Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.27 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KIM ANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
BẰNG PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KIM ANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
BẰNG PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 838010105

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Châu

Hà Nội – 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Kim Anh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
MỤC LỤC.........................................................................................................ii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI
NGOÀI TỐ TỤNG............................................................................................8
1.1. Các khái niệm liên quan giải quyết tranh chấp thương mại bằng
phương thức hòa giải ngoài tố tụng...............................................................8
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại...................................................8
1.2. Lợi ích của hòa giải ngoài tố tụng trong giải quyết tranh chấp thương
mại...............................................................................................................25
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại
bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng tại Việt Nam...............................27
1.4. Kinh nghiệm của pháp luật các nước trong giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng......................................................32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG PHƯƠNG
THỨC HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TẠI VIỆT NAM...............................39
2.1. Thực trạng về các quy định của pháp luật Việt Nam trong giải quyết
tranh chấp thương mại bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng...............39
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật trong giải quyết tranh
chấp thương mại bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng tại Việt Nam...58
2.3. Đánh giá những bất cập, vướng mắc trong các quy định của pháp luật
và trong thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết tranh chấp thương
mại bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng.............................................62
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI..................................72


3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng....................................................72
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phương thức hòa giải ngoài tố tụng
trong giải quyết tranh chấp thương mại.......................................................77
3.3. Giải pháp hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp dụng phương thức hòa giải
ngoài tố tụng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại..............86
KẾT LUẬN.....................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................93


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến
tích cực nhờ công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc tăng cường

hợp tác và giao lưu thương mại quốc tế ngày càng tạo điều kiện cho các quan
hệ thương mại phát triển. Song hành cùng sự đa dạng, phức tạp của các quan
hệ thương mại là thực trạng các tranh chấp thương mại cũng từ đó mà gia tăng
cả về tính chất cũng như quy mô trong suốt thời gian qua. Khi các tranh chấp
phát sinh, các bên cần xem xét nhiều yếu tố đan xen như mục tiêu giải quyết
tranh chấp, mối quan hệ giữa các bên, thời gian, chi phí…để lựa chọn một
phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp.
Pháp luật Việt Nam công nhận nhiều phương thức giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh thương mại như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án.
Tuy nhiên, trước đây hòa giải ngoài tố tụng chưa thực sự được các nhà làm
luật quan tâm, chú ý đến. Hệ thống pháp luật chủ yếu điều chỉnh các hoạt
động hòa giải trong tố tụng và hòa giải các tranh chấp dân sự ở cơ sở. Riêng
hòa giải với tính chất là một biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại
ngoài tố tụng là một khái niệm mới được ghi nhận tại khoản 1 điều 3 Nghị
định 22/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính Phủ về hòa giải thương mại:
“Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các
bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ
trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định này.” Nghị định 22/NĐCP về hòa giải thương mại có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 4 năm 2017 và
được thi hành đến nay. Tuy nhiên Nghị định vẫn chưa thực sự được áp dụng
nhiều trên thực tế mặc dù vậy bước đầu đã bộc lộ những thiếu sót, vướng
mắc.

1


Thực tế, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
ngoài tố tụng rất phổ biến trên thế giới và được ưa chuộng tại các quốc gia có
nền kinh tế phát triển nhưng lại còn khá mới và chưa được sử dụng rộng rãi ở
Việt Nam. Trong bối cảnh thiếu vắng khung pháp lý điều chỉnh phương thức
hòa giải thương mại ngoài tố tụng như trên, cần có một công trình nghiên cứu

toàn diện, tìm hiểu lý luận, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, thiếu sót của
pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn liên quan đến giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng ở Việt Nam để từ đó tăng thêm sự
hiểu biết trong quần chúng nhân dân và để xã hội biết đến, chấp nhận phương
thức giải quyết tranh chấp này. Với lý do như vậy, tác giả chọn đề tài “Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng ở Việt
Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có rất nhiều bài viết, nghiên cứu liên quan đến giải quyết tranh chấp
thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải nói
riêng, cũng có những bài đã từng đề cập đến nội dung về hòa giải ngoài tố
tụng hay nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này như đề
cập đến lý luận, khái niệm, định nghĩa về Hòa giải của một số nước trên thế
giới, đồng thời nêu lên được những đặc điêm cũng như những ứng dụng của
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, trong các nghiên
cứu đó các tác giả cũng đưa ra được tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Cụ thể phải kể đến như
Giáo trình Luật Thương Mại do PGS.TS Ngô Huy Cương chủ biên, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Giáo trình Luật Thương Mại do TS.
Nguyễn Viết Tý chủ biên, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2011; Tập bài
giảng về Giải quyết tranh chấp thương mại của TS. Phan Thị Thanh Thủy,
2013… Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh

