Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Đổi mới hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.42 KB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ QUANG TIẾN

§æI MíI HO¹T §éNG PHæ BIÕN, GI¸O DôC PH¸P
LUËT
TRONG QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ QUANG TIẾN

§æI MíI HO¹T §éNG PHæ BIÕN, GI¸O DôC PH¸P
LUËT
TRONG QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

NGƯỜI CAM ĐOAN

Ngô Quang Tiến


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn, tác giả đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của các tập thể và các cá nhân trong và ngoài Quân đội.
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo, các Giảng
viên Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình, tâm
huyết của GS, TS Hoàng Thị Kim Quế trong suốt thời gian thực hiện luận văn.

Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các cơ quan,
đơn vị, cá nhân đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả được học tập, nghiên cứu và
hoàn thành Luận văn này./.
Hà Nội, ngày
tháng năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Quang Tiến


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội..........................................................
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.....................................................................................................
Tôi xin chân thành cảm ơn!.......................................................................................


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH:

LLVTND:
PBGDPL:
QĐND:
QPPL:
XHCN:

Chủ nghĩa xã hội
Lực lượng vũ trang nhân dân
Phổ biến, giáo dục pháp luật
Quân đội nhân dân
Quy phạm pháp luật
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
QĐND Việt Nam là một bộ phận của xã hội, là lực lượng nòng cốt của
LLVTND trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, lực lượng nòng cốt của nền quốc
phòng toàn dân. Trong quá trình công tác, cùng với những hoạt động chuyên ngành,
đặc thù, mỗi tổ chức, cá nhân trong Quân đội đều tham gia vào quan hệ xã hội và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật như mọi tổ chức, cá nhân khác. Bên cạnh đó, mỗi
tổ chức, cá nhân trong Quân đội còn có nhiệm vụ thiêng liêng là bảo vệ vững chắc
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng đất nước vững mạnh,
tham gia vào quá trình hợp tác quốc tế, hội nhập với thế giới. Vì vậy, mỗi tổ chức,
cá nhân trong Quân đội phải nắm chắc, hiểu sâu, thực hiện đúng pháp luật là một
yêu cầu tất yếu, nhất là trong bối cảnh Đảng, Nhà nước ta đang đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế hiện nay. Điều này đỏi hỏi hoạt
động PBGDPL phải được tổ chức thực hiện chất lượng, hiệu quả cao.
Qua tổng hợp, nghiên cứu, đánh giá hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt

Nam thời gian qua cho thấy công tác này đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Thể chế về PBGDPL từng bước được quan tâm xây dựng, bước đầu tạo lập cơ sở
pháp lý cho PBGDPL. Hoạt động PBGDPL được triển khai bằng những hình thức
khác nhau đã tạo được sự chuyển biến trong nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật
của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức và
lao động quốc phòng (sau đây viết gọn là cán bộ, chiến sĩ). Kết quả đó đã góp phần
giữ vững kỷ luật, kỷ cương, xây dựng Quân đội vững mạnh, hoàn thành các nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nước giao, giữ vững và củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Quân
đội; đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động PBGDPL trong Quân đội cũng còn nhiều hạn chế, bất
cập và trước yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi hoạt động này cần được nghiên cứu,
đổi mới. Cụ thể là:

1


Thứ nhất, hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt Nam còn những bất cập,
hạn chế, như: Hoạt động PBGDPL chưa thật sự đi vào thực chất, đặc biệt hình thức,
biện pháp thực hiện chậm được đổi mới, chưa bắt kịp sự phát triển của thời đại và
sự thay đổi cơ cấu thành phần trong Quân đội, nhất là trong thời đại công nghiệp
4.0, công nghệ thông tin bùng nổ hiện nay; sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của một
số cấp ủy Đảng, tổ chức chỉ huy chưa tương xứng với vị trí, ý nghĩa của công tác
này; thể chế về PBGDPL chưa hoàn thiện; tổ chức bộ máy và chất lượng nguồn
nhân lực thực hiện PBGDPL chưa đáp ứng yêu cầu công tác PBGDPL.
Thứ hai, nhiệm vụ xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng mà
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đặt ra đòi hỏi Quân đội
không chỉ đổi mới về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật, kỹ chiến thuật và năng
lực, trình độ chuyên môn giỏi, khả năng sẵn sàng chiến đấu cao mà còn đòi hỏi mỗi
cán bộ, chiến sĩ phải có nhận thức pháp luật sâu sắc, có ý thức pháp luật bền vững,

