Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.03 KB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO VĂN HUỲNH

PH¸P LUËT VÒ HO¹T §éNG M¤I GIíI CHøNG
KHO¸N
CñA C¤NG TY CHøNG KHO¸N

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO VĂN HUỲNH

PH¸P LUËT VÒ HO¹T §éNG M¤I GIíI CHøNG
KHO¸N
CñA C¤NG TY CHøNG KHO¸N
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THANH



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đào Văn Huỳnh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN.....................................................................................6

1.1.

Khái quát về môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán...............6

1.1.1.

Một số vấn đề về công ty chứng khoán........................................................6

1.1.2.

Hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán......................14

1.1.3.

Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật hoạt động môi giới chứng
khoán của công ty chứng khoán.................................................................21

1.2.

Pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán............................................................................................25

1.2.1.

Khái niệm pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán...............................................................................................25

1.2.2.

Nội dung chủ yếu của pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán

của công ty chứng khoán............................................................................27

1.3.

Pháp luật của một số nước về hoạt động môi giới chứng khoán của
công ty chứng khoán và bài học rút ra cho việt nam.............................40

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................45
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI
CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................46
2.1.

Pháp luật về địa vị pháp lý của chủ thể môi giới và được môi giới
chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay...............46


2.1.1.

Pháp luật về địa vị pháp lý của chủ thể môi giới chứng khoán ở Việt
Nam hiện nay.............................................................................................46

2.1.2.

Pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư chứng khoán trong hoạt động
môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay..........55

2.2.

Pháp luật về hợp đồng môi giới chứng khoán của công ty chứng

khoán ở Việt Nam hiện nay.....................................................................57

2.3.

Pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động môi giới chứng
khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay..........................60

2.3.1.

Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng.....................................................61

2.3.2.

CTCK chuyển lệnh cho đại diện của công ty tại SGDCK/TTDGCK.........62

2.3.3.

TTGDCK/SGDCK thực hiện ghép lệnh và thông báo cho công ty
chứng khoán...............................................................................................64

2.3.4.

Công ty chứng khoán thông báo kết quả cho nhà đầu tư............................64

2.3.5.

Quyết toán và hoàn tất các giao dịch..........................................................64

2.4.


Pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt động môi giới chứng khoán
của công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay......................................66

2.4.1.

Chế tài xử lý hành chính............................................................................66

2.4.2.

Chế tài xử lý dân sự...................................................................................70

2.4.3.

Chế tài xử lý hình sự..................................................................................71

2.5.

Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong hoạt động môi giới
chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay...............77

2.6.

Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt
Nam hiện nay và nguyên nhân................................................................81

2.6.1.

Đánh giá thực trạng pháp luật về môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán ở Việt Nam...........................................................................81


2.6.2.

Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về môi giới chứng khoán của
công ty chứng khoán ở Việt Nam...............................................................86

2.6.3.

Nguyên nhân của những tồn tại..................................................................87

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................91


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM...........................................................92
3.1.
Định hướng phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của công
ty chứng khoán và hoàn thiện pháp luật về hoạt động môi giới
chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam..............................92
3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán ở Việt Nam............................................................................92
3.1.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán
của công ty chứng khoán ở Việt Nam........................................................95
3.1.3. Học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới về ban hành các quy phạm
pháp luật liên quan đến hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK.............98
3.2.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động môi giới
chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam..............................99
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới chứng khoán của công ty

chứng khoán...............................................................................................99
3.2.2. Hoàn thiện một số quy định cụ thể khác về pháp luật hoạt động môi
giới chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam..........................101
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong
hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán.....................104
3.3.
Một số giải pháp tăng cường công tác thực hiện pháp luật về hoạt
động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam
.................................................................................................................105
3.3.1. Nâng cao năng lực của người làm môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán.............................................................................................105
3.3.2. Nâng cao ý thức pháp luật về hoạt môi giới chứng khoản của công ty
chứng khoán.............................................................................................105
3.3.3. Cần phải giám sát chặt chẽ các hoạt động môi giới chứng khoán của
công ty chứng khoán trên thị trường........................................................106
3.3.4. Nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp giải quyết tranh chấp trong
hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán.....................107
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3......................................................................................108
KẾT LUẬN..........................................................................................................109


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................111

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTCK:

Công ty chứng khoán

NĐT:


Nhà đầu tư

SGDCK:

Sở giao dịch chứng khoán

TTCK:

Thị trường chứng khoán

TTGDCK:

Trung tâm giao dịch chứng khoán

UBCK

Ủy ban chứng khoán

UBCKNN:

Ủy ban chứng khoán nhà nước


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Bảng 2.1.