2


thương mại ở Việt Nam” của Phạm Lê Mai Ly năm 2014, Luận văn Thạc sỹ
Luật học “Xây dựng pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hòa giải ở Việt Nam” của Ngô Thị Thanh Tuyền năm 2014.
Các công trình nghiên cứu kể trên đều nghiên cứu liên quan đến giải

quyết tranh chấp thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải nói riêng; góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu kể trên đều tập trung nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp
thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải nói
riêng, tức nghiên cứu theo chiều rộng mà ít nghiên cứu về giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo chiều sâu. Đây đều là
những công trình được thực hiện trước khi Chính phủ cho ra đời Nghị định về
hòa giải thương mại. Do đó, khó tránh khỏi việc các nghiên cứu cũ có phần
không bắt kịp được thực tế giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
ngoài tố tụng hiện tại. Bên cạnh đó, đứng trước bối cảnh Việt Nam tham gia
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương như hiện nay thì pháp luật cần
hoàn thiện những quy định gì lại chưa được đề cập đến.
Tiếp thu từ những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, Luận văn này sẽ
là tài liệu có giá trị tham khảo giúp các nhà làm luật có cái nhìn mới hơn, góp
phần hoàn thiện hơn về những quy định pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng. Dù những tài liệu ở trên đề cập đến
những vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại,
trong đó cũng đề cập đến những vấn đề lý luận về phương thức hòa giải, tuy
nhiên do sự nghiên cứu tổng quát nên những vấn đề lý luận và thực tiễn của
hoạt động hòa giải ngoài Tòa án không được đề cập một cách chi tiết nhất
nhưng là nền tảng để Luận văn có thể dựa vào đó phát triển những luận điểm
nghiên cứu một cách chi tiết và toàn diện hơn.
3


Một trong những tài liệu đóng góp rất nhiều trong việc nghiên cứu thực
tiễn áp dụng phương thức hòa giải ngoài Tòa án vào thực tiễn đó là Luận án
tiến sỹ Luật học “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thay

thế với các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện nay ở nước ta” của
Dương Quỳnh Hoa năm 2012, Bài viết “Hòa giải – một phương thức giải
quyết tranh chấp thay thế,” của Dương Quỳnh Hoa đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp năm 2012…Đây là một trong những tài liệu không những được
xây dựng dựa trên những căn cứ lý luận chặt chẽ mà còn có sự phân tích khá
sát với thực tế áp dụng phương thức Hòa giải vào trong giải quyết tranh chấp
thương mại.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu
lý luận và thực tiễn vấn đề giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài tố tụng,
qua đó tìm ra những điểm còn thiếu và còn yếu trong quy định của pháp luật,
để đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn
đề này.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu tác giả đặt
ra là: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và giải
quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải như lịch sử hình thành, khái
niệm, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò, chức năng,… Phân tích, đánh giá quy
định cụ thể của pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải
ngoài tố tụng. Chỉ ra những bất cập, thiếu sót còn tồn đọng cần được giải
quyết trên thực tế khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
phương thức hòa giải ngoài tố tụng. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
phương thức hòa giải ngoài tố tụng.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận các quy định của pháp luật hiện hành
về hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại; đánh giá những bất cập,

hạn chế của luật thực định và đề xuất phương hướng, một số kiến nghị từ đó
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Luận văn phân tích, đánh giá và chỉ ra những thiếu sót, bất cập trong
việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng khi áp dụng
các quy định của luật vào thực tế. Từ đó giúp giải quyết các tranh chấp
thương mại ngày một hoàn thiện hơn. Đồng thời đưa ra phương án và một số
kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng từ kết quả của việc phân
tích, đánh giá trên.
Trước đây, đã có những luận văn nghiên cứu về vấn đề giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải. Tuy nhiên mới chỉ đề cập và phân tích hòa
giải từ góc nhìn rộng là giải quyết tranh chấp thương mại bằng biện pháp thay
thế (AlternativeDisputeResolution- ADR) hoặc hòa giải trong tố tụng. Đây là
công trình nghiên cứu toàn diện đầu tiên về phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng từ luật thực định, thực tiễn cũng như
đề xuất, kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về vấn đề này.
Bài luận văn là những nghiên cứu, nhận định của cá nhân tác giả về cơ chế
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng, cũng như cái
nhìn đa chiều về phương thức giải quyết tranh chấp này trên thực tế trong thời
gian qua.
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định về giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo chính sách của Đảng tại Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng

5


đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; chế định hòa giải

trong Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự năm 2015; các quy định về giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng trong pháp luật thực định như
Luật Thương Mại 2005, Nghị định 22/NĐ-CP ngày 24/02/2017 về hòa giải
thương mại,…; những điểm còn thiếu, còn yếu trong quy định pháp luật về
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng qua việc phân
tích, đánh giá luật thực định và thực tiễn thi hành. Từ đó đề xuất một số
phương hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo chính sách
của Đảng tại Nghị quyết số 48, Nghị quyết số 49; chế định hòa giải trong Bộ
Luật Tố Tụng Dân Sự năm 2015; các quy định về giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng trong pháp luật thực định như Luật
Thương Mại 2005, Nghị định 22/NĐ-CP ngày 24/02/2017 về hòa giải thương
mại,... Qua đó, tác giả đưa ra một bức tranh tổng quát về quan hệ thương mại,
tranh chấp thương mại và cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải ngoài tố tụng thông qua phân tích luật thực định.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà
nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan đến giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng. Ngoài ra, luận văn còn có
thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Nhà nước và Pháp Luật.

6



Để đạt được các nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu,
luận văn đã sử dụng những phương pháp nêu trên đồng thời kết hợp linh hoạt
với một số phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các
phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các phương pháp chủ
yếu bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp phân loại, phương pháp phân tích lịch sử….
Phương pháp phân tích dùng chủ yếu để làm sáng tỏ quy định của pháp luật
liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng.
Phương pháp tổng hợp dùng để khái quát hóa nội dung nghiên cứu một
cách hệ thống.
Phương pháp so sánh dùng để so sánh quy định qua từng giai đoạn của
luật và so sánh với các nước khác.
Phương pháp phân tích lịch sử dùng để tìm hiểu phương thức giải quyết
tranh chấp qua từng thời kì lịch sử.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết thúc cấu trúc luận văn gồm những phần sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hòa giải ngoài tố tụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp thương mại bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng, thi
hành pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức hòa
giải ngoài tố tụng.

7


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG PHƯƠNG THỨC
HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG

1.1. Các khái niệm liên quan giải quyết tranh chấp thương mại bằng
phương thức hòa giải ngoài tố tụng
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Từ xa xưa, hoạt động thương mại đã tồn tại và phát triển song hành cùng
sự tiến hóa của xã hội loài người. Khi con người bắt đầu biết phân công lao
động và thương nghiệp ra đời thì trong xã hội cũng xuất hiện một bộ phận
người mua đi bán lại hàng hóa để kiếm lợi nhuận. Bộ phận người này được
gọi là thương nhân. Những hành vi mua bán của các thương nhân ngày càng
trở nên phổ biến và rộng rãi, tạo nên hoạt động giao thương mạnh mẽ mà
ngày nay người ta gọi là hoạt động thương mại.
Hoạt động thương mại ở Việt Nam trải dài qua ba thời kỳ lịch sử: giai
đoạn trước năm 1975, giai đoạn từ năm 1976 đến 1986 và giai đoạn từ năm
1986 đến nay. Ở giai đoạn đầu, đất nước bị chia cắt hai miền, hàng hóa không
được tư do mua bán, thông thương, nền kinh tế hoạt động dưới sự bao cấp. Ở
giai đoạn tiếp theo, Việt Nam thống nhất đất nước, hai miền Nam – Bắc dần
hình thành nên sự giao thương hàng hóa. Nhưng nền kinh tế vẫn hoạt động
theo đường lối quan liêu, bao cấp cũ. Do đó, khái niệm về hoạt động thương
mại chưa xuất hiện ở hai thời kỳ này. Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI đã nêu ra chủ trương về thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh
doanh, tạo nền móng cho sự phát triển kinh tế thị trường. Theo đó, tại khoản 2
điều 5 Luật Thương mại năm 1997 hoạt động thương mại được quy định “là
việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hành vi xúc tiến

