Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn cơ thể hoá ở người cao tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.38 KB, 36 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phát triển ngày càng hiện đại, cùng với những tiến bộ vượt bậc
trong nhiều ngành khoa học kỹ thuật trong đó có y tế, tuổi thọ của con người
đang ngày càng cao. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) và Pháp lệnh người
cao tuổi Việt Nam: người cao tuổi là người từ 60 tuổi trở lên. Hiện nay, ước
tính người cao tuổi chiếm tỷ lệ khoảng 10% dân số thế giới [1]. Ngoài những
bệnh về thực thể như: tim mạch, tiêu hóa, cơ xương khớp thì các rối loạn tâm
thần cũng là một thách thức không nhỏ với sức khỏe người cao tuổi. Tìm hiểu
về những triệu chứng của các rối loạn tâm thần thường gặp ở người cao tuổi
sẽ giúp người cao tuổi và gia đình sớm nhận biết bệnh, có kế hoạch điều trị và
hỗ trợ kịp thời, giúp quá trình hồi phục được nhanh hơn và nâng cao chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi [2].
Rối loạn cơ thể hóa là một rối loạn tâm thần được biểu hiện chủ yếu
bằng các triệu chứng cơ thể. Các triệu chứng này rất đa dạng, thường xuyên
biến đổi, ít nhiều chịu tác động của các yếu tố căng thẳng tâm lý. Bệnh nhân
luôn tin tưởng mình đang mắc một bệnh cơ thể thực sự, mặc dù đi khám bệnh
và làm xét nghiệm nhiều lần đã đưa đến kết luận không mắc bệnh thực thể. Tỷ
lệ ước tính của rối loạn cơ thể hóa là 0,5% dân số nói chung, nữ nhiều hơn
nam, thường khởi phát trước 30 tuổi và kéo dài, được coi như là một rối loạn
suốt đời, gặp nhiều khó khăn khi điều trị [3].
Rối loạn cơ thể có thể để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với người
bệnh nếu không được phát hiện sớm và điều trị thích hợp. Bệnh nhân giảm
nhiều chất lượng sống, khó khăn thực hiện các chức năng sinh hoạt hàng
ngày, thường phải giành nhiều thời gian và tiền bạc cho nhiều cuộc khám
bệnh, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, điều trị nội trú không cần thiết tại các
chuyên khoa khác nhau [4]. Đặc biệt ở người cao tuổi, việc cần thiết quá



2

2

nhiều sự chăm sóc y tế và gia tăng các chi phí đi kèm thật sự đã gây ra nhiều
khó khăn, do bởi những người cao tuổi đã giảm khả năng lao động, giảm thu
nhập và sống phụ thuộc vào người chăm sóc. Mặt khác, rối loạn cơ thể hóa
thường đi kèm với rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu. Chính vì vậy việc phát
hiện, chẩn đoán và điều trị đúng rối loạn cơ thể hóa ở người cao tuổi thật sự
cấp thiết trong thực hành tâm thần học cũng như chăm sóc sức khỏe cộng
đồng [5].
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu một cách có hệ thống về rối
loạn cơ thể hóa ở người cao tuổi. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn cơ thể hoá ở người cao tuổi”
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn cơ thể hoá ở người cao tuổi
2. Nhận xét một số yếu tố liên quan dến rối loạn cơ thê hóa


3

3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan rối loạn cơ thể hóa
1.1.1. Lịch sử và khái niệm rối loạn cơ thể hóa
Rối loạn cơ thể hóa là một rối loạn tâm thần được biểu hiện chủ yếu
bằng các triệu chứng cơ thể. Các triệu chứng này rất đa dạng, thường xuyên

biến đổi, ít nhiều chịu tác động của các yếu tố căng thẳng tâm lý. Bệnh nhân
luôn tin tưởng mình đang mắc một bệnh cơ thể thực sự, mặc dù đi khám bệnh
và làm xét nghiệm nhiều lần đã đưa đến kết luận không mắc bệnh thực thể [6].
Lịch sử của thuật ngữ “rối loạn cơ thể hóa” rất phức tạp trải qua nhiều
thời kỳ với nhiều tên gọi khác nhau.
Thời Ai Cập cổ đại: Hippocrates mô tả hội chứng Hysteria, được đặc
trưng bởi nhiều phàn nàn cơ thể lặp đi lặp lại, thường được bệnh nhân mô tả một
cách kịch tính mà không giải thích được bởi các rối loạn lâm sàng đã biết [7].
Đến thế kỷ 17, Thomas Syndenham đã gắn Hysteria với những rối loạn
tâm lý mà lúc đó ông gọi là “những sầu muộn trước đây” (antecedent
sorrows), tức là đề cập nguồn gốc cảm xúc của rối loạn này [8].
Thế kỷ 18 (1859), Paul Briquet nhấn mạnh khía cạnh đa triệu chứng và
tiến triển kéo dài của rối loạn này. Ông báo cáo 430 trường hợp ở bệnh viện
Charite – Paris, tập trung vào đặc điểm đa triệu chứng. Năm 1970, ghi nhận
những đóng góp to lớn của P. Briquet, người ta dùng thuật ngữ “Hội chứng
Briquet” hay “Bệnh Briquet” để biểu thị rối loạn hysteria đa triệu chứng [9].
Thế kỷ 19 (1980) thuật ngữ rối loạn cơ thể hóa lần đầu tiên được sử dụng
nhằm phân biệt với hysteria đơn triệu chứng trong cuốn Sổ tay thống kê và chẩn
đoán các rối loạn tâm thần lần thứ ba của Hội tâm thần Mỹ DSM - III (1980) [10].


4

4

1.1.2. Quan niệm và phân loại các rối loạn dạng cơ thể
1.1.2.1. Trường phái Tâm thần học Liên Xô (quan niệm truyền thống)
Rối loạn dạng cơ thể được xếp vào các nhóm bệnh tâm căn/tâm sinh
với thuật ngữ là bệnh cơ thể tâm sinh hay bệnh tâm sinh.
- Đây là bệnh do căn nguyên tâm lý, nếu không có căn nguyên tâm lý

thì cá nhân sẽ không bị bệnh.
- Có các triệu chứng cơ thể rõ ràng, cố định theo một hệ thống.
- Ít nhiều có kèm theo tổn thương thực thể
- Tiến triển liên quan rõ rệt đến trạng thái tâm lý bệnh nhân
- Bao gồm: cao huyết áp, loét dạ dày, hen phế quản, lao, ung thư…
1.1.2.2. Quan niệm và phân loại theo ICD-10:
Rối loạn liên quan đến sang chấn tâm lý, các rối loạn dạng cơ thể được
-

xếp vào chương F45, bao gồm:
Rối loạn cơ thể hóa
Rối loạn nghi bệnh
Rối loạn chức năng thần kinh tự trị dạng cơ thể
Rối loạn đau dạng cơ thể dai dẳng
Các rối loạn dạng cơ thể khác
Rối loạn dạng cơ thể không biệt định…..
Rối loạn dạng cơ thể không biệt định
1.1.2.3. Quan niệm và phân loại theo DSM-IV: gồm 5 rối loạn dạng cơ thể và
2 rối loạn không biệt định và phân loại nơi khác.