luôn nêu cao tinh thần “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Bên cạnh
đó, nền quốc phòng nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, các hoạt động
đối ngoại quốc phòng, hợp tác quốc tế về quốc phòng đã, đang và sẽ diễn ra thường
xuyên, liên tục trên cả bề rộng và chiều sâu, đồng thời sự tham gia của Việt Nam
vào Lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp quốc đòi hỏi mọi cán bộ, chiến sĩ
phải nắm vững không chỉ pháp luật trong nước mà cả pháp luật quốc tế để tuân thủ
đúng và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và
quy định của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta đã và đang thực hiện bước chuyển
dịch chiến lược từ xây dựng, hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực
thi pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật
thiết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; đề cao tinh thần thượng
tôn Hiến pháp, pháp luật trong toàn xã hội. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
PBGDPL, hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử dụng pháp
luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều này

2


đặt ra yêu cầu hoạt động PBGDPL trong Quân đội cũng phải được nghiên cứu đổi
mới để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu mà Đảng, Nhà nước đặt ra.
Thứ tư, đề tài về PBGDPL trong QĐND Việt Nam mặc dù đã được một số
báo, tạp chí, tài liệu chuyên khảo, luận văn thạc sĩ nghiên cứu, đề cập nhưng các
công trình, tác phẩm này tiếp cận theo từng góc độ, phạm vi khác nhau (đơn vị, nhà
trường, nhà máy, xí nghiệp; một hoặc một số đối tượng nhất định: Học viên, chiến
sĩ mới, công nhân và viên chức, lao động quốc phòng), chưa nghiên cứu một cách
tổng thể, toàn diện trong toàn quân, nhất là trong khoảng ba năm lại đây. Do đó,
hoạt động PBGDPL trong Quân đội cần được nghiên cứu, đánh giá một cách đầy
đủ, toàn diện, cập nhật cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp đổi
mới cơ bản để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt

Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới.
Từ những lý do trên, với những kiến thức đã được học tập, nghiên cứu tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, kinh nghiệm thực tiễn công tác trong Quân đội và
mong muốn hoạt động PBGDPL trong Quân đội khởi sắc hơn nữa nhằm góp phần nâng
cao sức mạnh tổng hợp của Quân đội, đáp ứng mục tiêu xây dựng QĐND Việt Nam
vững mạnh toàn diện, hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, em lựa chọn đề tài “Đổi mới hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt Nam” làm đề
tài luận văn thạc sĩ. Đây cũng chính là sự cần thiết triển khai thực hiện Đề tài này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
PBGDPL trong QĐND Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Làm rõ những vấn đề lý luận về PBGDPL nói chung, PBGDPL trong QĐND
Việt Nam nói riêng.
Làm rõ những vấn đề đổi mới hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt Nam
(sự cần thiết đổi mới, nội dung, tiêu chí đổi mới và các yếu tố tác động đến đổi mới
hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt Nam).

3


Đánh giá tiến trình thực trạng đổi mới và đề xuất giải pháp đổi mới hoạt
động PBGDPL trong QĐND Việt Nam.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là đổi mới hoạt động PBGDPL trong QĐND
Việt Nam.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi toàn quân/toàn quốc (vì các

đơn vị Quân đội đóng quân trên khắp mọi miền đất nước), trong đó lấy cấp Bộ
Quốc phòng làm cơ sở để có góc nhìn tổng quát, toàn diện.
Về thời gian, tập trung nghiên cứu hoạt động PBGDPL trong Quân đội từ khi
Luật PBGDPL có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2013) đến nay.
Về nội dung, nghiên cứu lý luận về PBGDPL trong QĐND Việt Nam và đổi
mới hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt Nam.
1.4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Quá trình thực hiện Luận văn này, tác giả nhận thấy đề tài về PBGDPL trong
QĐND Việt Nam đã được một số công trình nghiên cứu đề cập đến, như: Giáo dục
pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
tác giả Vũ Thị Bích Ngọc, luận văn thạc sĩ luật học năm 2009; Giáo dục pháp luật
cho học viên các trường Sĩ quan Quân đội ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn
Thị Hoa, luận văn thạc sĩ luật học năm 2013).
Ngoài ra, đề tài về PBGDPL ở môi trường ngoài Quân đội cũng được nhiều
tác giải nghiên cứu, như: Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật (Đề tài cấp
nhà nước số KX-07-17 của GS. TSKH. Đào Chí Úc năm 1995); Giáo dục pháp luật
cho công dân – cơ sở để nâng cao hiệu quả của quá trình điều chỉnh pháp luật”
(Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Quốc Hùng năm 1999); Phổ biến pháp luật cho
người nông dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền (Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hà Thị Tuyến năm 2009); Phổ
biến giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội (Luận văn Thạc sĩ
của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân năm 2010); Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo

4


dục đạo đức cho đảng viên ở Việt Nam hiện nay (Luận văn Thạc sĩ của tác giả Ngô
Bá Hoàng Hải năm 2012); Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (Luận văn Thạc sĩ của tác giả
Nguyễn Thị Bích Thủy năm 2012); Phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện

Vân Đồn - Quảng Ninh (Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Thanh Thủy năm
2013); Giáo dục pháp luật cho phạm nhân - qua thực tiễn tại trại giam Quảng Ninh
thuộc Tổng cục cảnh sát Thi hành án Hình sự và Hỗ trợ tư pháp của Bộ Công an
(Luận văn Thạc sĩ của tác giả Bùi Văn Khương năm 2014)...
Tuy nhiên, các công trình, tác phẩm này tiếp cận theo từng góc độ, phạm vi
khác nhau (phường xã, đơn vị, nhà trường, nhà máy, xí nghiệp,...; một hoặc một số
đối tượng nhất định: Học viên, chiến sĩ mới, công nhân và viên chức, lao động quốc
phòng, đảng viên, nông dân, phạm nhân...), chưa nghiên cứu một cách tổng thể,
toàn diện trong toàn quân, nhất là trong khoảng ba năm lại đây.
Luận văn này nghiên cứu một cách tổng quan, toàn diện, cụ thể về PBGDPL
trong QĐND Việt Nam; đặc biệt cập nhật trong vài năm trở lại đây cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn, qua đó đề xuất giải pháp đổi mới phù hợp với tình hình
mới của đất nước, Quân đội hiện nay.
Với tình hình nghiên cứu trên, có thể khẳng định Đề tài “Đổi mới hoạt động
PBGDPL trong QĐND Việt Nam” là đề tài độc lập, không có sự trùng lặp nội dung
với công trình nghiên cứu trước đó, đặc biệt là trong giới hạn thời gian ba năm trở
lại đây theo quy định của Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp luận
Đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó tập
trung vào các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, logic, lịch sử, điều tra,
kiểm tra.

