Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Thứ tự trong việc giải thích giao dịch dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.06 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Giao dịch dân sự và thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế
- xã hội. Để tồn tại, các chủ thể phải tương tác với nhau. Khi tham gia vào các tương tác
xã hội, mỗi chủ thể đóng một vai trò nhất định. Mỗi vai trò ấy lại tạo cơ sở để xác lập
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể - thiết lập giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự là sự
thiết lập các quy tắc xử sự chung trên cơ sở pháp luật và ý chí tự do của các bên. Do đó,
việc giải thích giao dịch dân sự phải xuất phát từ những căn cứ luật đã định trước.
Và để tìm hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật về vấn đề này, em xin được
lựa chọn đề tài số 9: “Phân tích quy định của Bộ luật dân sự về thứ tự trong việc giải
thích giao dịch dân sự, cho ví dụ minh họa” làm nội dung cho bài tập học kỳ của mình.
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về giao dịch dân sự
* Khái niệm:
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự1. Giao dịch dân sự thực chất là một loại sự
kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
* Đặc điểm:
- Là sự kiện pháp lý thuộc hành vi pháp lý, luôn thể hiện ý chí tự nguyện của chủ
thể tham gia (ít nhất thể hiện ý chí trước của 1 bên hoặc cả hai bên).
- Là loại sự kiện pháp lý phổ biến nhất và quan trọng nhất làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
* Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
- Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
+ Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
+ Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.
* Các loại giao dịch dân sự:


Có 2 loại giao dịch dân sự:
- Hành vi pháp lý đơn phương: là giao dịch thể hiện ý chí của một bên chủ thể
nhằm phát sinh quan hệ dân sự mà không cần ý chí của các chủ thể khác. Hành vi pháp
lý đơn phương có thể do một hoặc nhiều chủ thể ở cùng một bên bày tỏ ý chí.
Ví dụ: Di chúc, hứa thưởng, thi có giải,..
1 Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[1]


Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý
khi có điều kiện do chủ thể bày tỏ ý chí đặt ra, phía bên kia phải đáp ứng mới làm phát
sinh nghĩa vụ của bên bày tỏ ý chí đơn phương. Ví dụ: phát sinh nghĩa vụ trả lương.
- Hợp đồng dân sự: là giao dịch thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên
chủ thể ở hai phía của giao dịch, làm phát sinh, thay đổi . chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán xe máy, hợp đồng thuê nhà,…
=> Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng đều có thể là
giao dịch có điều kiện.
2. Nội dung quy định của BLDS 2015 về thứ tự trong việc giải thích giao dịch
dân sự
Điều 121 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thứ tự trong việc giải thích giao dịch
dân sự như sau:
“1. Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao
dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.
2. Việc giải thích hợp đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 404 của Bộ luật

này; việc giải thích nội dung di chúc được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ
luật này”.
2.1. Giải thích giao dịch dân sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 121 BLDS
2015
Thứ tự trong giải thích giao dịch dân sự được quy định như sau:
2.1.1. Giải thích giao dịch dân sự theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập
giao dịch
Trong trường hợp giao dịch dân sự cần giải thích thì thứ tự ưu tiên áp dụng như
khoản 1 Điều 121 BLDS 2015. Giao dịch dân sự là quan hệ pháp luật có tính chất dân
sự, do đó ý chí tự nguyện được coi là yếu tố quan trọng nhất của một giao dịch. Khi thỏa
thuận, các bên được cho là đã có ý chí cùng hướng về một mục đích. Chính vì thế, khi
giải thích giao dịch dân sự thì yếu tố đầu tiên cần được xem xét đến là ý chí thực sự của
các bên khi thiết lập giao dịch.
[2]


Ngay cả khi ý chí chung của các bên không thống nhất với sự thể hiện trong giao
dịch dân sự thì luật vẫn cho phép sử dụng ý chí chung thật sự của các bên để giải thích.
Ý chí này được thể hiện thông qua hành vi của các bên từ thời điểm tiền giao dịch, trong
bản thân giao dịch, đến thời gian thực hiện giao dịch dân sự. Mọi hành vi của các chủ
thể có liên quan đến giao dịch dân sự có thể dùng làm chứng cứ để chứng minh cho ý
chí của mình trong giao dịch dân sự.
Các yếu tố đó có thể là các tình tiết liên quan đến việc đàm phán giữa các bên, thói
quen đã được thiết lập giữa các bên, bản chất và mục đích của giao dịch… 2
2.1.2. Giải thích giao dịch dân sự theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao
dịch
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác
lập giao dịch đó (Điều 118 BLDS 2015). Mục đích của giao dịch dân sự chính là hậu
quả pháp lí sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao
dịch. Nói cách khác, mục đích ở đây luôn mang tính pháp lí (mục đích pháp lí). Mục