8


thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội”. Tuy nhiên, hoạt động xây dựng, hoạt động về bất động sản
liên quan đến thương mại vẫn chưa được liệt kê trong danh sách hành vi

thương mại mà pháp luật Việt Nam quy định tại thời điểm đó. Đến năm 2003,
trong bối cảnh Việt Nam kí kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì thì
khái niệm hoạt động thương mại lần đầu tiên được mở rộng tại Khoản 3 Điều
2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại. Tuy sự mở rộng khái niệm này là cần
thiết và tạo ra sự nhận thức khác biệt so với Luật Thương mại năm 1997,
nhưng trên thực tế quy định này cũng chỉ mang tính hình thức chứ chưa thực
sự có giá trị nội dung tại thời điểm bấy giờ. Bởi phạm vi điều chỉnh của khái
niệm hoạt động thương mại trong hệ thống pháp luật không đồng nhất đã tạo
ra sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc áp dụng các quy định về nội dung
cũng như tố tụng của pháp luật Việt Nam. Cũng thừa nhận những nội dung
được ghi nhận trong Pháp lệnh trọng tài thương mại nhưng khái quát hơn, tại
khoản 1 điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định “Hoạt động thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”. Hoạt động thương mại được định nghĩa theo
Luật thương mại chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh trong hai khâu
lưu thông và dịch vụ, không bao hàm khâu đầu tư cho sản xuất. Hai lĩnh vực
chủ yếu của hoạt động thương mại là thương mại hàng hóa và thương mại
dịch vụ: Thương mại hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận theo khoản 8 điều 3 Luật thương mại năm
2005. Thương mại dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (gọi là
bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và
nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh

9


toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận theo quy
định tại khoản 9 điều 3 Luật thương mại năm 2005. Đối với hoạt động mua

bán hàng hóa, có những thương nhân chuyên kinh doanh mua bán hàng hóa
và có những thương nhân đồng thời là nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ. Vì vậy,
pháp luật thương mại cũng có một số nội dung liên quan đến quá trình đầu tư
sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ như tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ…
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương
mại, là hiện tượng phổ biến và thường xuyên của hoạt động thương mại trong
nền kinh tế thị trường hiện nay. Các tranh chấp nói chung thường chỉ những
mâu thuẫn, xung đột. Vậy tranh chấp thương mại có phải là những mâu thuẫn,
xung đột liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thương mại khi
tham gia hoạt động thương mại không? Việc khái niệm tranh chấp thương mại
như trên vô hình dung đã loại bỏ nhiều tranh chấp mang bản chất của tranh
chấp thương mại mà không được coi là tranh chấp thương mại.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung pháp luật Việt Nam đã
quen thuộc với thuật ngữ tranh chấp kinh tế được quy định tại Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Nghị định số 116/CP ngày
05/9/1994 đã liệt kê được các tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết
của tòa án và trọng tài kinh tế, gồm:
Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; Các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên công ty; giữa các thành viên công ty
với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động; giải thể công ty;
Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu; trái phiếu; Các
tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật. [5]

10


Tuy nhiên có thể thấy để khái niệm tranh chấp kinh tế bằng phương pháp
liệt kê sẽ không thể bao hàm đủ nội hàm rộng lớn của nó mà chỉ đưa ra được

các tranh chấp điển hình trên thực tế có nội dung kinh tế mà thôi.
Những năm gần đây, các nhà lập pháp của ta đã sử dụng một thuật ngữ
khác thay cho thuật ngữ tranh chấp kinh tế trước kia. Đó là tranh chấp thương
mại. Tranh chấp thương mại lần đầu tiên được pháp luật Việt Nam nêu ra tại
Điều 238 Luật Thương mại ngày 10/5/1997 như sau: “Tranh chấp thương mại
là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Từ việc tiếp cận trên, ta thấy tranh chấp thương mại có những đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp thương mại có thể là thương nhân với
thương nhân hoặc có ít nhất một bên là thương nhân với một chủ thể khác.
Trên thực tế các tranh chấp thương mại diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân
hoạt động thương mại với nhau. Thương nhân có thể hiểu là người thực hiện
các hoạt động kinh doanh thương mại có tính chất nghề nghiệp. Cụ thể tại
điều 6 Luật Thương mại năm 2005 có quy định “Thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Tuy nhiên xuất phát
từ đặc điểm của từng mối quan hệ thương mại cụ thể mà trong một số trường
hợp, các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân cũng có thể là chủ thể
của tranh chấp thương mại: Ngoài ra, tham gia vào các hoạt động thương mại
còn có các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
không phải đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, nội dung của tranh chấp thương mại có liên quan đến lợi ích vật
chất của các tranh chấp. Nói cách khác, tranh chấp thương mại là sự mâu
thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt

11


động thương mại. Lợi ích vật chất đó thường được xem xét dưới góc độ là giá

trị của tranh chấp thương mại. Những lợi ích vật chất này có từ hai nhóm hoạt
động cơ bản của hoạt động thương mại là thương mại hàng hóa và thương mại
dịch vụ. Cả hai loại hình này cùng là sự trao đổi, mua bán giữa hai chủ thể đối
với cùng một đối tượng nào đó, đồng thời phải tuân theo những quy định đã
đặt ra. Thương mại hàng hóa có đối tượng là hàng hóa, là sản phẩm hữu hình.
Loại sản phẩm này khi giao thương với các nước ít chịu sự ảnh hưởng và
kiểm soát ít phức tạp hơn khi thực hiện thủ tục xuất - nhập cảnh. Doanh
nghiệp thực hiện thương mại hàng hóa không có vai trò trung gian như dịch
vụ. Còn đối tượng của thương mại dịch vụ lại là các dịch vụ tức là sản phẩm
vô hình, khi thực hiện thủ tục xuất - nhập cảnh phải chịu rất nhiều ảnh hưởng
như tác động tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ… Thương mại
dịch vụ có vai trò trung gian đối với sản xuất, thương mại hàng hóa nên phát
triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp đến tất cả các ngành nghề
của nền kinh tế. Bên cạnh hai loại hình cơ bản kể trên thì còn có các hình thức
đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận đáng được lưu ý. “Đầu tư kinh doanh là việc
nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc
thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ
chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”
theo quy định tại khoản 5 điều 3 Luật đầu tư năm 2014. Như vậy, đầu tư kinh
doanh được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư như thành lập tổ chức
kinh tế, thực hiện dự án đầu tư…với các nội dung khác nhau nhưng đều
hướng đến mục tiêu cuối cùng là sinh lợi. Như đã nêu trên, do xuất phát từ
các hoạt động thương mại nên tranh chấp kinh doanh thương mại thường về
lợi ích vật chất, lợi ích tài sản của các bên trong tranh chấp. Thông thường đó
là các tranh chấp có giá trị lớn. Ngoài ra, giá trị tranh chấp còn phụ thuộc
nhiều vào nền kinh tế tại thời điểm tranh chấp. Trong nền kinh tế phát triển,

12



các hoạt động thương mại sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi, từ đó phát sinh
ra những tranh chấp lớn. Và ngược lại, trong nền kinh tế suy thoái, các hoạt
động thương mại bị kìm hãm, các tranh chấp tất yếu sẽ có giá trị nhỏ. Hơn
nữa, trong quan hệ thương mại hiện đại, tính rủi ro trong thực hiện hợp đồng
càng cao thì giá trị của các tranh chấp càng lớn.
Thứ ba, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp
đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại
phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy
nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không
làm phát sinh tranh chấp. Tóm lại, có một số căn cứ phát sinh tranh chấp
thương mại cơ bản sau đây: Thứ nhất, tranh chấp phát sinh từ các chủ thể:
Các quan hệ kinh doanh thương mại luôn có ít nhất một bên là thương nhân
và có thể có chủ thể khác tham gia quan hệ. Vì vậy đôi khi khó tránh khỏi
việc kiến thức pháp luật của các chủ thể bị hạn chế. Ngay bản thân những
thương nhân khi tham gia quan hệ kinh doanh thương mại, không phải ai cũng
nắm vững các quy định của pháp luật hiện hành để áp dụng vào thực tiễn.
Điều này dễ gây ra những hiện tượng như thỏa thuận trái với quy định của
luật hay vượt quá phạm vi mà pháp luật cho phép. Chính vì vậy, việc hiểu biết
hạn chế các quy định của pháp luật hiện hành là một trong những nguyên
nhân đầu tiên phát sinh tranh chấp kinh doanh thương mại. Thứ hai, tranh
chấp phát sinh từ khách thể của hoạt động kinh doanh thương mại. Cụ thể là
tranh chấp phát sinh từ quyền lợi của các chủ thể tham gia hoạt động. Đó
chính là các lợi ích kinh tế. Như chúng ta đã biết, mục tiêu then chốt của hoạt
động kinh doanh thương mại là lợi nhuận. Vì lợi nhuận mà nhiều khi một
trong hai bên hoặc cả hai bên sẵn sàng không thực hiện hợp đồng, vi phạm
hoặc phá vỡ các quy định của hợp đồng dẫn đến việc mâu thuẫn, xung đột.
Điều này càng dễ xảy ra trong nền kinh tế thị trường – một môi trường cho