Tên bảng
Số lượng các CTCK từ năm 2008 đến 2017


Trang
52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhắc đến TTCK không thể không nhắc đến một định chế trung gian là
CTCK. CTCK đóng một vai trò quan trọng giữa NĐT và tổ chức phát hành chứng
khoán. Vì vậy, sự tồn tại và phát triển của TTCK có sự đóng góp to lớn của các
CTCK - một chủ thể không thể thiếu trên thị trường. Song, sự phát triển của TTCK
lại là tiền đề cho sự phát triển các hoạt động của CTCK, buộc các CTCK phải phát
triển các hoạt động mới và hoàn thiện các hoạt động hiện có để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của khách hàng đặc biệt là hoạt động MGCK.
Quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình MGCK của CTCK là những quan
hệ xã hội quan trọng, phổ biến và được điều chỉnh bằng pháp luật. Các quốc gia
khác nhau có TTCK khác nhau sẽ có những quy phạm pháp luật khác nhau để điều
chỉnh và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ. Cơ sở để thực hiện MGCK là hợp
đồng môi giới. Tuy nhiên, bên cạnh hợp đồng, CTCK còn phải đảm bảo các nguyên
tắc kinh doanh như tách bạch tiền và tài sản của khách hàng và tiền, tài sản của nhà
đầu tư, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch các giao dịch trên TTCK. Thực tế
cho thấy hiện nay có nhiều hành vi vi phạm của CTCK liên quan đến hoạt động môi
giới (như các lệnh đặt mua, bán chứng khoán được nhân viên môi giới thực hiện
không dựa trên yêu cầu của khách hàng, vì vậy hiện tượng trục lợi từ tài khoản của
khách hàng thường xuyên xảy ra, gây thiệt hại cho nhà đầu tư;…)
Mặt khác, Hệ thống pháp luật về TTCK nói chung, pháp luật về hoạt động
MGCK của CTCK nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, chưa bắt kịp được sự
phát triển nhanh chóng và đa dạng của TTCK.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của
công ty chứng khoán” làm đề tài nghiên cứu. Luận văn này sẽ nghiên cứu những

quy định về một trong những nghiệp vụ kinh doanh của CTCK được hầu hết các
quốc gia có TTCK quan tâm, đó là nghiệp vụ MGCK. Hiện nay, các CTCK Việt

1


Nam cũng coi đây là hoạt động quan trọng nhất của mình vì đây là một hoạt động
tạo ra nguồn thu không nhỏ cho hầu hết các CTCK. Hoạt động MGCK cũng đóng
một vai trò quan trọng trên TTCK.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động MGCK của CTCK và pháp luật về
hoạt động MGCK của CTCK.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu pháp luật về hoạt động MGCK của CTCK ở Việt
Nam từ năm 2006 đến nay (từ khi ban hành Luật chứng khoán). Trên cơ sở đó để
đánh giá thực trạng của pháp luật về hoạt động MGCK của CTCK và thực tế
thực hiện ở Việt Nam và cũng chỉ đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật
về hoạt động MGCK của CTCK, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hệ thống hóa và hoàn thiện một số vấn
đề lý luận về pháp luật hoạt động MGCK của CTCK. Đánh giá thực trạng pháp luật
và thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động MGCK của CTCK ở Việt Nam hiện
nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về MGCK của CTCK ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động MGCK của CTCK và pháp
luật về hoạt động MGCK của CTCK.
- Phân tích, đánh giá thực trạng qua thực tiễn thực hiện những quy định của

pháp luật điều chỉnh hoạt động MGCK của CTCK ở Việt Nam hiện nay, từ đó thấy
được những điểm phù hợp, những bất cập và nguyên nhân.
- Từ việc nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực tiễn trên đưa ra được
định hướng phát triển và những giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định pháp
luật về hoạt động MGCK của CTCK ở Việt Nam.