đích pháp lí (mong muốn) đó sẽ trở thành hiện thực, nếu như các bên trong giao dịch
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Chính vì vậy, trong trường hợp nội dung của giao dịch dân sự không rõ ràng, khó
hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự sẽ được
giải thích theo nghĩa phù hợp với mục đích mà các bên tham gia vào giao dịch đó hướng
đến.
Trong hợp đồng mua bán thì mục đích pháp lí của bên mua là sẽ trở thành chủ sở
hữu tài sản mua bán, bên bán sẽ nhận tiền và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua.
Mục đích pháp lí đó sẽ trở thành hiện thực khi hợp đồng mua bán tuân thủ mọi quy định
của pháp luật - bên bán thực hiện xong nghĩa vụ bàn giao tài sản mua bán và bên mua
thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán, khi đó hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch trùng
với mong muốn ban đầu của các bên. Như vậy, khi các điều khoản quy định trong hợp
đồng mua bán có những nội dung khong rõ ràng thì các bên hoặc cơ quan tài phán sẽ
căn cứ vào mục đích của hợp đồng mua bán này là gì để giải thích nội dung các điều
khoản chưa rõ ràng trong hợp đồng.
2.1.3. Giải thích giao dịch dân sự theo tập quán nơi giao dịch được xác lập
Về cơ bản tập quán được hiểu dựa trên những nét cơ bản là những phương thức
ứng xử giữa người với người đã được định hình và được xem như một dấu ấn, một điểm

2 />
thich-giao-dich-dan-su-trong-Du-thao.aspx.
[3]


nhấn tạo thành nề nếp, trật tự trong lối sống của cá nhân trong quan hệ nhiều mặt tại một
cộng đồng dân cư nhất định.
Tại Điểm b, tiểu mục 2.7 mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày
17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ đã nêu định nghĩa về
tập quán như sau: “Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản

xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm
theo như một quy ước chung của cộng đồng”
Như vậy, chỉ những tập quán có nội dung rõ ràng mới được thừa nhận áp dụng để
giải thích các giao dịch dân sự. Với những tập quán có nội dung không rõ ràng thì không
được thừa nhận áp dụng bởi lẽ, nếu áp dụng một tập quán có nội dung không rõ ràng thì
các bên trong quan hệ dân sự không thể hoặc rất khó để xác định được quyền và nghĩa
vụ, điều này có thể dẫn đến việc các bên không thể thực hiện được các quyền và nghĩa
vụ của mình, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực, hiệu quả của quan hệ đó, hơn nữa,
trong trường hợp phát sinh tranh chấp thì các chủ thể có liên quan khác cũng rất khó để
đánh giá tính phù hợp hay không phù hợp tập quán của các hành vi xử sự của các bên
khiến cho việc giải quyết vụ việc trở nên khó khăn, phức tạp3.
2.2. Giải thích nội dung hợp đồng
Giải thích hợp đồng được quy định tại điều 404 BLDS 2015, cụ thể như sau:
“1. Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó
không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên
được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng.
2. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng.
3. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo
tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
4. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau,
sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.
5. Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng
trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng.
6. Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì
khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia”

3 />
[4]