-

Rối loạn cơ thể hóa
Rối loạn phân ly
Rối loạn nghi bệnh
Rối loạn biến dạng cơ thể
Rối loạn đau
1.1.2.4. Quan niệm mới (Châu Âu) về y học tâm thể

- Là nhóm rối loạn có các triệu chứng cơ thể không thể giải thích thỏa đáng là

do bệnh nội khoa, ngoại khoa nào
- Các triệu chứng này nặng và kéo dài…làm giảm khả năng lao động và hoạt
động xã hội của bệnh nhân


5

5

- Yếu tố tâm lý có vai trò quan trọng trong phát sinh, tiến triển mức độ trầm
trọng và sự kéo dài của các triệu chứng
Bao gồm:
- Các rối loạn truyền thống (ICD-10, DSM-4)
- Các rối loạn mới được xếp loại:
Rối loạn lo âu, trầm cảm…
Rối loạn nghiện chất..
Rối loạn chức năng tình dục
Rối loạn ăn uống, rối loạn giấc ngủ không thực tổn
Các rối loạn dạ dày ruột….
Sự thống nhất các quan niệm
Có vai trò quan trọng (trong khởi phát, tiến triển), đánh giá được vai trò
của các yếu tố Stress, vai trò của nhân cách, yếu tố môi trường, các sự kiện cuộc
sống (lạm dụng thể chất, lạm dụng tình dục, các sang chấn thời thơ ấu…)
Đặc điểm triệu chứng lâm sàng chung:
+ Các triệu chứng cơ thể (chức năng/thực tổn)
+ Kéo dài/ tái diễn
+ Theo 1 hệ thống cơ quan nhất định
+ Chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng
+ Chịu sự tác dụng rõ rệt của yếu tố tâm lý
+ Không chấp nhận lời giải thích về y tế, xét nghiệm

+ Không cắt nghĩa được bằng 1 bệnh cơ thể thực tổn
+ Kèm theo hoặc không kèm theo bệnh cơ thể
+ Có sự khác biệt ở trẻ em và người già
+ Có các triệu chứng nhận thức hành vi kèm theo.
1.1.3. Cơ chế bệnh nguyên, bệnh sinh
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của rối loạn cơ thể hóa đến nay vẫn
chưa được biết rõ nhưng có rất nhiều giả thuyết lý giải triệu chứng của rối loạn
này. Một số tác giả đưa ra 3 lý do giải thích rối loạn cơ thể hóa: Một là, sự khác
biệt mang tính cá thể về khí chất và phản ứng sinh lý học. Hai là, yếu tố xã hội,
văn hoá và ngôn ngữ. Ba là, những trải nghiệm bệnh tật trước đó, khi còn nhỏ
những bệnh nhân này bị bỏ mặc và chỉ được chú ý đến khi bị ốm [11].
1.1.3.1. Vai trò của yếu tố Stress


6

6

Các Stress trong cuộc sống có vai trò quan trọng. Nó có thể là nguyên
nhân trực tiếp gây nên các rối loạn hoặc nó đóng vai trò là yếu tố thúc đẩy
khởi phát và xuất hiện các rối loạn [12].
Stress gây bệnh thường là những stress mạnh và cấp diễn (người thân
chết đột ngột, tổn thất về kinh tế nặng nề).
Có những stress tuy không mạnh và cấp diễn nhưng lặp đi lặp lại nhiều
lần gây căng thẳng nội tâm cũng có khả năng gây bệnh.
Thành phần gây bệnh của stress là ý nghĩa thông tin chứ không phải là
cường độ của stress.
Những stress gây xung đột nội tâm làm cho cá nhân không tìm được
lối thoát cũng thường gây bệnh.
Stress tác động vào cá nhân thường gây bệnh nhiều hơn stress tác động

vào một tập thể [13].
1.1.3.2. Yếu tố nhân cách (loại hình thần kinh)
Nhân cách đóng vai trò quan trọng, cùng một phản ứng stress mỗi cá
nhân phản ứng theo những cách khác nhau. Có người thích nghi được không
bị bệnh, có người xuất hiện lo âu, có người xuất hiện trầm cảm, có người xuất
hiện các triệu chứng cơ thể [14].
Theo học thuyết Paplop một số rối loạn tâm căn xuất hiện trên những
nhân cách đặc biệt: tâm căn Hysteria trên loại hình thần kinh nghệ sĩ yếu, tâm
căn suy nhược tâm thần (Psychasthenia) trên loại hình thần kinh lý trí yếu,
tâm căn suy nhược trên loại hình thần kinh trung gian yếu.
Yếu tố nhân cách có ảnh hưởng tới sự phát sinh rối loạn cơ thể hóa.
Những bệnh nhân mắc rối loạn này thường có rối loạn nhân cách, đặc biệt là
các loại rối loạn nhân cách nhóm B. Những nét nhân cách lệ thuộc - thụ động
(passive - dependent), kịch tính (histrionic) và cảm tính – xâm hại (sensitive –
aggressive) gặp ở bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa cao gấp hai lần ở bệnh nhân


7

7

lo âu và trầm cảm. Tỷ lệ mắc rối loạn cơ thể hóa ở bệnh nhân rối loạn nhân
cách ranh giới cũng thấy tương đối cao [15]. Yếu tố nhân cách còn liên quan
tới bệnh sinh rối loạn cơ thể hóa theo cách thức khác như trong khái niệm
“mù đọc cảm xúc” (Alexithymia), thuật ngữ này dựa trên quan niệm phân tâm
rằng bệnh nhân cơ thể hoá vì không thể diễn tả cảm xúc thành lời .
1.1.3.3. Yếu tố sinh học, thần kinh
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa rối loạn cơ thể hóa và
bệnh lý não. Slater, Merskey và Buhrich đã nhận thấy mối tương quan giữa rối
loạn cơ thể hóa và bệnh lý não, đặc biệt là với động kinh và xơ cứng rải rác.

