thứ tư, hình phạt do Tòa án quyết định áp
dụng dựa trên tội phạm và hành vi phạm tội của người hoặc pháp nhân thương
mại.
Điều 1 BLHS quy định: "Hình phạt không chỉ nằm trừng trị người, pháp
nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân
thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm".
Như vậy, hình phạt có 2 mục đích là phòng ngừa riêng và mục đích phòng ngừa
chung. [20]
Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng cho mỗi tội phạm mà không
phụ thuộc vào hình phạt khác. Hình phạt chính được quy định trong từng tội cụ
thể của BLHS, do tòa án tuyên.[32]
Hình phạt bổ sung là hình phạt đi kèm với hình phạt chính, nhằm hỗ trợ
cho hình phạt chính để hình phạt đạt được hiệu quả. Hình phạt bổ sung không đi
một mình, nó luôn đi kèm với hình phạt chính. Khi tòa án tuyên hình phạt chính,
đối với mỗi tội phạm chỉ có thể áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể áp
dụng kèm theo đó một hoặc nhiều hình phạt bổ sung. Hình phạt bổ sung được
quy định trong BLHS và tùy từng điều luật có thể còn được quy định trong từng
tội cụ thể.

22


BLHS 2015 đã có một hệ thống hình phạt áp dụng riêng đối với pháp
nhân thương mại phạm tội. Do pháp nhân không phải con người, không phải là
một thực thể có hình nên việc áp dụng các hình phạt tương tự đối với cá nhân

người phạm tội là hoàn toàn không phù hợp, bởi lẽ pháp nhân không thể ngồi tù,
cũng không thể tước bỏ một số quyền công dân. Tuy nhiên một số hình phạt áp
dụng với cá nhân người phạm tội vẫn có những nét tương đồng để áp dụng đối
với pháp nhân thương mại phạm tội như hình phạt tiền, pháp nhân khi bị kết án
bằng bản án có hiệu lực của pháp luật cũng có thể bị tước bỏ một số quyền lợi
và phải thực hiện một số nghĩa vụ nhằm khắc phục hậu quả. Pháp nhân thương
mại bị kết tội cũng để lại án tích và có thời gian thử thách để xóa án tích.
BLHS 2015 quy định:
"Điều 33. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Phạt tiền;
b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;
b) Cấm huy động vốn;
c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một
hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung."[29]
Như vậy, BLHS 2015 đã quy định 3 hình phạt chính đối với pháp nhân
thương mại phạm tội: đó là hình phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn và

23


đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. So sánh với hệ thống hình phạt đối với pháp nhân
thương mại của một số nước trên thế giới như Anh, Canada chỉ coi hình phạt
tiền là hình phạt duy nhất áp dụng đối với pháp nhân phạm tội thì pháp luật hình
sự Việt Nam đã có một hệ thống hình phạt linh hoạt hơn đối với pháp nhân mà
cụ thể là pháp nhân thương mại phạm tội.

Tuy nhiên, hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội lần
đầu tiên được quy định trong BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên các
hình phạt đưa ra vẫn cần được thi hành trong thực tế để có thể khẳng định tính
hiệu quả khi áp dụng các hình phạt, từ đó có thể sửa đổi, bổ sung các quy định
của pháp luật về hình phạt cũng như các quy định pháp luật khác có liên quan.
Hình phạt được đặt ra đối với pháp nhân thương mại phạm tội nhằm mục
đích trừng phạt và ngăn ngừa tội phạm tiếp tục xảy ra. Hình phạt đối với pháp
nhân thương mại phạm tội có mối liên hệ chặt chẽ với hành vi của pháp nhân
thương mại, hình phạt là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội. Hình phạt thể
hiện thái độ của Nhà nước đối với pháp nhân thương mại phạm tội, nhằm trừng
trị, răn đe tội phạm tiếp tục xảy ra, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của
pháp luật. Đối với hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt
động vĩnh viễn còn nhằm tước bỏ một số quyền của pháp nhân thương mại
phạm tội.
Pháp nhân thương mại chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội
phạm cụ thể. Khi quy định tội phạm này, BLHS cũng đưa ra mức hình phạt cụ
thể sẽ áp dụng nếu pháp nhân thương mại phạm tội. Thông thường, hình phạt
tiền được quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật quy định về tội phạm, khi
hành vi phạm tội thuộc khoản 3, 4, 5 của điều luật, hình phạt được áp dụng đối
với pháp nhân thương mại có thể là phạt tiền hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Tòa án sẽ căn cứ vào hành vi phạm tội của

24


pháp nhân thương mại, mức độ lỗi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để đưa ra loại
hình phạt, mức hình phạt tương xứng.
Tương tự cá nhân người phạm tội, pháp nhân thương mại khi phạm tội
cũng sẽ áp dụng một hình phạt chính, một hoặc một số hình phạt bổ sung. BLHS
2015 đã đưa ra hệ thống hình phạt bổ sung. 3 hình phạt bổ sung đối với pháp

nhân thương mại theo pháp luật hình sự Việt Nam là: Cấm kinh doanh, cấm hoạt
động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không
áp dụng là hình phạt chính.
Tòa án có thể áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung đối với
pháp nhân thương mại phạm tội. Việc áp dụng hình phạt bổ sung cũng tùy thuộc
vào tội phạm và hình phạt chính được tuyên. Giả sử pháp nhân thương mại
phạm tội bị tòa án áp dụng hình phạt tiền thì không thể áp dụng thêm hình phạt
bổ sung cũng là phạt tiền được. Hoặc pháp nhân thương mại phạm tội bị áp dụng
hình phạt tiền, Tòa án nhận thấy nếu tiếp tục để pháp nhân tiếp tục kinh doanh,
hoạt động trong lĩnh vực cụ thể nào đó thì pháp nhân thương mại đó có khả năng
tiếp tục phạm tội, vì vậy tòa án áp dụng thêm hình phạt bổ sung là "Cấm kinh
doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định".
Các hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội ngoài
chức năng bổ trợ cho hình phạt chính thì hình phạt bổ sung còn có ưu điểm to
lớn, đó là việc ngăn ngừa tội phạm có thể tiếp tục xảy ra. Khi pháp nhân thương
mại bị cấm kinh doanh trong lĩnh vực nhất định thì pháp nhân đó không còn khả
năng tiếp tục phạm tội. Hay hình phạt bổ sung là cấm huy động vốn cũng làm
cho khả năng pháp nhân thương mại tiếp tục phạm tội là rất thấp, do không còn
khả năng tiếp tục phạm tội nữa.
Hình phạt bổ sung cũng giúp giảm gánh nặng của nhà nước, mà tiêu biểu
là các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, thi

25


×