Theo quy định này chúng ta có thể thấy giải thích hợp đồng là trước tiên phải dựa
vào ý chí của các bên trong giao kết, xác lập, thực hiện hợp đồng để giải thích các điều
khoản không rõ ràng. Điều khoản không rõ ràng là điều khoản không xác định được nội
dung một cách chính xác. Để thực hiện điều khoản này cần phải giải thích cho các bên
hiểu và thống nhất thực hiện. Khi các bên không thống nhất về cách hiểu nội dung của
điều khoản thì phải giải thích theo quy định của pháp luật, theo phong tục tập quán, theo
ngữ nghĩa của từ, theo thực tế thực hiện hợp đồng…
Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
thì khi giải thích hợp đồng, phải xác định điều khoản hoặc ngôn từ đó thuộc tên của hợp
đồng hoặc một điều khoản nào đó của hợp đồng để đưa ra cách giải thích phù hợp. Nếu
ngôn từ đó thuộc một điều khoản cụ thể của hợp đồng thì việc giải thích ngôn từ đó
không chỉ căn cứ vào tính chất của hợp đồng mà việc giải thích còn phải đảm bảo khi
điều khoản đó được thực hiện có lợi cho các bên. Việc giải thích điều khoản hoặc ngôn
từ của hợp đồng phải phù hợp với mục đích và tính chất của hợp đồng.
Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo
tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng. Ví dụ, nhiều địa phương sử dụng từ: “mượn
tiền”, “giật tiền”, “giật nóng”, “giật tạm” thay thế cho từ “vay” hoặc “nhượng” thay
cho bán lại… Nếu tranh chấp xảy ra và cần phải giải thích thì phải xác định theo tập
quán địa phương nơi hợp đồng được giao kết.
Một trong những nguyên tắc cần phải được tuân thủ khi giải thích hợp đồng đó là
những nội dung cần giải thích phải được giải thích trong mối liên hệ với các nội dung
khác của hợp đồng. Nếu không tuân thủ nguyên tắc này thì điều khoản được giải thích
sẽ có nội dung không phù hợp với các điều khoản khác của hợp đồng. Điều này dẫn đến
việc các điều khoản của hợp đồng sẽ khó áp dụng trên thực tế, quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên bị ảnh hưởng, rất dễ dẫn đến tranh chấp giữa các bên.
Thông thường, quá trình giao kết hợp đồng là một quá trình thương lượng, thỏa
thuận giữa các bên nhằm đưa ra sự thống nhất về ý chí. Kết quả của quá trình này là một
hợp đồng được hình thành. Các nội dung của hợp đồng luôn xuất phát từ ý chí chung
của các bên giao kết hợp đồng. Do đó, việc mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với

ngôn từ sử dụng trong hợp đồng rất hiếm khi xảy ra. Nếu xảy ra trường hợp ngôn từ sử
dụng trong hợp đồng mâu thuẫn với ý chí chung của các bên thì giải thích theo ý chí
chung đó.
Hợp đồng là sự thỏa các bên, các điều khoản trong hợp đồng hoàn toàn do các bên
thỏa thuận. Để đạt được những mục đích đặt ra khi giao kết hợp đồng, các chủ thể có thể
[5]


chấp nhận cả những nội dung không có lợi cho mình. Do đó, trong hợp đồng có thể có
những điều khoản có lợi cho bên này, không có lợi cho bên kia. Tuy nhiên, nếu bên soạn
thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo
hướng có lợi cho bên kia.
Mặc dù Điều luật này đã đưa ra các quy định về giải thích hợp đồng dân sự. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là ai sẽ là người có quyền giải thích hợp đồng. Nếu việc giải thích
hợp đồng do các bên tiến hành mà không đạt được sự thống nhất chung khi giải thích thì
việc giải thích hợp đồng không có giá trị và không thể thực hiện hợp đồng cho nên bên
bất lợi sẽ khởi kiện đến Tòa án. Trường hợp này việc giải thích hợp đồng thuộc về Tòa
án, bởi vì các trường hợp trên không thuộc về giao dịch vô hiệu, cho nên Tòa án phải ra
bản án dựa trên lẽ công bằng để buộc các bên thực hiện.
Như vậy, trong trường hợp của bạn khi nội dung hợp đồng dịch vụ đã ký mà không
rõ ràng thì bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu giải thích lại nội dung hợp đồng. Việc giải
thích này trước hết do bạn và bên kia cùng thỏa thuận xác định. Nếu như nội dung đã
thỏa thuận đúng là bất lợi cho bạn thì khi giải thích sẽ theo hướng có lợi cho bạn hơn.
Trong trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc giải thích hợp đồng thì có
thể khởi kiện đến Tòa án để giải quyết.
2.3. Giải thích nội dung di chúc
Giải thích nội dung di chúc được quy định tại điều 648 BLDS 2015, cụ thể như
sau:
“Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa

trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của
người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách
hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh
hưởng đến
các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu
lực”
Di chúc là hành vi pháp lí đơn phương thể hiện ý chí định đoạt tài sải của người để
lai di sản cho chủ thể khác. Do nhiều yếu tố tác động, không phải lúc nào ý chí đích thực
và sự thể hiện ra bên ngoài cũng rành mạch dễ hiểu. vì thế cần có sự giải thích nội dung
di chúc để đảm bảo ý nguyện của người để lại tài sản4.
4 />
bo-luat-dan-su-ve-thua-ke-theo-di-chuc-9481/.
[6]