Một số tác giả nghiên cứu về tâm thần - thần kinh học cho biết khả
năng về chú ý và trí nhớ ở bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa giảm. Kết quả một
số nghiên cứu khác cũng cho thấy có sự giảm chức năng thuỳ trán hai bên,
đặc biệt là bán cầu không ưu thế ở bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa. Rối loạn
còn liên quan với nồng độ cortisol máu 24 giờ và với huyết áp tâm thu [16].
Tuy nhiên các tác giả này cũng nhấn mạnh rằng mối liên quan giữa rối
loạn cơ thể hóa và bệnh lý thực thể, đặc biệt là bệnh lý não là không đặc hiệu.
Nhiều chất dẫn truyền thần kinh đóng vai trò quan trọng trong cơ chế
bệnh sinh của rối loạn cơ thể hóa và các rối loạn liên quan như noradrenalin,
serotonin….
1.1.3.4. Yếu tố môi trường, di truyền…
Rối loạn cơ thể hóa được quan sát thấy ở 10 đến 20% phụ nữ họ hàng
bậc một của bệnh nhân nữ mắc rối loạn này [15]. Nam giới có quan hệ họ
hàng với bệnh nhân nữ mắc rối loạn cơ thể hóa có nhiều khả năng mắc rối
loạn nhân cách chống đối xã hội và rối loạn liên quan đến sử dụng chất [9].
Có tác giả cho rằng rối loạn cơ thể hóa và rối loạn nhân cách chống đối
xã hội có thể có chung một nền tảng di truyền, và rối loạn này ở nữ tương ứng
với rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở nam.


8

8

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng cả yếu tố di truyền và yếu tố môi
trường đều có ảnh hưởng đến nguy cơ mắc rối loạn nhân cách chống đối xã
hội, rối loạn liên quan sử dụng chất và rối loạn cơ thể hóa. Một người có cha
mẹ đẻ hoặc cha mẹ nuôi mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội và rối loạn
liên quan sử dụng chất hay rối loạn cơ thể hóa thì khả năng mắc các rối loạn
này sẽ cao hơn [16].

Ở những trẻ em sống trong hoàn cảnh có xung đột như cha mẹ ly hôn, nghèo
đói hay lạm dụng rượu cũng thấy tăng nguy cơ mắc rối loạn cơ thể hóa [16].
1.1.3.5. Giả thuyết về các yếu tố tâm lý xã hội
“Hành vi đau ốm” (Illness behaviour) là một cụm từ phù hợp cho rối
loạn cơ thể hóa. Cụm từ này được Mechanic đề cập đến từ những năm 1970
để chỉ hành vi của một người khi bị ốm như là đi nằm nghỉ, sử dụng thuốc, đi
khám bệnh hoặc tới một khoa cấp cứu (khi đó, trở thành một bệnh nhân).
Những người này tự nhận thấy mình ốm mà không ý thức được bản chất của
bệnh là dù nặng hay nhẹ, thực tổn hay tâm thần đều không phù hợp với hành
vi đau ốm mà họ thể hiện.
Thuyết tập nhiễm cho rằng hành vi học được trong suốt quá trình trải
nghiệm. Khi các hành vi này xuất hiện hoặc nặng lên thì bệnh nhân đạt được
điều mình muốn và ngược lại. Vì thế, rối loạn cơ thể hóa được coi như một
phương thức thích nghi của bệnh nhân nhằm đạt được các nhu cầu xã hội.
Một đứa trẻ khi thấy bố mẹ hay anh chị mắc bệnh, đặc biệt là các bệnh
nặng và mạn tính, có thể học được hành vi đau ốm, lớn lên phát triển thành
rối loạn cơ thể hóa. Những trải nghiệm bệnh tật trước đây cũng là một yếu tố
quan trọng trong bệnh sinh. Người ta cũng thấy rằng bố của những phụ nữ rối
loạn cơ thể hóa có khả năng mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội cao. Sự
ảnh hưởng này là do yếu tố di truyền, yếu tố tâm lý xã hội hay do cả hai vẫn
chưa được biết rõ.


9

9

Thuyết phân tâm cổ điển cho rằng các triệu chứng cơ thể là biểu hiện
của các xung đột bản năng dồn nén bên trong. Thuyết phân tâm coi những
xung đột với cha, mẹ hoặc những khó khăn trong việc kiểm soát và điều chỉnh

thái độ công kích (aggression) và tâm trạng bất toại (frustration) đóng vai trò
quan trọng trong nhiều trường hợp rối loạn cơ thể hóa.
1.1.4. Dịch tễ
Tỷ lệ rối loạn cơ thể hóa chiếm khoảng 0,5% dân số chung và chiếm 5
– 10% bệnh nhân ở các phòng khám đa khoa [4]. Theo Kaplan – Sadock, tỷ lệ
rối loạn cơ thể hóa là 0,13% dân số và chiếm 5% bệnh nhân ở cơ sở khám
chữa bệnh ban đầu [6]. Trong một nghiên cứu quốc tế được thực hiện ở 15
trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu (n=5438) ở 14 quốc gia, tỷ lệ rối loạn
cơ thể hóa theo tiêu chuẩn ICD-10 là 2,8% [8]. Đa số các tác giả đều nhận
định rằng rối loạn cơ thể hóa chiếm tỷ lệ không cao trong quần thể dân số
chung nhưng lại khá phổ biến ở các cơ sở dịch vụ y tế.
Ở Việt Nam, đã có một số đánh giá về rối loạn cơ thể hóa như cuộc hội
thảo quốc gia tâm thần học chuyên đề chương F4 (F40 – F48) – “Các rối loạn
tâm căn có liên quan đến stress và rối loạn dạng cơ thể” năm 1992, ngoài ra
cũng có một số nghiên cứu như “Rối loạn nghi bệnh” của Trần Viết Nghị,
Trần Hữu Bình, Nguyễn Viết Thiêm (1992), “Rối loạn đau dai dẳng” của
Nguyễn Viết Thiêm, Trần Hữu Bình, Đồng Minh Tiệp (1992) và “Rối loạn cơ
thể hoá” của Trần Hữu Bình (1992). Năm 2006, tác giả Trần Thị Hà An đã
thực hiện một nghiên cứu trên 40 bệnh nhân mắc rối loạn cơ thể hóa điều trị
nội trú tại Viện sức khỏe tâm thần, đưa ra những đặc điểm và một số yếu tố
liên quan tới rối loạn này [17].
1.1.5. Triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán
1.1.5.1. Các triệu chứng lâm sàng đặc trưng