5



3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
So với các bài báo, đề tài, công trình nghiên cứu về PBGDPL nói chung, về
PBGDPL trong Quân đội nói riêng chỉ nghiên cứu, làm rõ về PBGDPL trong Quân
đội theo một hoặc một vài khía cạnh, lát cắt, phạm vi hẹp (đơn vị, nhà trường, nhà
máy, xí nghiệp; một hoặc một số đối tượng nhất định: Học viên, chiến sĩ mới, công
nhân và viên chức, lao động quốc phòng), đề tài này nghiên cứu một cách tổng quát,
toàn diện, cụ thể về hoạt động PBGDPL trong QĐND Việt Nam; cập nhật thông tin,
tình hình và đề xuất giải pháp đổi mới phù hợp với tình hình mới của đất nước,
Quân đội hiện nay và những năm tiếp theo.
Đề tài hướng tới giá trị lý luận là làm rõ những vấn đề lý luận về PBGDPL
trong Quân đội; chỉ rõ những yếu tố chi phối, tác động đến hoạt động PBGDPL trong
QĐND Việt Nam; luận giải cơ sở của những giải pháp đổi mới.
Đề tài hướng tới giá trị thực tiễn là làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo để
thực hiện đổi mới PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trong Quân đội
nói riêng, thực hiện PBGDPL cho mọi đối tượng nói chung.
4. Dự kiến kết quả
Luận văn được tổ chức thực hiện bảo đảm đúng tiến độ, bảo vệ thành công.
Những nghiên cứu và kiến nghị của luận văn sẽ được quan tâm, hiện thực hóa.
5. Kết cầu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm các phần: Phần mở đầu, Phần nội dung (gồm
03 chương) và Kết luận, kiến nghị; ngoài ra còn có Phụ lục và Danh mục tài liệu
tham khảo.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC
PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1.1. Khái quát chung về phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
“Phổ biến, giáo dục pháp luật” là một thuật ngữ được tạo bởi hai thành tố:
(1) “Phổ biến pháp luật” và (2) “Giáo dục pháp luật”. Để làm rõ đặc điểm, bản chất
của hoạt động PBGDPL thì việc đầu tiên và cần thiết là phải phân tích, làm rõ nội
hàm của hai thành tố này. Đối với khái niệm “pháp luật”, với ý nghĩa là nội dung
của hoạt động phổ biến pháp luật và hoạt động giáo dục pháp luật, là cái đã có (đã
được cơ quan có thẩm quyền ban hành), do đó luận văn này không hướng tới việc
phân tích, làm rõ khái niệm pháp luật.
1.1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “phổ biến” với tính chất là tính từ thì từ
này có nghĩa là tính chất chung, có thể áp dụng cho cả một tập hợp các sự vật, hiện
tượng; thường thấy, thường gặp ở nhiều nơi, nhiều người. Ví dụ: Quy luật phổ biến
của tự nhiên; một hiện tượng phổ biến. Với tính chất là động từ thì “phổ biến” có
nghĩa là làm cho đông đảo người biết bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua
hình thức nào đó [17, T4, tr.278]. Ví dụ: Sách phổ biến kiến thức, phổ biến kinh
nghiệm trồng cây, phổ biến kiến thức kế hoạch hóa gia đình,...
Hiểu một cách chung nhất, phổ biến là mang tính chất chung, có thể áp
dụng cho cả một tập hợp hiện tượng, sự vật; thường có, thường gặp ở nhiều nơi
với nhiều người và làm cho họ biết được bằng cách truyền đạt trực tiếp hay
thông qua hình thức nào đó.
Đề tài này tiếp cận trên phương diện động từ của khái niệm “phổ biến”. Ở
phương diện này, Từ điển Bách khoa Việt Nam chỉ rõ:
Phổ biến pháp luật là việc truyền tải thông tin về pháp luật tới các

7


tầng lớp dân cư trong xã hội. Nội dung thông tin pháp luật ở đây được hiểu
không chỉ gồm các văn bản QPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

ban hành mà cả thông tin về giá trị xã hội của pháp luật và thực tiễn pháp lý
với mục đích làm cho mọi người hiểu, biết và tuân thủ pháp luật. Phổ biến
pháp luật thường gắn với tuyên truyền và giáo dục pháp luật thông qua các
kênh thông tin pháp luật như: Sách báo khoa học, các phương tiện thông tin
đại chúng, qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, qua hoạt động
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước, thực tiễn xét xử của Toà án
nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay [17, T4, tr. 278-279].
Như vậy, phổ biến pháp luật là việc truyền tải thông tin về pháp luật tới các
tầng lớp dân cư trong xã hội một cách chủ động, bằng cách truyền đạt trực tiếp hay
thông qua một hoặc nhiều hình thức nhất định, như: Họp báo, thông cáo báo chí;
Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông
tin, tài liệu pháp luật; Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền
thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải
thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ
quan, tổ chức, khu dân cư; Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; Thông qua công tác xét
xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua
hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; Lồng ghép trong hoạt động văn hóa,
văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp
luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở; Thông qua chương trình giáo dục pháp
luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; Các hình thức
PBGDPL khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho hoạt động PBGDPL đem lại hiệu
quả. Nội dung phổ biến pháp luật rất đa dạng, nó không chỉ đơn thuần là các văn
bản QPPL hoặc một, một số quy phạm trong văn bản QPPL mà còn cả thông tin về
giá trị xã hội của pháp luật, thực tiễn pháp lý với mục đích làm cho mọi người hiểu,
biết và tuân thủ pháp luật.