2


4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và
các quy định pháp luật về hoạt động MGCK của TTCK.
Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về hoạt động
MGCK của TTCK và so sánh các quy định của pháp luật đó với quy định pháp luật của
một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện
các quy định pháp luật về hoạt động MGCK nói riêng và TTCK Việt Nam nói chung.
Luận văn đưa ra những kiến nghị mang tính cụ thể về hoạt động MGCK để
áp dụng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về TTCK nói riêng và
TTCK nói chung.
5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động MGCK của CTCK và pháp
luật về hoạt động MGCK của CTCK như khái niệm, đặc điểm, phân loại, …
Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật điều
chỉnh về hoạt động MGCK của CTCK ở Việt Nam trên thực tế, từ đó thấy được
những điểm bất cập và thiếu sót trong quy định pháp luật.
Từ việc nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực tiễn trên đưa ra được
phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật Việt Nam về hoạt động MGCK
của CTCK ở Việt Nam
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng; Phương pháp duy vật
lịch sử: nhằm đưa ra những đánh giá, nhận định về các quy định của pháp luật đối
với hoạt động MGCK của CTCK ở các thời điểm khác nhau và nghiên cứu các nội
dung khác trong luận văn.
Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh (Ví dụ so
sánh các văn bản pháp luật việt nam với pháp luật các nước trên thế giới về hoạt
động MGCK; So sánh về các hoạt động về MGCK của CTCK với quy định của
pháp;…), phân tích, tổng hợp, thống kê dữ liệu từ đó đưa ra những đánh giá thực
trạng về hoạt động MGCK của CTCK xuất phát từ thực trạng để nghiên cứu,…

3


6. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Trong luận án tiến sĩ với đề tài "Phát triển hoạt động của CTCK ở Việt Nam"
tác giả Lê Thị Hương Lan (2008) đề cập chi tiết về các hoạt động chính của một
CTCK và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển hoạt động của CTCK.
Trong luận án, tác giả đề cập và phân tích chuyên sâu về hoạt động của CTCK,
nhưng chưa đề cập cụ thể đến hoạt động MGCK của CTCK.
- Luận văn “Phát triển hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán
Rồng Việt” của tác giả Nguyễn Thị Như Quỳnh, bảo vệ trước hội đồng chấm luận
văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh tại Đại học Đà Nẵng năm 2011. Trong đó tác giả đã
nghiên cứu hoạt động môi giới của công ty CPCK Rồng Việt trong khoảng thời gian
từ năm 2007 đến 30/6/2010. Luận văn đã đánh giá thực trạng của công ty CPCK
Rồng Việt với một số ưu điểm như số lượng tài khoản khách hàng không ngừng
tăng, mạng lưới ngày càng mở rộng, giá trị giao dịch tăng nhưng cũng còn một số
hạn chế như thị phần thấp, số lượng tài khoản khiêm tốn, mạng lưới còn ít và kém
hiệu quả, nguồn vốn hạn chế,… Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị nhằm phát triển hoạt động môi giới của công ty CPCK Châu Á Thái Bình
Dương tại thời điểm năm 2011.

- Luận văn “Phát triển hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán
An Bình” của tác giả Phan Thị Thanh Thủy, bảo vệ tại đại học Đà Nẵng năm 2010.
Trong đó tác giả đã nghiên cứu hoạt động môi giới của công ty CPCK An Bình
trong giai đoạn tháng 11/2006 đến cuối năm 2009. Với việc đánh giá thực trạng hoạt
động môi giới của CTCK An Bình với hạn chế như thị phần thấp, mạng lưới nhỏ,
nhân viên môi giới có trình độ chưa được tốt, số lượng tài khoản giao dịch thường
xuyên ít,… Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp như mở rộng mạng lưới, tăng cường
quan hệ khách hàng, nâng cao trình độ nhân viên môi giới,… nhằm phát triển hoạt
động môi giới của công ty CPCK An Bình.
- Luận văn “Giải pháp phát triển hoạt động môi giới của công ty cổ phần
chứng khoán Thăng Long”, tác giả Nguyễn Hồng Thúy Trang, bảo vệ tại Đại học
Kinh tế Quốc dân năm 2008. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng hoạt động môi giới