10

10

Các triệu chứng cơ thể thường gặp ở phụ nữ tuổi 30, xuất hiện ít nhiều

liên quan đến các stress, tái diễn thay đổi theo thời gian mà bệnh nhân than
phiền nhiều năm. Các triệu chứng này có thể liên quan đến mọi bộ phận, hệ
thống trong cơ thể.
- Đau:
+Vị trí: trong quá trình phát triển bệnh, đau xuất hiện thay đổi ở nhiều
vị trí và hoạt động như đau đầu, ngực, lưng, bụng, khớp, đau khi có kinh, đau
khi giao hợp, đau khi đi tiểu...
+Tính chất: đau thường khó mô tả rõ ràng và không nêu được chính
xác thời điểm khởi phát. Đau thường tản mạn, không khu trú và thay đổi theo
cảm xúc của bệnh nhân. Hơn nữa, đau ở đây thường ít hoặc không thay đổi
khi dùng thuốc giảm đau thông thường nhưng lại giảm hoặc mất đi khi dùng
rượu hoặc thuốc hướng thần.
- Các triệu chứng dạ dày - ruột: Hầu hết các triệu chứng chức năng ở
hệ thống dạ dày - ruột đều có thể gặp ở bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa: ăn
không ngon, đầy bụng khó tiêu, ợ hơi, buồn nôn, nôn, táo bón, ỉa chảy...
- Các triệu chứng hệ sinh dục - tiết niệu:
+ Kinh nguyệt không đều, mất kinh, kinh kéo dài, lãnh đạm, bất lực,
xuất tinh sớm, cường dương...
+ Đái khó, đái dắt, đau vùng thắt lưng kéo dài...
- Các triệu chứng thần kinh:
+ Rối loạn chức năng vận động và cảm giác: chóng mặt, rối loạn phối
hợp động tác, mất thăng bằng, liệt khu trú, khó nuốt, nuốt nghẹn, mất cảm
giác hay giác quan.
+ Rối loạn chức năng cao cấp của hệ thần kinh: mất trí nhớ, mất ý
thức, lên đồng...


11

11


- Các triệu chứng hệ tim mạch, hô hấp:
+ Triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật: tim đập nhanh, tức ngực, vã
mồ hôi.
+ Khó thở, thở nhanh, cảm giác tức nặng vùng ngực.
- Rối loạn cảm giác trên da: ngứa, bỏng rát ...
Các triệu chứng cơ thể này ảnh hưởng rõ rệt đến cuộc sống hàng ngày
và công việc nghề nghiệp của bệnh nhân. Bệnh nhân luôn tin mình có bệnh cơ
thể nên đòi hỏi phải được khám và điều trị nhiều lần tại các dịch vụ y tế ban
đầu và các chuyên khoa khác nhau. Kết quả khám cơ thể và xét nghiệm cận
lâm sàng không cắt nghĩa được đầy đủ các triệu chứng trên. Các phương pháp
điều trị, thậm chí cả phẫu thuật ít có hiệu quả nhưng thường đưa đến lạm
dụng thuốc, đôi khi nghiện thuốc.
1.1.5.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán
* Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM – IV
A. Có nhiều triệu chứng cơ thể, bắt đầu trước tuổi 30, kéo dài nhiều năm,
luôn tìm kiếm sự điều trị, ảnh hưởng rõ rệt đến làm việc và hoạt động xã hội.
B. Phải có các triệu chứng sau (xuất hiện ở một thời điểm nào đó của bệnh):
- 4 triệu chứng đau: có triệu chứng đau ở ít nhất 4 vị trí hay hoạt động
khác nhau (ví dụ đau đầu, bụng, lưng, khớp, tứ chi, ngực, trực tràng, đau khi
có kinh, đau khi giao hợp, đau khi đi tiểu)
- 2 triệu chứng dạ dày - ruột: có ít nhất 2 triệu chứng dạ dày - ruột không
phải đau (ví dụ buồn nôn, nôn, đầy bụng, tiêu chảy, kém hấp thu)
- 1 triệu chứng về hoạt động tình dục, sinh sản: ít nhất 1 triệu chứng về
hoạt động tình dục, sinh sản không phải đau (lãnh đạm, cường dương, xuất
tinh, kinh nguyệt không đều hay kéo dài, nôn nhiều khi có thai...).
- 1 triệu chứng giả các triệu chứng thần kinh: có ít nhất 1 triệu chứng gợi
ý đến bệnh lý thần kinh không phải đau



12

12

Các triệu chứng “chuyển di”: rối loạn phối hợp động tác, thăng bằng, liệt
khu trú, khó nuốt, nuốt nghẹn, mất tiếng, bí tiểu, các ảo giác, mất cảm giác sờ
hay đau, nhìn đôi, mù, điếc, co giật...
Các triệu chứng phân ly: quên, lên đồng, mất ý thức.
C. Có một trong hai biểu hiện sau:
- Khi làm xét nghiệm, các triệu chứng trên không cắt nghĩa được thoả đáng
là do các bệnh nội khoa, thần kinh hoặc hậu quả trực tiếp của rượu, ma tuý...
- Nếu có bệnh nội khoa, thần kinh nào đó có liên quan thì các triệu
chứng trên là quá mức so với đánh giá về lâm sàng và xét nghiệm
D. Các triệu chứng này không phải do bệnh nhân cố ý hay giả vờ.
* Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD – 10.
Một chẩn đoán xác định đòi hỏi có tất cả các tiêu chuẩn sau:
A. Ít nhất 2 năm có các triệu chứng cơ thể nhiều và thay đổi mà không
tìm thấy một giải thích thoả đáng nào về mặt cơ thể
B. Dai dẳng từ chối chấp nhận lời khuyên hoặc lời trấn an của nhiều bác
sỹ rằng không cắt nghĩa được các triệu chứng về mặt cơ thể.
C. Một số mức độ tật chứng của hoạt động xã hội và gia đình có thể quy
vào bản chất của các triệu chứng và hành vi đã gây ra.
1.1.6. Điều trị
Rối loạn cơ thể hóa là một rối loạn khó điều trị. Một vấn đề thường
gặp là do bệnh nhân thường tập trung nhiều vào các phàn nàn triệu chứng cơ
thể và có xu hướng từ chối các vấn đề tâm lý, xã hội đi kèm. Hiện nay, chưa
có một phương pháp nào điều trị triệt để rối loạn này. Đây là một rối loạn suốt
đời hơn là một tình trạng có thể chữa trị được.
Kaplan và Sadock cho rằng nguyên nhân của rối loạn cơ thể hóa còn
chưa được biết rõ và chưa có một phương pháp nào có thể chữa được nên các

thầy thuốc cần tập trung vào việc quản lý bệnh nhân hơn là việc điều trị [6].