8



Có quan niệm cho rằng phổ biến pháp luật và tuyên truyền pháp luật là hai
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Thực chất, phổ biến pháp luật và tuyên truyền pháp
luật có tính chất rất gần nhau, nhưng không đồng nhất. Theo Từ điển Tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học, tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người tán
thành, ủng hộ, làm theo [35, tr.1031]. Ví dụ: Tuyên truyền đường lối, chính sách,
tuyên truyền cuộc bầu cử. Trên phương diện này, tuyên truyền, theo nghĩa rộng là
hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần,
tư tưởng đến đối tượng nhằm biến những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận
thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi thúc đối tượng hành động theo những
định hướng, những mục tiêu do chủ thể tuyên truyền đặt ra.
Với cách tiếp cận trên thì quá trình tuyên truyền pháp luật chính là quá trình
phổ biến pháp luật và ngược lại quá trình phổ biến pháp luật chính là quá trình
tuyên truyền pháp luật để mọi người biết và làm theo hoặc không được làm những
điều mà pháp luật cấm. Phổ biến pháp luật và tuyên truyền pháp luật đều do tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện nhằm chuyển tải nội dung của pháp luật đến
đối tượng nhất định. Do vậy, sử dụng thuật ngữ phổ biến pháp luật đã bao hàm cả
hoạt động tuyên truyền pháp luật. Vậy vấn đề đặt ra là tại sao không sử dụng thuật
ngữ “tuyên truyền pháp luật” thay cho thuật ngữ “phổ biến pháp luật”? Câu trả lời
là: “Phổ biến” là một từ Hán Việt, với ý nghĩa “phổ” là đem cái gì đó, nội dung nào
đó đến với nhiều người, “biến” là sự thay đổi, thoát khỏi cái đang có [13, tr.572].
Tổng quát lại, phổ biến được hiểu là truyền tải thông tin đến với nhiều người để họ
tiếp nhận và thay đổi theo định hướng, mục đích xác định. Theo cách tiếp cận này,
từ “phổ biến” biểu hiện rõ nét, cụ thể mục đích của hoạt động truyền tải thông tin
pháp luật đến với mọi người hơn từ “tuyên truyền” nên đã được lựa chọn, sử dụng
một cách chính thống trong các văn bản pháp luật của Nhà nước (Luật PBGDPL
năm 2012; Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PBGDPL,...).
Từ những phân tích trên cho thấy, phổ biến pháp luật là hoạt động truyền tải nội
dung pháp luật đến với nhiều đối tượng, bằng các hình thức phù hợp, nhằm nâng cao


9


hiểu biết, ý thức tôn trọng và thúc đẩy đối tượng được phổ biến chấp hành pháp luật.
Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội và
nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành nhưng không
được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà nước dùng để cai
trị xã hội, trị dân. Bên cạnh đó, phổ biến pháp luật còn mang tính tác nghiệp, truyền
đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể, nhằm làm cho họ hiểu thấu các quy
định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật
Một cách chung nhất, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, giáo dục là quá
trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người
tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng
cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của
loài người [17, T4, tr.154].
Trên phương diện là một hình thức tổ chức thì giáo dục là hoạt động được tổ
chức theo trật tự và chế độ nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục: Hình
thành ở người được giáo dục ý thức và tình cảm tích cực đối với các chuẩn mực xã
hội, đặc biệt là hành vi và thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn mực đó.
Trong khoa học và thực tiễn hiện nay, quan niệm giáo dục pháp luật thường
được hiểu ở hai góc độ khác nhau: Theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng
thì giáo dục pháp luật là quá trình hình thành ý thức pháp luật và văn hoá pháp luật
của các thành viên trong xã hội chịu sự tác động tích cực cũng như tiêu cực, có chủ
định cũng như tự phát của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan như các
điều kiện KT-XH, chế độ chính trị, hoạt động tư tưởng, hệ thống pháp luật và thực
tiễn pháp lý, môi trường sống cũng như giáo dục chung. Theo nghĩa này, khái niệm
giáo dục pháp luật được hiểu gần với khái niệm hình thành ý thức pháp luật của con
người. Ý thức này được hình thành dưới sự tác động của các nhân tố khách quan và

chủ quan, tích cực và tiêu cực.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật được hiểu là hoạt động có định hướng, có
tổ chức, có chủ định của cơ quan, tổ chức và cá nhân (chủ thể giáo dục) cung cấp tri