4


của công ty CPCK Thăng Long trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007. Qua đó,
luận văn đã đánh giá thực trạng hoạt động môi giới tại công ty CPCK Thăng Long
với những ưu điểm như mạng lưới rộng khắp cả nước, đội ngũ môi giới đông đảo,
có trình độ,… cùng với những hạn chế như số lượng tài khoản thấp, thị phần thấp,
doanh thu từ hoạt động môi giới chưa cao… Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp
nhằm phát triển hoạt động môi giới của công ty tại thời điểm năm 2008
- Luận văn “Pháp luật về hoạt động MGCK của CTCK ở Việt Nam. Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện”, tác giả Đào Thị Cấm bảo vệ tại Khoa luật, đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2008. Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hoạt
động môi giới và thực trạng pháp luật về hoạt động MGCK của CTCK, tác giả đã
phân tích những mặt tích cực và mặt hạn chế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về hoạt động MGCK. Tuy nhiên thời điểm
tác giả nghiên cứu là năm 2008, đến nay đã có nhiều thay đổi trong quy định của
pháp luật cũng như sự thay đổi của TTCK. Luận văn của tác giả sẽ nghiên cứu

những quy định của pháp luật từ năm 2009 đến nay
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật trong hoạt động MGCK của CTCK.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động MGCK của CTCK và thực tiễn
thực hiện ở việt nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động MGCK
của CTCK ở Việt Nam.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát về môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán
1.1.1. Một số vấn đề về công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán
TTCK là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Theo các quan điểm hiện nay thì TTCK là một bộ phận quan trọng của thị trường tài
chính. Đây là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài
hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được
chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có
sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy,
xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu cho các doanh nghiệp.
Để tồn tại thì các doanh nghiệp cần vốn. Từ lâu, các nhà doanh nghiệp lớn của thế
giới đã khẳng định: không thể triển khai các dự án tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có toàn

quyền sử dụng cho những mục tiêu trung và dài hạn - Đây là kết quả từ việc huy
động vốn thông qua ngân hàng không thể đạt được. Chính vì vậy nhà nước cho
phép những doanh nghiệp được phép phát hành chứng khoán trong đó công ty cổ
phần được phát hành các loại chứng khoán rất phong phú.
Khái niệm về CTCK có thể tiếp cận theo những cách khác nhau, theo Giáo
trình TTCK, trường đại học Kinh tế quốc dân, CTCK là "một định chế tài chính
trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK" [9].
Theo giáo trình TTCK, trường đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, CTCK là
"một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán là đơn vị có tư
cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập" [23].

6


Khái niệm về CTCK ở một số nước được hiểu như sau: Theo quy định của
pháp luật chứng khoán Nhật Bản thì “CTCK là bất kỳ công ty cổ phần nào đó được
Bộ trưởng Bộ tài chính cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán”. Trong khi đó, Luật
chứng khoán Trung Quốc thì quy định “CTCK là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần làm nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, được quy định trong luật
công ty và quy định Điều 117 Luật chứng khoán” [19, tr.14]
CTCK là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập
và hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán và theo quy định của một số pháp
luật có liên quan để thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
sau theo giấy phép của Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp như: MGCK, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán [7].
Như vậy, CTCK được hiểu là một tổ chức tài chính trung gian được thành
lập theo pháp luật, thực hiện một và/hoặc một số hoạt động trênTTCK.
CTCK là một tổ chức tài chính trung gian hoạt động trên TTCK - một thị
trường có mức độ nhạy cảm cao và có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Do vậy, CTCK
thuộc loại hình kinh doanh có điều kiện, tức là để có thể tiến hành một hoặc một số các

hoạt động trên TTCK, CTCK phải đáp ứng các điều kiện do luật pháp qui định cũng
như những nguyên tắc ứng xử riêng có của ngành chứng khoán. Điều kiện này chính là
những đặc điểm khác biệt giữa hoạt động của CTCK với hoạt động của các loại hình
doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. Đặc điểm này bao gồm:
Thứ nhất, CTCK là tổ chức trung gian về giao dịch:
TTCK hoạt động với đặc điểm khác biệt với các thị trường khác là người
mua và người bán không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận giá và tiến hành giao
dịch, mà họ phải giao dịch thông qua hệ thống các CTCK. CTCK có nhiệm vụ nhận
lệnh của người mua và người bán, sau đó nhập các lệnh này vào hệ thống. Hệ thống
sẽ tự động so khớp các lệnh với nhau, cuối cùng sẽ đưa ra một mức giá khớp tốt
nhất với một khối lượng khớp nhất định.
Thứ hai, CTCK là trung gian cung cấp thông tin:
CTCK với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, cùng với đội ngũ nhân viên có