13

13

Tuy nhiên, một số phương pháp trị liệu tâm lý và hoá dược cũng được
các tác giả cho là có hiệu quả trong điều trị rối loạn cơ thể hóa.
1.1.6.1. Nguyên tắc chung
(1) Đánh giá lâm sàng toàn diện: tiền sử, trạng thái tâm thần, khám xét
cơ thể.
(2) Phỏng vấn thành viên then chốt trong gia đình.
(3) Giảm tối thiểu số thầy thuốc tham gia. Đảm bảo một kế hoạch quản
lý đồng bộ và phù hợp.
(4) Giảm tối thiểu các thủ tục khám và điều trị.
(5) Đảm bảo các buổi gặp có kế hoạch và thường xuyên với bệnh nhân.
Tránh nhu cầu đến gặp thầy thuốc hoặc các khoa cấp cứu.
(6) Ghi nhận xác thực các triệu chứng và phản hồi chẩn đoán tới cả
bệnh nhân và người nhà. Khi thích hợp, liên hệ các triệu chứng với các sự
kiện gây sang chấn trong cuộc sống.
(7) Xác định và hạn chế các lợi lộc thứ phát.
(8) Điều trị các rối loạn tâm thần và cơ thể liên quan một cách phù hợp.
1.1.6.2. Các phương pháp điều trị đặc hiệu
* Liệu pháp tâm lý
- Liệu pháp nhận thức - hành vi.
Một số tác giả cho rằng liệu pháp nhận thức – hành vi là lựa chọn hàng
đầu trong điều trị rối loạn cơ thể hóa. Các nhà tâm lý hành vi khẳng định rằng
những hành vi bất thường là hiện tượng mắc phải với cùng một phương thức
của hành vi bình thường thông qua quá trình tập nhiễm. Họ xem rối loạn tâm

căn cũng xuất hiện theo cơ chế tập nhiễm nhưng không thích ứng và kéo dài,
đáp ứng bệnh lý mang tính khái quát hoá những kích thích ban đầu – sang
chấn tâm lý.


14

14

Có rất nhiều nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp nhận thức hành vi
đối với bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa. Speckens và cộng sự (1995) trong một
nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, sau 6 tháng điều trị 82% bệnh nhân rối
loạn cơ thể hóa và 64% nhóm đối chứng có cải thiện hoặc hồi phục và sự thay
đổi này còn duy trì sau 12 tháng điều trị [18].
- Liệu pháp nâng đỡ
Liệu pháp nâng đỡ tốt nhất nên được thực hiện bởi một thầy thuốc nội
khoa hiểu và thông cảm với những khó khăn đặc biệt của bệnh nhân và có khả
năng đáp ứng thoả đáng với cả những vấn đề về tâm lý và cơ thể. Điều này
xuất phát từ thực tế là hầu hết bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa tin rằng họ có
bệnh cơ thể chứ không phải rối loạn tâm thần nên họ dễ chấp nhận một bác sỹ
nội khoa để chữa chứng bệnh cơ thể cho họ hơn. Các buổi trị liệu phải được
lên kế hoạch và nhất quán. Thầy thuốc cung cấp sự bảo đảm và nâng đỡ bệnh
nhân nhưng không thường xuyên đến nỗi sự phụ thuộc quá mức xuất hiện.
* Liệu pháp hoá dược
Stress được nhiều tác giả cho là có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của
rối loạn cơ thể hóa. Stress tác động thông qua trục dưới đồi - tuyến yên tuyến thượng thận gây ra rối loạn điều tiết catecholamin, glucocorticoid...
trong não và cơ thể nên việc dùng thuốc tác động vào quá trình này là cần
thiết. Ngoài ra, bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa có khuynh hướng chấp nhận
điều trị bằng thuốc hơn là điều trị tâm lý.
- Các thuốc chống trầm cảm

Rối loạn cơ thể hóa thường có kèm trầm cảm. Tuy nhiên, các thuốc
chống trầm cảm có tác dụng với các bệnh nhân cơ thể hoá ngay cả khi không
có rối loạn trầm cảm phối hợp.
Các thuốc chống trầm cảm ba vòng (amitriptyline) thường được dùng
do có tác dụng yên dịu và giảm đau. Song, bệnh nhân rối loạn cơ thể hoá có


15

15

xu hướng tăng nhạy cảm với thuốc nên có nguy cơ bị nhiều tác dụng phụ. Vì
vậy, một số tác giả cho rằng nên sử dụng các thuốc chống trầm cảm ức chế tái
hấp thu chọn lọc serotonine (Selective serotonine reuptake inhibitor – SSRI)
cho bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa. Okugawa và cộng sự (2002) nhận thấy
paroxetine có tác dụng tốt trong điều trị rối loạn cơ thể hóa [19].
∗ Các thuốc giải lo âu
Thuốc giải lo âu hay dùng là Benzodiazepine. Do có nguy cơ gây lạm
dụng hay lệ thuộc nên chỉ dùng trong một thời gian ngắn.
∗ Các thuốc an thần kinh
Nguyễn Kim Việt (2005) cho rằng an thần kinh từ lâu đã được coi là
thuốc chống stress, an thần kinh liều thấp được xem xét để thay
Benzodiazepine và thuốc chống trầm cảm. Dùng an thần kinh liều thấp có
hiệu quả mà ít tác dụng phụ.
Sulpiride là an thần kinh mà một số tác giả đã đề cập đến trong điều trị
rối loạn cơ thể hóa. Rouillon và cộng sự (2001) nghiên cứu về hiệu quả của
sulpiride trong điều trị rối loạn cơ thể hóa ở năm nước Châu Âu nhận thấy
58,2% bệnh nhân có đáp ứng và sulpiride là thuốc dung nạp tốt, không có một
tác dụng phụ nào trầm trọng được báo cáo [20].
1.2. Người cao tuổi

1.2.1. Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Trước đây, người
ta thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người cao tuổi, hiện nay
“người cao tuổi” ngày càng được sử dụng nhiều hơn.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn
liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể.
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 60 tuổi trở lên. Một số nước phát
triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao tuổi là những người từ 65
tuổi trở lên.