10


thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục
nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn, thói quen xử
sự phù hợp với các quy định của pháp luật và tích cực tham gia phòng, chống các
hành vi vi phạm pháp luật.
Trong hệ thống tổ chức giáo dục (với nghĩa cơ sở - nhà trường) thì giáo dục
pháp luật được hiểu là hoạt động giảng dạy và học tập pháp luật trong nhà trường,
các cơ sở giáo dục khác và trong các cơ sở giáo dục đặc biệt (như trại giam, trường
giáo dưỡng,...).
Quan niệm giáo dục pháp luật trên đây phù hợp với quan niệm giáo dục
thường được sử dụng trong khoa học sư phạm, đó là: Giáo dục là quá trình tác động
có định hướng của nhân tố chủ quan (con người) lên đối tượng giáo dục nhằm đạt
được các mục đích nhất định. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, thì
"Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh
thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra" [35, tr.379].
Từ nội hàm và bản chất của giáo dục, ta thấy được, để hình thành nên nhân
cách của một con người đúng chuẩn mực xã hội thì giáo dục phải có cả một hệ
thống các phương diện để giáo dục, chính vì vậy, giáo dục có rất nhiều phương diện
hợp thành: Giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, giáo
dục kinh tế, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thường thức, giáo dục sinh thái, giáo dục
về giới… Như vậy, giáo dục pháp luật là một phương diện hợp thành không thể
thiếu khi đào tạo, giáo dục một con người.
Ở Việt Nam, giáo dục pháp luật hiểu theo nghĩa hẹp, là hoạt động định

hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội
và cá nhân nhằm hình thành và phát triển ý thức pháp luật XHCN dưới dạng lòng
tin, mục đích, động cơ, thói quen của con người. Giáo dục pháp luật là một dạng
giáo dục có tính độc lập tương đối với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, thẩm
mĩ... Trong cuốn Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của NXB Đại học Quốc

11


gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Kim Quế viết:
Xét về bản chất Giáo dục pháp luật là hoạt động có tổ chức, có
định hướng, có hệ thống, có kế hoạch do các cơ quan, tổ chức, cộng đồng
và cá nhân (chủ thể giáo dục) thực hiện nhằm mục đích xây dựng ý thức
pháp luật, văn hóa pháp luật ở các cá nhân với nội dung trang bị kiến
thức pháp luật cần thiết, xây dựng thái độ, tình cảm tôn trọng, hiểu biết
giá trị, ý nghĩa của pháp luật, các quyền, nghĩa vụ pháp luật, thói quen
tuân thủ, sử dụng pháp luật [27, tr.453].
So với phổ biến thì giáo dục có điểm chung là cùng nhằm nâng cao nhận
thức, tình cảm. Song có sự khác biệt là nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành
chặt chẽ hơn, đối tượng xác định rõ ràng, cụ thể hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới
góc độ phạm vi của mỗi hoạt động thì phổ biến là một phương thức giáo dục cụ thể.
1.1.1.3. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Từ những phân tích về phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật trên đây cho
thấy PBGDPL là hoạt động có tổ chức, có định hướng, có hệ thống, có kế hoạch do
tổ chức, cá nhân tiến hành bằng phương pháp, hình thức phù hợp nhằm làm cho đối
tượng được phổ biến, giáo dục có tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và ý thức
chấp hành pháp luật.
Nghiên cứu PBGDPL dưới góc độ lý luận và thực tiễn, có thể rút ra khái
niệm PBGDPL như sau:
PBGDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của cơ quan,

tổ chức và cá nhân là chủ thể phổ biến, giáo dục cung cấp tri thức pháp luật, bồi
dưỡng tình cảm và thái độ tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho đối tượng phổ biến,
giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn, thói
quen xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật và tích cực tham gia phòng,
chống vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền con người.
1.1.2. Đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động được tổ chức chặt chẽ bởi
các chủ thể theo quy định của pháp luật
PBGDPL là hoạt động có tính tổ chức, tính kế hoạch cao. PBGDPL không