7


trình độ cao trong việc thu thập xử lý và phân tích thông tin liên quan đến chứng
khoán thành những thông tin có ích, phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư của
CTCK cũng như của NĐT. CTCK sẽ cung cấp thông tin cho khách hàng thông qua
nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư… Nhờ đó, khách hàng
có thể được sử dụng những thông tin một cách có hiệu quả với chi phí thấp hơn rất
nhiều so với việc họ tự thu thập, xử lý thông tin.
Thứ ba, CTCK là tổ chức trung gian về vốn giữa người mua và người bán:
Đặc điểm này của CTCK được thể hiện trong nghiệp vụ cho vay ứng trước,
cho vay ký quỹ… CTCK sẽ hỗ trợ vốn cho khách hàng khi khách hàng đã thực hiện
lệnh bán thành công nhưng tiền chưa kịp về tài khoản hoặc trong trường hợp khách
hàng muốn mua số chứng khoán nhiều hơn số tiền đang có dựa trên một tỷ lệ nhất
định. CTCK sẽ hưởng lãi suất trên số vốn hỗ trợ cho NĐT. Điều này sẽ giúp khách
hàng có thêm cơ hội đầu tư, đồng thời tạo thu nhập cho CTCK.

Thứ tư, CTCK có thể giảm thiểu rủi ro cho khách hàng:
Với những ưu thế về thông tin, nguồn vốn, CTCK có thể giảm thiểu rủi ro
cho khách hàng thông qua hoạt động uỷ thác đầu tư, bảo lãnh phát hành chứng
khoán. CTCK có thể tập trung vốn của khách hàng có nhu cầu, sau đó thực hiện
giảm thiểu rủi ro cho khách hàng thông qua các danh mục đầu tư hiệu quả hơn, chia
sẻ rủi ro với các tổ chức phát hành thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành.
Thứ năm, CTCK là trung gian thanh toán:
CTCK là một thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán và thành viên của
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, qua đó thực hiện chức năng của một trung gian
thanh toán. Chức năng này được thể hiện thông qua việc thanh toán giữa người mua
và người bán trên TTCK. Trên cơ sở dữ liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán và
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán gửi về, CTCK sẽ thực hiện việc hạch toán tiền và
chứng khoán cho người bán và người mua.
Thứ sáu, Đặc điểm về xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng:
CTCK cung cấp dịch vụ môi giới cho khách hàng, tuy nhiên CTCK cũng
chính là một NĐT đặc biệt thông qua hoạt động tự doanh chứng khoán. Cả CTCK

8


và khách hàng đều có chung mục tiêu khi tham gia thị trường là tìm kiếm lợi nhuận,
do đó đôi khi xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng.
Ngoài ra, giữa khách hàng và CTCK cũng xảy ra xung đột lợi ích như trên
khi CTCK vừa cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, vừa thực hiện nghiệp
vụ tự doanh chứng khoán. Xung đột lợi ích này rất dễ xảy ra khi nhân viên CTCK
không đề cao đạo đức nghề nghiệp và tư vấn bất lợi cho khách hàng nhằm thu lợi
cho CTCK. Đặc điểm này tạo ra sự khác biệt trong hoạt động của CTCK với các
doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác.
Thứ bẩy, CTCK là tổ chức kinh doanh có điều kiện, thể hiện bởi các yếu tố:
- Điều kiện về vốn