16

16

Tại Việt Nam, theo Pháp lệnh Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy
định: Người cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý người cao tuổi
1.2.2.1. Quá trình lão hóa
Lão hóa là quá trình tất yếu của cơ thể sống. Lão hóa có thể đến sớm
hay muộn tùy thuộc vào cơ thể từng người. Về thể chất trong giai đoạn này cơ
thể bắt đầu có những thay đổi theo chiều hướng đi xuống.
- Diện mạo thay đổi: Tóc bạc, da mồi, có thêm nhiều nếp nhăn. Da trở
nên khô và thô hơn, xuất hiện nhiều nếp nhăn. Các mạch máu mỏng vỡ ra, tạo
thành các chất xanh đen nhỏ dưới da
- Bộ răng yếu hơn
- Các cơ quan cảm giác: Cảm giác - nghe nhìn, nếm và khứu giác cùng
với tuổi tác ngày càng cao thường bắt đầu hoạt động kém hiệu quả.
- Các cơ quan nội tạng: Tim phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của hệ
tuần hoàn, mà có thể là nguyên nhân phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến lão

hoá. Phổi của người già thường làm việc ít hiệu quả khi hít vào và lượng ôxy
giảm. Khả năng dự phòng của tim, phổi và các cơ quan khác cùng với cũng
giảm sút.
- Khả năng tình dục giảm: Do sự thay đổi của nội tiết tố, ham muốn
tình dục ở người cao tuổi cũng giảm rõ rệt. Ở người già xương và khớp không
còn linh hoạt, mềm dẻo, các cơ đều yếu đi dẫn đến mọi cử động đều chậm
chạp, vụng về.
1.2.2.2. Quá trình thoái triển: cùng với sự lão hóa của tuổi già, các cơ quan
bộ phận đều có sự thoái triển. Sức đề kháng của người già cũng giảm sút do
vậy người già thường gặp nhiều bệnh thực thể, không chỉ gặp một bệnh mà
cùng lúc có thể gặp nhiều bệnh kết hợp với nhau.


17

17

- Các bệnh tim mạch và huyết áp: Cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, suy
tim, loạn nhịp tim…
- Các bệnh về xương khớp: Thoái hóa khớp, loãng xương, bệnh gút…
- Các bệnh về hô hấp: Cảm sốt, viêm họng – mũi, cúm, viêm phế quản,
viêm phổi, ung thư phổi…
- Các bệnh răng miệng: Khô miệng, sâu răng, bệnh nha chu…
- Các bệnh về tiêu hóa và dinh dưỡng: Rối loạn tiêu hóa, suy dinh
dưỡng…
1.2.2.3. Đặc điểm tâm lý người cao tuổi
Trạng thái tâm lý và sức khỏe của người cao tuổi không chỉ phụ thuộc
vào nội lực của bản thân mà còn phụ thuộc vào môi trường xã hội, đặc biệt là
môi trường văn hóa - tình cảm và quan trọng nhất là môi trường gia đình. Khi
bước sang giai đoạn tuổi già, những thay đổi tâm lý của mỗi người mỗi khác,

nhưng tựu trung những thay đổi thường gặp là:
- Hướng về quá khứ để giải tỏa những ưu phiền thường nhật trong cuộc
sống hiện tại, người cao tuổi thường thích hội họp, tìm lại bạn cũ, cảnh xưa,
tham gia hội ái hữu, hội cựu chiến binh... Họ thích ôn lại chuyện cũ, viết hồi
ký, tái hiện kinh nghiệm sống cũng như hướng về cội nguồn: Viếng mộ tổ
tiên, sưu tầm cổ vật…
- Chuyển từ trạng thái “tích cực” sang trạng thái “tiêu cực” Khi về già
người cao tuổi phải đối mặt với bước ngoặt lớn lao về lao động và nghề
nghiệp. Đó là chuyển từ trạng thái lao động (bận rộn với công việc, bạn bè)
sang trạng thái nghỉ ngơi, chuyển từ trạng thái tích cực khẩn trương sang
trạng thái tiêu cực xả hơi. Do vậy người cao tuổi sẽ phải tìm cách thích nghi
với cuộc sống mới. Người ta dễ gặp phải “hội chứng về hưu”.
- Các yếu tố Stress ở tuổi già:
Cô đơn
Về hưu


18

18

Quan hệ xã hội thay đổi
Con cháu bỏ bê
Vợ, chồng chết
Hạn chế vận động đi lại, giao tiếp
Bệnh cơ thể nặng, mạn tính….
1.3. Đặc điểm rối loạn cơ thể hóa ở người cao tuổi
Hiện nay có rất ít nghiên cứu khảo sát về rối loạn cơ thể hóa ở người
cao tuổi, chủ yếu là những nghiên cứu về tỷ lệ mắc của các rối loạn dạng cơ
thể nói chung. Một trong những lý do gây khó khăn cho chẩn đoán là rối loạn

cơ thể hóa thường xuất hiện trước 30 tuổi, vì vậy thời kỳ bệnh sử kéo dài từ
thời điểm đó đến khi trên 60 tuổi rất khó đánh giá. Mặt khác, người càng cao
tuổi càng xuất hiện nhiều những triệu chứng và bệnh lý mạn tính, liên quan
tới quá trình lão hóa. Vì vậy, các triệu chứng cơ thể đa dạng, các biểu hiện
đau thường được các bác sỹ quy kết cho các bệnh lý thực thể, vì thế tỷ lệ rối
loạn dạng cơ thể không được xác định chính xác. Đồng thời, bản thân bệnh
nhân là người cao tuổi cũng gặp khó khăn trong việc phân biệt các triệu
chứng là các cảm giác chủ quan của mình, mà thường có xu hướng giải thích
đó là biểu hiện của bệnh lý thực thể ở một cơ quan, hệ thống nào đó và từ
chối điều trị theo chuyên khoa tâm thần [5].
Dù vậy, tỷ lệ mắc phải của các rối loại này ở quần thể người cao tuổi là
rất khác nhau giữa các nghiên cứu. Sự khác biệt được giải thích do khác biệt
về công cụ nghiên cứu và mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu của Hiller cho biết
26,8% người từ 45 tuổi trở lên có các rối loạn dạng cơ thể [21]. Một nghiên
cứu khác của Escobar đưa ra tỷ lệ các rối loạn dạng cơ thể là 11,7% trong
nhóm người từ 50 đến 65 tuổi, trong đó tỷ lệ của đau dạng cơ thể ước tính
chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là rối loạn cơ thể hóa [22].
Tuy nhiên, các nghiên cứu cho biết rối loạn cơ thể hóa nói riêng và rối
loạn dạng cơ thể nói chung có thể để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với