12


phải là một hoạt động mang tính tự phát hay là hoạt động của một cá nhân, một
nhóm người riêng lẻ không tuân thủ pháp luật. Khi tiến hành PBGDPL, bao giờ,
bất kỳ khi nào nó đều được thực hiện với các bước từ lập kế hoạch, tổ chức triển
khai thực hiện với sự tính toán cụ thể về thời gian, địa điểm, thành phần tham gia,
nội dung thực hiện, mục tiêu cần đạt được,... Đây là những hoạt động theo khuôn
khổ pháp luật.
Hoạt động PBGDPL do cơ quan, tổ chức, cá nhân do pháp luật quy định thực
hiện với mục đích vì cộng đồng rõ ràng. Tại Chương III Luật PBGDPL năm 2012
quy định trách nhiệm PBGDPL của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã quy định cụ thể
chủ thể tiến hành (được phép tiến hành) hoạt động PBGDPL, gồm: Các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và
Kiểm toán Nhà nước; chính quyền các cấp ở địa phương; cơ quan, tổ chức, đơn vị
trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận; tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã
hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức
danh tư pháp; các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; gia đình; đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; cán bộ, công chức, viên chức và cán

bộ, chiến sĩ trong LLVTND; báo cáo viên pháp luật; tuyên truyền viên pháp luật và
những người được mời tham gia PBGDPL ở cơ sở.
1.1.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với công tác
xây dựng và thực hiện pháp luật
Đối với xây dựng và thực hiện pháp luật, PBGDPL là biện pháp bảo đảm
cho chất lượng xây dựng và thực hiện pháp luật. Bởi lẽ, pháp luật được xây dựng
có đảm bảo khoa học, sát thực tiễn xã hội, thống nhất, ổn định và khả thi hay
không phụ thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ kiến thức và nhận thức pháp luật
của người chủ trì soạn thảo văn bản QPPL, người tham gia ý kiến và người ban
hành văn bản QPPL.
Bên cạnh đó, năng lực, trình độ kiến thức và nhận thức pháp luật của mỗi

13


người có được phụ thuộc rất lớn vào hoạt động PBGDPL. Pháp luật được ban hành,
để đi vào thực tiễn cuộc sống xã hội thì một mắt khâu quan trọng không thể thiếu là
phổ biến, giáo dục nội dung pháp luật đó cho mọi người trong xã hội để họ biết
được và thực hiện cho tốt; đồng thời, mục tiêu của PBGDPL là nhằm xây dựng ý
thức chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, bảo
vệ các quan hệ xã hội đúng đắn. Đó chính là hoạt động làm cho pháp luật được thực
hiện trong thực tiễn xã hội một cách đúng đắn nhất.
1.1.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật có hình thức, phương pháp đa dạng và
linh hoạt
PBGDPL được thực hiện rất bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau.
Các hình thức, phương pháp này có thể được áp dụng độc lập hoặc có thể sử dụng
đồng thời nhiều hình thức phương pháp kết hợp với nhau. Ví dụ, PBGDPL bằng
hình thức tiếp công dân có lồng ghép hình thức tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý,...
Trong khi sử dụng phương pháp xử lý tình huống pháp lý có thể kết hợp sử dụng
phương pháp thi đua, phương pháp nêu gương,... Việc sử dụng linh hoạt, đa dạng

hình thức, phương pháp PBGDPL đều hướng tới mục đích truyền đạt thông tin, nội
dung pháp luật giúp đối tượng PBGDPL có những hiểu biết nhất định về pháp luật
góp phần nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật cho đối tượng, hình thành ở họ thói
quen xử sự theo pháp luật, biết bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,bảo vệ
quyền con người.
Tóm lại, PBGDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của
chủ thể được nhà nước trao quyền phổ biến, giáo dục thực hiện cung cấp tri thức
pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng phổ biến, giáo
dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn, thói
quen hành động phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và tích cực
tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật. Hoạt động PBGDPL là một hiện tượng
xã hội, có đặc trưng riêng mà nội dung bao gồm các hoạt động từ nghiên cứu xây
dựng kế hoạch đến tổ chức thực hiện truyền tải tri thức pháp luật và đánh giá kết