Theo điều 648 về giải thích nội dung di chúc thì người công bố di chúc cùng với
những người thừa kế theo di chúc có quyền “giải thích nội dung di chúc dựa trên ý
nguyện đích thực trước đây của người chết” và nếu không thống nhất thì có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết.
Bên cạnh đó, quy định những người thừa kế theo di chúc có quyền giải thích nội
dung di chúc vẫn có điểm không thỏa đáng. Bởi lẽ việc giải thích nội dung di chúc là
một việc khó, đòi hỏi người giải thích phải có hiểu biết pháp luật, có kiến thức văn hoă
xã hội mới có thể giải thích được mà không vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, theo điều này thì luật đã trao quyền cho người công bố di chúc và những người
thừa kế mà không đòi hỏi ở họ bất kì điều kiện nào .
Ngoài ra, trong rường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được
nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích
được không có hiệu lực.
3. Ví dụ minh họa liên quan đến thứ tự giải thích giao dịch dân sự

3.1. Nội dung vụ việc liên quan
Quyết định số 49/GĐT-DS ngày 24-02-2005 Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nội dung vụ việc như sau:
- Ngày 14/01/1993, bà Lê Thị Mậu và anh Nguyễn Huy Hiển với anh Nguyễn
Khắc Chiến lập hợp đồng chuyển nhượng đất vườn bằng giấy viết tay, không có xác
nhận của chính quyền địa phương.
- Về diện tích chuyển nhượng, theo bà Mẫu và anh Hiển thì diện tích chuyển
nhượng cho anh Chiến là 240m2 đất. Phía anh Chiến khẳng định bà Mậu, anh Hiển
chuyển nhượng cho anh 380m2 đất. Căn cứ vào lời khai của anh Hiển và anh Chiến,
cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì khi lập hợp đồng ngày 14/01/1993 không ghi
diện tích và tứ cận của thửa đất. Theo bản hợp đồng ngày 14/01/1993 do anh Hiển
xuất trình tại tòa án có nội dung ghi diện tích là “10T” ... 240m2.
Trong quyết định của TANDTC đã giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm, theo đó
trong số diện tích 380m2 do bà Mẫu chuyển nhượng cho anh Chiến thì 190m2 thuộc
quyền sử dụng của bà Mậu, bà Mậu có quyền chuyển nhượng, bà Mậu đã nhận tiền và
giao đất cho anh Chiến, nay bà Mậu xin hủy hợp đồng chuyển nhượng thì bà Mậu phải
chịu 100% lỗi của bà gây ra. Đối với diện tích 190m2 đất thuộc quyền sử dụng của bà
Tuất không thuộc quyền định đoạt của bà Mậu nhưng bà Mậu cố tình đưa ra bán. Anh
Chiến cũng biết phần đất đó là của bà Tuất song vẫn cố tình mua. Bà Mậu và anh Chiến
mỗi người phải chịu 50% lỗi do mình gây ra.
3.2. Một số bình luận
[7]


BLDS 2005 để bình luận về nội dung hợp đồng và phán quyết của Tòa án>
Trong vụ án này, sự bất đồng xảy ra nằm ở vấn đề soạn thảo hợp đồng không rõ
ràng, bản hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn không nêu rõ diện tích
chuyển nhượng.
Ở vụ án này, Tòa án đã sử dụng việc giải thích hợp đồng, xác định nội dung của

hợp đồng qua 2 căn cứ:
- Thứ nhất, dựa vào chính hợp đồng có tranh chấp;
- Thứ hai, dựa vào các tình tiết sau khi hợp đồng được ký kết (bao gồm các hành vi
của các bên, các sự kiện đã diễn ra…).
Hạn chế của Bộ luật dân sự 2005 về giải thích hợp đồng so với một số quy định tại
pháp luật các nước khác, dẫn tới tình trạng tòa án không thể viện dẫn được là vì Bộ luật
dân sự không đề cập đến việc sử dụng những yếu tố trước và sau khi hợp đồng được
giao kết để xác định nội dung hợp đồng
Thực tiễn cho thấy mặc dù sử dụng biện pháp liệt kê để điều chỉnh nhưng ta khó có
thể tìm được điều khoản nào phù hợp ở ví dụ này, mục tiêu của hoạt động giải thích hợp
đồng ở đây đó là bổ sung lỗ hổng, hợp đồng còn thiếu điều khoản cần bổ sung và thực tế
là không có điều khoản nào mập mờ không rõ nghĩa, ở đây Điều 409 có quy định một
trường hợp đối với lỗ hổng hợp đồng đó là bổ sung điều khoản theo tập quán theo khoản
5, tuy nhiên trong một ví dụ cụ thể thì không thể tìm được được tập quán nào, như vậy
phải sử dụng giải pháp tại Điều 121 về Giải thích giao dịch dân sự, tuy nhiên Điều
khoản này càng bộc lộ khiếm khuyết còn nghiêm trọng hơn đó là chỉ quy định trường
hợp không rõ ràng của điều khoản chứ không hề đề cập tới chức năng bổ sung lỗ hổng
của hợp đồng.
Vấn đề lớn thứ hai, đó là nếu áp dụng giải pháp là thực hiện theo cách sử dụng các
yếu tố nội tại và ngoại tại của hợp đồng và ảnh hưởng của nó đến các giai đoạn của hợp
đồng (theo cách thể hiện của UNIDROIT cũng như công ước Viên Về Hợp đồng) thì
pháp luật Việt Nam cũng không có một quy chuẩn xác định cụ thể thứ tự áp dụng các
yếu tố đó, các nguyên tắc hạn chế thẩm quyền của chủ thể giải thích không làm thay đổi
nội dung nội tại của hợp đồng, hay ý chí của các bên tham gia hợp đồng.
Vấn đề lớn thứ ba đặt ra qua ở trên đây là việc xác định ý chí, giữa một bên là xác
định ý chí thực hay ý chí tuyên bố của các bên, như vậy, tức là giải quyết vấn đề nền
tảng học thuyết trong quy định để tìm giải pháp đối với trường hợp hợp đồng thể hiện
không rõ ràng hay thiếu hụt. Cụ thể là trong trường hợp này, rõ ràng là mục đích hướng
tới của các chủ thể không đồng nhất với cách thức thể hiện ra trong hợp đồng, đồng thời
[8]