19

19

người cao tuổi nếu không được phát hiện sớm và điều trị thích hợp. Bệnh nhân
mắc các triệu chứng cơ thể dai dẳng không giải thích được thường suy giảm
chất lượng sống, khó khăn thực hiện các chức năng sinh hoạt hàng ngày,
thường trải qua nhiều cuộc khám bệnh, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, điều
trị nội trú không cần thiết tại các chuyên khoa khác nhau. Theo một nghiên cứu

theo dõi dọc trong 5 năm của Barsky (2005) chi phí dành cho bệnh nhân mắc
rối loạn cơ thể hóa cao gấp đôi so với những nhóm bệnh nhân mắc trầm cảm
đơn thuần [23]. Việc cần thiết quá nhiều sự chăm sóc y tế và các chi phí đi kèm
thật sự là vấn đề ở những người cao tuổi khi họ đã giảm khả năng lao động tạo
thu nhập và sống phụ thuộc vào người chăm sóc. Chính vì vậy việc phát hiện,
chẩn đoán và điều trị đúng rối loạn cơ thể hóa ở người cao tuổi thật sự cấp thiết
trong thực hành tâm thần học cũng như chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Trong một nghiên cứu tổng quan của Sheehan và cộng sự (1999), rối
loạn cơ thể hóa ít gặp ở người cao tuổi, và thường các nhà lâm sàng hay sử
dụng thuật ngữ “trầm cảm ẩn” để giải thích cho những triệu chứng thực thể đa
dạng ở người cao tuổi. Đồng thời các tác giả cũng nhấn mạnh tới việc rối loạn
cơ thể hóa có liên quan tới các rối loạn cảm xúc [24]. Theo Hillary, trầm cảm
thường không được nhận ra ở những bệnh nhân mà biểu hiện chính là các
triệu chứng cơ thể nổi bật và dai dẳng [25].
Cũng theo Sheehan, quan niệm cổ điển về cơ thể hóa ở người già trước
kia tập trung vào việc coi đó là một tình trạng trầm cảm ẩn, rằng những cảm xúc
khó chịu được thể hiện ra bên ngoài bằng triệu chứng cơ thể. Những ý tưởng này
có mối liên quan gần gũi với nền tảng phân tâm truyền thống về rối loạn phân ly
[24]. Những nghiên cứu gần đây đã gợi ý 4 cơ chế bệnh nguyên sau:
Thứ nhất, cơ thể hóa có thể là là đặc điểm suốt đời mà kéo dài cho tới
tận tuổi già. Quan điểm này được ủng hộ bởi những bằng chứng gợi ý là
không có sự khác biệt hệ thống về đặc điểm nhân khẩu học hoặc các hành vi


20

20

tìm kiếm chữa trị ở người già và người trẻ tuổi mắc rối loạn cơ thể hóa. Tuy
nhiên, điều này bị phản bác bởi 1 nghiên cứu theo dõi dọc trong 3 năm, thấy

rằng các ca theo dõi là những ca mới xuất hiện. Do vậy cần thêm những
nghiên cứu theo dõi cá nhân từ trẻ tới khi già.
Thứ hai, có mối liên quan chặt chẽ giữa cơ thể hóa và rối loạn trầm
cảm. Tuy nhiên, các mẫu tham gia nghiên cứu là những đối tượng được gửi
đến chuyên khoa và đã được tìm hiểu kỹ. Cần thêm những nghiên cứu dựa
trên quần thể người già để xem tỷ lệ của trầm cảm và cơ thể hóa như thế nào.
Trầm cảm dường như không thường gặp hơn ở người già so với người trẻ mà
được chẩn đoán rối loạn cơ thể hóa.
Thứ ba, mối liên quan với lo âu ở cả mức độ triệu chứng và mức độ rối
loạn có thể là rõ rệt. Bận tâm cơ thể là thường gặp ở lo âu nặng, và có thể lo âu
như là một con đường dẫn tới cơ thể hóa trong các rối loạn tâm thần khác nhau.
Thứ tư, ngược lại với bệnh nhân trẻ tuổi, vai trò của các yếu tố nhận
thức trong cơ thể hóa ở người già có thể quan trọng. Những người trầm cảm
lớn tuổi dường như ít có khả năng chấp thuận rằng các vấn đề tâm lý là vấn đề
thực thể. Trong một nghiên cứu cộng đồng trên nhiều độ tuổi về mối liên quan
giữa việc hiểu biết về triệu chứng với tuổi, cho thấy người già có thể quan
trọng hóa các những triệu chứng hơn so với người trẻ tuổi. Tình trạng tâm lý
bất ổn, một đặc điểm tính cách kéo dài và đo lường được, đã được nhận thấy
có liên quan chặt chẽ với cơ thể hóa, chứ không phải liên quan tới tuổi già.
Về điều trị, có ít nghiên cứu về hiệu quả của các liệu pháp điều trị trên
nhóm người cao tuổi mắc rối loạn cơ thể hóa. Trị liệu nhận thức hành vi có
thể có hiệu quả, tuy nhiên nó phù hợp hơn ở những người trẻ tuổi [24].
Liệu pháp hóa dược cho người cao tuổi cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Do người cao tuổi thường có nhiều bệnh thực thể cùng xảy ra, thường phải
điều trị nhiều loại thuốc do vậy có nhiều tác dụng phụ, nhiều tương tác thuốc