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thương mại
không bị các ràng buộc về vốn pháp định. Tuy nhiên, do hoạt động của CTCK
không chỉ ảnh hưởng tới chính CTCK mà còn ảnh hưởng đến một bộ phận rất lớn
NĐT, vì vậy pháp luật các nước đều đưa ra quy định về vốn pháp định đối với các
CTCK nhằm đảm bảo các CTCK khi thành lập đều là các công ty có tiềm lực tài
chính, qua đó bảo vệ lợi ích cho NĐT.
Ở mỗi nước việc qui định mức vốn này có thể chung cho một CTCK khi tiến
hành đăng ký thành lập (không kể CTCK đó thực hiện một, hai hay tất cả các hoạt
động trên TTCK), ví dụ như Hàn quốc, mức vốn tối thiểu cho một CTCK là 50 tỷ
won, hoặc có thể qui định riêng cho từng loại hình kinh doanh cụ thể (Ở Việt Nam,
theo Luật Chứng khoán có hiệu lực từ 01/01/2007, sửa đổi bổ sung Luật Chứng
khoán ngày 24/10/2010 có hiệu lực từ ngày 01/07/2011, mức vốn pháp định cho
hoạt động môi giới là 25 tỷ VNĐ; tự doanh là 100 tỷ VNĐ, bảo lãnh phát hành là
165 tỷ VNĐ, tư vấn đầu tư là 10 tỷ VNĐ).
- Điều kiện về chuyên môn hoá và nhân sự
Nếu như ở các doanh nghiệp sản xuất, giữa các khâu trong quá trình sản xuất
sản phẩm phải có mắt xích kết nối và sản phẩm ra đời đều trải qua tất cả các công
đoạn, không được phép thiếu một công đoạn nào thì tại CTCK, mỗi nghiệp vụ đều
có những đặc điểm riêng trong hoạt động. Đối với hoạt động môi giới và tư vấn đầu

9


tư thì khách hàng chủ yếu là các cá nhân nhỏ lẻ và mục tiêu của họ là tìm kiếm lợi
nhuận trên TTCK. Ngược lại, đối với hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp thì
khách hàng chủ yếu lại là các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng các dịch vụ cổ phần
hoá, tái cấu trúc, phát hành, niêm yết, M&A… Như vậy, giữa các bộ phận trong
CTCK có sự chuyên môn hoá và độc lập tương đối.
Các nghiệp vụ của CTCK đều là những nghiệp vụ phức tạp, có độ rủi ro cao,
ảnh hưởng tới NĐT và TTCK, do đó đòi hỏi các cán bộ và nhân viên làm việc trong

CTCK phải là những người có năng lực, trình độ, kinh nghiệm và am hiểu về lĩnh
vực tài chính cũng như pháp luật. Pháp luật về chứng khoán cũng đưa ra yêu cầu
cán bộ làm việc tại CTCK khi thực hiện các nghiệp vụ cần có chứng chỉ hành nghề
tương ứng để đảm bảo kiến thức, trình độ khi thực hiện nghiệp vụ với khách hàng.
Đặc biệt là vấn đề đội ngũ lãnh đạo tại CTCK: Yêu cầu về đội ngũ lãnh đạo
trong bất kỳ lĩnh vực nào đều phải có kiến thức chuyên môn, có đạo đức trong
kinh doanh, không vi phạm pháp luật và có trình độ quản lý. Yêu cầu về đội ngũ
lãnh đạo ở các CTCK cũng như vậy. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực chứng khoán,
ngoài những yêu cầu trên, đội ngũ lãnh đạo ở các CTCK còn phải có chứng chỉ
hành nghề và phải có giấy phép đại diện do cơ quan có thẩm quyền cấp. Và yêu
cầu đối với đội ngũ lãnh đạo về trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác phải cao
hơn đội ngũ nhân viên.
- Điều kiện về cơ sở vật chất
Để có thể đăng ký làm thành viên của SGDCK, các CTCK đều phải đáp ứng
được các yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật và hệ thống phần mềm nhằm đảm bảo việc kết
nối và giao dịch được thông suốt. Qua đó đảm bảo lợi ích của NĐT cũng như không
ảnh hưởng tới giao dịch chung trên SGDCK. Điều kiện về cơ sở vật chất cũng là
một rào cản đáng kể với các công ty có ý định gia nhập vào lĩnh vực chứng khoán,
bởi ngoài chi phí đầu tư ban đầu lớn, các CTCK còn phải bỏ ra các chi phí bảo trì và
nâng cấp hệ thống thường xuyên.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của CTCK còn là hệ thống các trang
thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình truyền lệnh của khách hàng, thông báo kết

10


quả giao dịch cũng như giúp khách hàng kiểm tra số dư tài khoản hoặc tìm kiếm
thông tin… Ngoài ra, khi thị trường chưa được phi vật chất hoá chứng khoán thì
CTCK cũng cần phải đảm bảo điều kiện về hệ thống kho két để đảm bảo lưu giữ an
toàn chứng khoán cho các NĐT.