13



phép các bên được làm tất cả những điều mà pháp luật không cấm. Nhờ đó,
các bên tự do thỏa thuận trên cơ sở mục đích và lợi nhuận mà các bên hướng
tới. Thỏa thuận diễn ra càng nhiều thì tỷ lệ phát sinh vi phạm từ thỏa thuận
càng lớn. Việc vi phạm này có thể là do hoàn cảnh khách quan hoặc cũng có
thể do chủ ý của một trong các bên của quan hệ. Thứ ba, tranh chấp phát sinh
từ thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động
kinh doanh thương mại. Chúng ta biết rằng pháp luật luôn đi sau những sự
kiện pháp lý diễn ra trên thực tế. Các nhà làm luật không thể dự trù hết được
tất cả những mâu thuẫn có thể phát sinh trong quan hệ thương mại vốn đa
dạng và phức tạp. Do đó, việc thiếu vắng đi hành lang pháp lý trong các
quan hệ thương mại là một trong những nguyên nhân khiến các tranh chấp
phát sinh.
Căn cứ vào chủ thể tham gia tranh chấp, các tranh chấp thương mại được
phân thành hai dạng: Dạng thứ nhất, các tranh chấp thương mại phát sinh
giữa một bên là thương nhân và một bên là chủ thể khác. Thường là các tranh
chấp liên quan đến việc bảo vệ người tiêu dùng. Trong trường hợp này, người
tiêu dùng luôn là bên có phần yếu thế hơn, cần được quan tâm và bảo vệ.
Dạng thứ hai, các tranh chấp thương mại phát sinh giữa hai bên chủ thể cùng
là thương nhân với nhau. Đây là loại tranh chấp thương mại thuần túy và phổ
biến nhưng cũng tương đối đa dạng về quy mô và tính chất. Nguyên nhân dẫn
đến tranh chấp là do một trong các bên không thực hiện đúng các cam kết
trong hợp đồng.
Căn cứ vào đối tượng tranh chấp, các tranh chấp thương mại được thể
hiện ở dưới bốn dạng sau: Dạng thứ nhất, các tranh chấp thương mại phát
sinh trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Là những tranh chấp phát sinh trong
quá trình giao dịch hàng hóa, bao gồm tranh chấp trong hoạt động mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến thương mại. Trong đó, chủ

14



yếu là tranh chấp về mua bán hàng hóa còn các tranh chấp khác thì thường là
những tranh chấp gắn liền với hoạt động mua bán, phục vụ trực tiếp cho việc
mua bán hàng hóa. Dạng thứ hai, các tranh chấp thương mại phát sinh trong
lĩnh vực thương mại dịch vụ. Tranh chấp liên quan đến thương mại dịch vụ là
những tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất hàng hóa, bao gồm các
hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải, dịch vụ tài chính – ngân
hàng, bảo hiểm… Tất nhiên, không phải tất cả các hoạt động trong lĩnh vực
trên đều là hoạt động thương mại dịch vụ mà chỉ những hoạt động nào có đầy
đủ những yếu tố cấu thành của hoạt động thương mại mới gọi là hoạt động
thương mại dịch vụ. Dạng thứ ba, các tranh chấp thương mại phát sinh trong
lĩnh vực đầu tư. Tranh chấp liên quan đến thương mại trong lĩnh vực đầu tư là
những tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động đầu tư nhằm mục đích
kiếm lợi nhuận của các chủ thể đầu tư bao gồm góp vốn, chuyển nhượng vốn,
phát hành và mua bán chứng khoán, thuê mua tài chính… Cũng tương tự như
những hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, không phải tất cả các
hoạt động đầu tư đều là hoạt động thương mại mà chỉ những hoạt động đầu tư
cho kinh doanh nhằm mục đích sinh lời thì mới gọi là hoạt động thương mại.
Dạng thứ tư, các tranh chấp thương mại phát sinh trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ. Tranh chấp liên quan đến thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là
tranh chấp phát sinh liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các
sản phẩm của trí tuệ nhằm mục đích thương mại, bao gồm các hành vi như sử
dụng đối tượng của sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, bí mật
kinh doanh) hoặc quyền tác giả trong hoạt động thương mại, sử dụng các đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ như là một yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh,
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ…
Căn cứ vào hình thức pháp lý của giao dịch thương mại có thể chia các
tranh chấp thương mại ra thành hai loại: Dạng thứ nhất là tranh chấp thương