21

21


xảy ra. Khi sử dụng các thuốc hướng thần điều trị cho người cao tuổi thì
ngưỡng dung nạp thuốc cũng giảm và thường rất dễ xảy ra tác dụng phụ khi
tăng liều lượng thuốc để điều trị. Khi sử dụng các thuốc an thần kinh nên lựa
chọn những thuốc an thần kinh mới và dùng liều thấp như Olanzapine,
Quetiapine, Dogmatil… Các thuốc chống trầm cảm nên lựa chọn những thuốc
chống trầm cảm mới như SSRI, SNRI nên hạn chế sử dụng thuốc chống trầm
cảm 3 vòng vì dễ có tác dụng phụ kháng cholinergic.
1.4. Một số yếu tố liên quan
1.4.1. Tuổi
Đa số các tác giả cho rằng rối loạn cơ thể hóa thường khởi phát trước
tuổi 30 [7]. Holloway (2000) cho rằng những triệu chứng đầu tiên của rối loạn
cơ thể hóa xuất hiện từ tuổi thành niên và đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán khi 30
tuổi [26]. Theo Trần Thị Hà An, 77,5% bệnh nhân mắc rối loạn này có tuổi
khởi phát là 26 đến 30 tuổi [17]. Tuy nhiên, ICD – 10 không yêu cầu tiêu
chuẩn tuổi khởi phát mà chỉ cần các triệu chứng kéo dài ít nhất 2 năm.
1.4.2. Giới
Rối loạn cơ thể hóa gặp ở nữ nhiều hơn ở nam, tỷ lệ nữ/nam xấp xỉ
10/1. Nghiên cứu của Trần Thị Hà An cho biết tỷ lệ này là 7/1 [17].
Rối loạn cơ thể hóa chiếm khoảng 2% quần thể nữ giới [8]. Cloninger
và cộng sự (1986) nhận thấy 3% trong số 859 phụ nữ Thuỵ Điển mắc rối loạn
này [11].
1.4.3. Đặc điểm văn hóa, xã hội
Theo Wool và Barsky rối loạn cơ thể hóa gặp nhiều hơn ở những người
da màu, độc thân, ở nông thôn và có trình độ văn hoá thấp [14]. Trong nghiên
cứu ECA, rối loạn cơ thể hóa gặp nhiều nhất ở phụ nữ châu Mỹ gốc Phi
(0,8%), sau đó là đàn ông châu Mỹ gốc Phi (0,4%) [12]. Một nghiên cứu của
tác giả Ritsner và cộng sự (2000) cho biết tỷ lệ mắc rối loạn cơ thể hóa ở



22

22

những người nhập cư tại Isarel là 21,9%, tức cao hơn rất nhiều so với những
quần thể khác [3].
1.4.4. Nhân cách
Yếu tố nhân cách có ảnh hưởng tới sự phát sinh rối loạn cơ thể hóa.
Những bệnh nhân mắc rối loạn này thường có rối loạn nhân cách, đặc biệt là
các loại rối loạn nhân cách nhóm B. Những nét nhân cách lệ thuộc - thụ động
(passive - dependent), kịch tính (histrionic) và cảm tính – xâm hại (sensitive –
aggressive) gặp ở bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa cao gấp hai lần ở bệnh nhân
lo âu và trầm cảm.
1.4.5. Các stress hay gặp ở người già
Cô đơn
Về hưu
Quan hệ xã hội thay đổi
Con cháu bỏ bê
Vợ, chồng chết
Hạn chế vận động đi lại, giao tiếp
Bệnh cơ thể nặng, mạn tính….
1.4.6. Các bệnh lý thực thể
Các bệnh tim mạch và huyết áp: Cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, suy
tim, loạn nhịp tim…
- Các bệnh về xương khớp: Thoái hóa khớp, loãng xương, bệnh gút…
- Các bệnh về hô hấp: Cảm sốt, viêm họng – mũi, cúm, viêm phế quản,
viêm phổi, ung thư phổi…
- Các bệnh răng miệng: Khô miệng, sâu răng, bệnh nha chu…
- Các bệnh về tiêu hóa và dinh dưỡng: Rối loạn tiêu hóa, suy dinh
dưỡng…



23

23


24

24

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Viện Sức khoẻ Tâm thần - Bệnh viện
Bạch Mai và Bệnh viện lão khoa Trung Ương.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm tất cả các bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên được chẩn đoán xác
định rối loạn cơ thể hóa nhập Viện Sức khoẻ Tâm thần và Bệnh Viện Lão
Khoa Trung Ương trong thời gian nghiên cứu.
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
RLCTH theo DSM – IV, được điều trị tại Viện Sức khoẻ Tâm thần và Bệnh
Viện Lão Khoa Trung Ương trong thời gian nghiên cứu.
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Không nhận vào nhóm nghiên cứu các đối tượng sau:
-

Có bệnh lý thực thể về nội khoa hay thần kinh có thể kèm theo đồng
bệnh lý.


-

Bệnh nhân và người nhà không hợp tác, không đồng ý tham gia nghiên
cứu.
2.3. Cỡ mẫu nghiên cứu:
Cỡ mẫu được tính theo công thức “Ước tính một tỉ lệ trong quần thể”:

Z12−α / 2
n=

p (1 − p )
d2

Trong đó:
n: cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu


25

25

α : ước tính trong nghiên cứu = 0,05 ứng với độ tin cậy là 95%.

Z1−α / 2

: là hệ số tin cậy = 1,96 (với α = 0,05)

p: tỷ lệ rối loạn cơ thể hóa, theo một nghiên cứu có tỉ lệ là 0,5 [4]
d: sai số cho phép: 0,15
Thay số, ta có cỡ mẫu tối thiểu cần thiết n: 42

Nghiên cứu của chúng tôi dự tính gồm 45 bệnh nhân là người cao tuổi
hiện mắc rối loạn cơ thể hóa, được chẩn đoán xác định và được điều trị tại
Viện Sức khoẻ Tâm thần và Bệnh Viện Lão Khoa Trung Ương
2.4. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8/2017 đến tháng 8 /2018
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu, sau đó là nghiên cứu
từng trường hợp.Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu đều được nghiên cứu theo
một mẫu bệnh án thống nhất.
2.5.2. Phương pháp thu thập thông tin
Thông tin được thu thập tại các khoa của Viện Sức khoẻ Tâm thần Bệnh viện Bạch Mai.
2.5.2.1. Công cụ thu thập thông tin
- Mẫu bệnh án nghiên cứu: Để mô tả lâm sàng, chúng tôi thiết kế một
mẫu hồ sơ bệnh án chuyên biệt phù hợp với mục tiêu nghiên cứu (phụ lục)
dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán của Bảng Chẩn đoán và Thống kê các rối
loạn tâm thần lần thứ 4 của Hội Tâm thần học Mỹ (DSM – IV) nhằm thu thập
thông tin về triệu chứng, hội chứng bệnh.
- Các trắc nghiệm tâm lý: Beck, Zung, MMPI.


×