trong thực tế cách thức diễn giải của các chủ thể giải thích hợp đồng hay cách hiểu của
mỗi chủ thể là khác nhau (trong vụ việc trên đây, trong thực tế xét xử Tòa án nhân dân
tối cáo và Tòa phúc thẩm cho rằng diện tích đất chuyển nhượng là 380m2 đất trong khi
đó Tòa sơ thẩm và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng diện tích chuyển nhượng là
240m2 đất.
Vấn đề thứ tư, đối với quyết định của tòa án còn tồn tại hai điểm lớn:
(1) Tòa án cấp phúc thẩm xác định “bà Mậu, anh Hiển chuyển nhượng cho anh
Chiến 380 m2 là có cơ sở”, phán quyết này chưa đầy đủ vì trên thực tế, các căn cứ Tòa
án đưa ra là bà Mậu giao anh Hiển 380m2 đất sử dụng và anh Hiển đóng thuế đầy đủ
với 380m2 này, tuy nhiên, nếu chỉ xét vào hợp đồng các bên ký kết, rõ ràng là mỗi bên
đều có cách hiểu của riêng mình về diện tích đất, trong đó chỉ có anh Hiển cho rằng diện
tích là cả 380m2 và nộp thuế đối với phần đất này. Như vậy, tòa án đã không chỉ ra các
căn cứ chính xác để diễn giải được ý chí của các bên.
(2) Tòa án cấp phúc thẩm xác định nếu bà Mậu xin hủy hợp đồng chuyển nhượng
thì bà Mậu phải chịu 100% lỗi của bà gây ra, tuy nhiên, hợp đồng giữa bà và anh Hiển
đã được ký kết và đã có hiệu lực, được thực hiện, như vậy phán quyết xin hủy hợp đồng
chuyển nhượng của Tòa là bất hợp lý.
Như vậy, thông qua vụ án này, đã chỉ rõ hơn trường hợp bất đồng trong cách thể
hiện và ý chí thực của các bên dẫn tới nhầm lẫn trong hợp đồng (điều khoản thể hiện
diện tích đất không rõ ràng). Như vậy, đòi hỏi tòa án buộc phải tìm ý chí tuyên bố trong
đó có tính đến thực tế sử dụng mảnh đất (tức là các yếu tố ngoại tại của hợp đồng).

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh Việt Nam đang cố gắng hội nhập với nền kinh tế thế giới, các quan
hệ kinh tế đối ngoại diễn ra phức tạp, đan xen lẫn nhau thì pháp luật kinh tế nói chung
và pháp luật về dân sự riêng mà đặc biệt là đối với vấn đề về giải thích giao dịch dân sự
đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự có nội
dung không rõ ràng, khó hiểu hoặc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Do kiến thức

còn hạn chế cũng như hiểu biết còn chưa sâu kỹ nên em rất mong nhận được sự góp ý từ
phía thầy (cô). Em xin cảm ơn!

[9]


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1, Nxb. CAND, Hà
2.
3.
4.
5.

Nội, 2017;
Bộ luật Dân sự 2005;
Bộ luật Dân sự 2015;
Luật Thương mại 2005;
Các link đã truy cập:

o

/>
o

/>
o

/>
[10]



MỤC LỤC

[11]



×