15


mại phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Hợp đồng thương mại được xác lập hợp
pháp sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Thực hiện hợp đồng
thương mại là hành vi của các chủ thể nhằm làm cho các nội dung đã cam kết
trong hợp đồng trở thành hiện thực. Nếu hành vi nào trái với cam kết trong
hợp đồng, dẫn đến thiệt hại cho bên kia thì coi là vi phạm hợp đồng thương
mại và làm phát sinh tranh trấp thương mại. Tranh chấp từ hợp đồng thương
mại cũng có nội dung rất rộng, bao gồm:
Tranh chấp thương mại phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt
động mua bán hàng hóa là hoạt động trung tâm trong các loại hoạt động
thương mại. Theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho người mua và có quyền nhận thanh toán; người mua có nghĩa vụ
trả tiền cho người bán, nhận hàng và quyền sở hữu về hàng hóa. Do vậy, tranh
chấp sẽ phát sinh khi bên bán hoặc bên mua vi phạm hợp đồng. Đối với tranh
chấp phát sinh do bên bán vi phạm hợp đồng thường xảy ra khi bên bán
không giao hàng, giao hàng chậm, không giao chứng từ liên quan đến hàng
hóa, giao hàng không đúng quy cách, sản phẩm chất lượng; hoặc tranh chấp
phát sinh liên quan đến số lượng, bao bì hoặc tranh chấp về số lượng hàng hóa
bị thiếu hụt, không đồng nhất trong quá trình kiểm tra khi giao nhận hàng hóa.
Đối với tranh chấp phát sinh khi bên mua vi phạm xảy ra khi bên mua nhận
hàng chậm hoặc không nhận hàng, hoặc bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán
tiền mua hàng hóa.
Tranh chấp thương mại phát sinh từ hợp đồng thương mại dịch vụ. Hoạt
động thương mại dịch vụ là việc cung ứng, trao đổi, mua bán, kinh doanh và
đầu tư vào các hoạt động nhằm mục đích sinh lời. Chính vì vậy, tranh chấp
thương mại ở loại này sẽ có đối tượng là các dịch vụ. Các tranh chấp này
thường phát sinh trên cơ sở hợp đồng vận chuyển hàng hóa (bằng đường bộ,
hàng không,…); hợp đồng cung ứng dịch vụ tư vấn; hợp đồng xây dựng;…


16


Tranh chấp thương mại phát sinh từ hợp đồng đầu tư. Để tiến hành đầu
tư thu lợi nhuận, các thương nhân phải thiết lập các hợp đồng đầu tư, hợp
đồng hợp tác, hợp đồng liên doanh. Loại tranh chấp này nảy sinh trong việc
thực hiện các hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao, hợp đồng xây
dựng – chuyển giao – kinh doanh, hợp đồng xây dựng – chuyển giao, thực
hiện các điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc
đa phương.
Tranh chấp thương mại phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
trí tuệ, mà chủ yếu là hợp đồng li xăng. Các tranh chấp từ hợp đồng li xăng
chiếm phần lớn là các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng đối tượng được
chuyển giao, thanh toán, chuyển giao li xăng cho người thứ ba, tranh chấp về
hợp đồng nhượng quyền thương mại, các trường hợp đơn phương chấm dứt
hợp đồng. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền sở
hữu trí tuệ là một loại tranh chấp về hợp đồng thương mại hàng hóa đặc biệt.
Dạng thứ hai là tranh chấp thương mại phát sinh ngoài hợp đồng. Bên
cạnh tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại cũng có nhiều trường hợp
phát sinh tranh chấp hoàn toàn không phải do hành vi vi phạm hợp đồng
thương mại hoặc có phát sinh từ hợp đồng nhưng không phải là hợp đồng
thương mại như hợp đồng về việc góp vốn thành lập doanh nghiệp; hợp đồng
hợp tác cùng kinh doanh theo nguyên tắc cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ
khi có rủi ro. Những tranh chấp phát sinh dạng này thường gặp trong quá trình
hoạt động của một công ty khi những bất đồng ý kiến của các bên tham gia
công ty không được giải quyết cũng làm phát sinh tranh chấp. Chúng ta
thường gọi tranh chấp loại này là tranh chấp nội bộ giữa các thành viên trong
một công ty với nhau. Ngoài ra, khi thực hiện hoạt động thương mại mà
không qua hợp đồng cũng có thể làm phát sinh hàng loạt tranh chấp, đó là các