14


quả hoạt động PBGDPL.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.3.1 Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật
Nói đến chủ thể PBGDPL là nói đến tổ chức, cá nhân thực hiện công tác
PBGDPL theo quy định của pháp luật, trong đó bao gồm: Chủ thể quản lý công tác
PBGDPL và chủ thể tiến hành hoạt động PBGDPL.
- Chủ thể quản lý công tác PBGDPL là những tổ chức, cá nhân mà theo quy
định của pháp luật, họ có chức năng, thẩm quyền thực hiện công tác quản lý đối với
hoạt động PBGDPL. Đặc trưng tiêu biểu của chủ thể quản lý PBGDPL là có quyền
năng quản lý nhà nước về PBGDPL trong phạm vi không gian, thời gian, thẩm
quyền do pháp luật quy định. Tại Khoản 2 Điều 6 Luật PBGDPL năm 2012 quy
định cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL gồm: Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về PBGDPL; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý

nhà nước về PBGDPL; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về
PBGDPL; Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
PBGDPL tại địa phương. Như vậy, mặc dù Chính phủ, trực tiếp là Bộ Tư pháp được
giao giúp Chính phủ lý nhà nước về PBGDPL trong phạm vi cả nước, nhưng các
Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp theo chức năng nhiệm vụ của mình phải tham
gia quản lý nhà nước về lĩnh vực này và có trách nhiệm tổ chức PBGDPL cho cán
bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ trong LLVTND, nhân dân thuộc phạm vi
Bộ, ngành, địa phương mình.
Các chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PBGDPL của mình
thông qua bẩy nhóm hoạt động sau: Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, chương trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật; Chỉ đạo, hướng dẫn và
tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Bồi dưỡng kiến thức pháp
luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật; Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu
quốc gia về pháp luật; Thống kê, tổng kết về phổ biến, giáo dục pháp luật; Thanh
tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong phổ biến, giáo dục

15


pháp luật; Hợp tác quốc tế về phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Chủ thể tiến hành hoạt động PBGDPL là nhóm những tổ chức, cá nhân
bằng những hoạt động cụ thể của mình theo quy định của pháp luật để tiến hành
truyền tải tri thức pháp luật đến với đối tượng được PBGDPL. Nhóm chủ thể này
bao gồm các cơ quan, tổ chức và cá nhân; trong đó:
Nhóm cơ quan, tổ chức gồm: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm toán Nhà nước; chính
quyền các cấp ở địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân); cơ quan, tổ
chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ

chức xã hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
chức danh tư pháp; các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; gia đình.
Nhóm các cá nhân gồm: Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp; cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ trong LLVTND; Báo cáo viên
pháp luật; Tuyên truyền viên pháp luật và những người được mời tham gia phổ
biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.
1.1.3.2. Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật
Đối tượng PBGDPL là những người, nhóm người cụ thể được thụ hưởng tri
thức pháp luật do các chủ thể của hoạt động PBGDPL truyền đạt thông qua những
hình thức, phương pháp cụ thể. Theo từng giai đoạn, căn cứ vào mục tiêu, phạm vi
quản lý mà đối tượng PBGDPL được chia thành những nhóm khác nhau.
Luật PBGDPL năm 2012 chia đối tượng PBGDPL thành nhóm cán bộ, nhân
dân nói chung và nhóm đối tượng đặc thù. Trong đó nhóm đối tượng đặc thù của
PBGDPL gồm: Người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và
ngư dân; người lao động trong các doanh nghiệp; nạn nhân bạo lực gia đình; người
khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù

16


được hưởng án treo.
Theo Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW
ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về kết quả
thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân thì đối tượng PBGDPL gồm: Cán bộ

cấp xã, nhân dân ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người lao động trong các doanh nghiệp;
người khuyết tật; nạn nhân của bạo lực gia đình, mua bán người; phạm nhân; học
sinh trường giáo dưỡng và người Việt Nam ở nước ngoài.
Theo Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 2021 thì đối tượng PBGDPL là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, chiến
sĩ trong lực lượng vũ trang, người dân, báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên
pháp luật, giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giảng viên dạy môn pháp luật, học
sinh, sinh viên, đối tượng đặc thù.
Như vậy, theo từng cách tiếp cận khác nhau thì có những nhóm đối tượng
PBGDPL khác nhau, song tựu trung lại có thể phân chia thành các nhóm đối tượng
cơ bản sau đây:
- Nhân dân trên khắp mọi miền đất nước (người dân nông thôn, thành thị,
người dân khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,…).
- Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức.
- Thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên.
- Người lao động, người quản lý, cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp.
- Cán bộ, chiến sĩ trong LLVTND.
- Người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam.
- Các đối tượng PBGDPL đặc thù.
Mỗi nhóm đối tượng PBGDPL đều có đặc điểm riêng ảnh hưởng đến khả

17


×