trường hợp thương nhân thực hiện hoạt động thương mại trái với tập quán

17


trong kinh doanh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại tới quyền và lợi ích
hợp pháp của thương nhân, người tiêu dùng như: khi thương nhân thực hiện
hành vi cạnh tranh không lành mạnh (quảng cáo thiếu trung thực, hoạt động
khuyến mại không trung thực nhằm bán phá giá hàng hóa,..), vi phạm về chất
lượng sản phẩn ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Giải quyết tranh chấp thương mại là việc sử dụng các phương thức, biện
pháp thích hợp làm cho những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại được
xóa bỏ, tạo sự cân bằng về lợi ích giữa các bên.
Giải quyết tranh chấp thương mại phải đáp ứng những yêu cầu sau: Quan
hệ tranh chấp thương mại là quan hệ tư, do đó, giải quyết tranh chấp thương
mại phải tuân thủ nguyên tắc tự do ý chí. Các bên trong tranh chấp phải được
đảm bảo quyền tự định đoạt. Bên cạnh đó, xuất phát từ đặc thù của hoạt động
thương mại, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo sự nhanh chóng, hạn chế
tối đa sự chậm trễ làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh; đảm bảo uy tín,
bí mật trong kinh doanh nhưng cũng phải đảm bảo được hiệu quả thực thi.
Việc giải quyết tranh chấp cần tiết kiệm chi phí, ít tốn kém nhất, tránh tổn thất
cho các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp.
Theo quy định tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005, có các phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại như thương lượng, hòa giải, trọng tài
và tòa án. Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại có sự tham
gia của bên thứ ba độc lập do các bên tranh chấp cùng chỉ định hoặc đồng
thuận. Hòa giải bao gồm hai hình thức là hòa giải trong tố tụng và hòa giải
ngoài tố tụng. Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động
của cơ quan tài phán nhà nước, tiến hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ,

nhân danh quyền lực nhà nước để ra phán quyết và có các biện pháp cưỡng
chế thi hành. “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do

18


các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này” theo quy
định tại khoản 1 điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
1.1.2. Khái niệm về Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo pháp luật Việt Nam
Theo từ điển Tiếng Việt, “Hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa”. Hòa giải là một biện pháp
truyền thống để giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội nhưng quan niệm
về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống nhất trong quy định của pháp luật ta
thời kỳ trước.
Văn bản pháp luật đầu tiên tại Việt Nam quy định liên quan đến hòa giải
là Sắc lệnh số 13 về tổ chức Tòa án ngày 21/01/1946. Nhưng nội dung của
hoạt động hòa giải chỉ manh nha được đề cập tại Điều 4 của Nghị định số
20/TTg ngày 14/01/1960 đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền xử lý của
Hội đồng Trọng tài Trung ương.
Ngày 25/3/1991, căn cứ vào Pháp lệnh Trọng tài Kinh tế, Hội đồng Bộ
trưởng đã ban hành Nghị định số 70/HĐBT công bố điều lệ về trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng
kinh tế. Tại đây, hòa giải vẫn chưa được quy định một cách rõ ràng, cụ thể
nhưng đã dần thể hiện tính chất của mình trong hoạt động của Trọng tài Kinh
tế khi giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Ngày 16/3/1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế và Nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 thì
“hòa giải” được quy định là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành trong suốt
quá trình tố tụng.

Luật Thương mại ngày 10/5/1997 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định
về hòa giải thương mại và được thay thế bằng luật thương mại ngày 14/6/2005
ghi nhận tại điều 317 như sau: “Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải”.

19


Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/02/2003 quy định
về hòa giải trong tố tụng trọng tài như sau:
1. Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có thể tự hoà giải.
Trong trường hợp hoà giải thành thì theo yêu cầu của các bên, Hội
đồng Trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng.
2. Các bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài tiến hành hoà giải.
Trong trương hợp hoà giải thành thì các bên có thể yêu cầu Hội
đồng Trọng tài lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công
nhận hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải được các bên và
các Trọng tài viên ký. Quyết định công nhận hoà giải thành của Hội
đồng Trọng tài là chung thẩm và được thi hành theo quy định tại
Điều 57 của Pháp lệnh này. [55, Điều 37]
Ngày 15/6/2004, Bộ luật Tố tụng Dân sự được thông qua. Đây là sự kiện
quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật tố tụng dân sự. Tại
Chương II của Bộ luật đã ghi nhận hòa giải là một nguyên tắc của tố tụng dân
sự.
Tại khoản 2 điều 317 Luật Thương Mại năm 2005 có quy định “Hòa giải
giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận
chọn làm trung gian hòa giải”.
Tại khoản 1 điều 3 Nghị định 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của
Chính phủ về hòa giải thương mại có quy định “Hòa giải thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được

hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp
theo quy định của Nghị định này”.
∗Đặc điểm của Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Từ đó, ta thấy hòa giải ngoài tố tụng có một số đặc điểm sau: Thứ nhất,
Hòa giải ngoài tố tụng là một biện pháp giải quyết tranh chấp. Căn cứ để giải

20


×