1.1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán
Dựa vào loại hình tổ chức, hiện nay có hai loại hình tổ chức CTCK, đó là:
- Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở
hữu là cổ đông. Và các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Loại hình công ty này đòi hỏi trách nhiệm
của các thành viên giới hạn trong số vốn họ đã góp vào công ty.
Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có quy chế pháp lý về tổ
chức hoạt động chặt chẽ nên việc tuân thủ chế độ thông tin và báo cáo khá chặt chẽ.
Phân loại theo hình thức kinh doanh
- Công ty MGCK: là CTCK chỉ thực hiện việc trung gian, mua bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
- Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán là CTCK có lĩnh vực hoạt động
chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
- Công ty kinh doanh chứng khoán là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự
doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
- Công ty trái phiếu là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
- CTCK không tập trung là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường
OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo thị trường.
Dựa vào mô hình tổ chức có thể chia CTCK thành hai loại hình như sau:
- CTCK đa năng: Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một
tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp, bao gồm: kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là
chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh tiền tệ. Mô hình này lại
được thể hiện dưới hai hình thức sau:

11


- Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh

doanh bảo hiểm thì phải thành lập công ty con, hạch toán độc lập và hoạt động tách rời
với kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được gọi là mô hình kiểu Anh, Canada, Úc.
- Loại đa năng hoàn toàn: Theo mô hình này, các ngân hàng được phép trực
tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như
dịch vụ tiền tệ khác. Đây là mô hình kiểu Đức.
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hóa, kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, từ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh và khả năng chịu
đựng các biến động TTCK khá cao. Tuy nhiên hạn chế của mô hình này là tính
chuyên sâu không cao điều này làm cho TTCK kém phát triển do các ngân hàng vừa
là tổ chức tín dụng lại vừa kinh doanh chứng khoán. Mà các ngân hàng lại có xu
hướng thích nghiệp vụ cho vay hơn là thực hiện nghiệp vụ chứng khoán như: bảo
lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán….
Ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại còn khá nhỏ, đặc biệt là khả năng
huy động vốn dài hạn rất thấp mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại
ngắn hạn, trong khi hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Chính vì vậy,
để đảm bảo cho hoạt động của các ngân hàng và TTCK, pháp luật về TTCK quy
định các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách một phần
vốn tự có của mình ra thành lập một CTCK chuyên doanh trực thuộc nhưng hạch
toán độc lập với ngân hàng.
Công ty chuyên doanh chứng khoán: Theo mô hình này, hoạt động kinh
doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực
chứng khoán đảm nhận; các ngân hàng không được trực tiếp tham gia kinh doanh
chứng khoán. Mô hình này có ưu điểm là hạn chế sự rủi ro cho các ngân hàng; đồng
thời tạo sự chuyên môn hóa cao cho TTCK. Mô hình này được phát triển tại Mỹ,
Nhật, Canada … Xu thế hiện nay các nước đang tiến tới bỏ dần hàng rào ngăn cản
giữa kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, hiện nay, các nước trên thế giới Có xu hướng hình thành các
tập đoàn tài chính khổng lồ. Chính vì vậy TTCK cũng phải trở nên linh hoạt

12



hơn có nghĩa là cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như chứng khoán, bảo
hiểm, tiền tệ……
1.1.1.3. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty chứng khoán
Hoạt động chính của CTCK bao gồm: hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh
phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn tài chính. Các hoạt động này có thể
được chia thành hai mảng hoạt động chính đó là hoạt động tự doanh và hoạt động
cung cấp dịch vụ chứng khoán (bao gồm các hoạt động còn lại của CTCK).
- MGCK: MGCK là hoạt động mà CTCK làm trung gian thực hiện lệnh mua
bán chứng khoán cho khách hàng – NĐT. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa NĐT bán chứng khoán
với NĐT mua chứng khoán.
- Tự doanh chứng khoán: Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch
mua bán chứng khoán cho chính mình nhằm thu lợi nhuận. Vì vậy trong quá trình hoạt
động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa việc giao dịch cho khách hàng và bản thân
công ty. Khác với nghiệp vụ môi giới CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho
khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh CTCK kinh doanh bằng
chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và đội ngũ
nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư
hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường.
- Quản lý danh mục đầu tư: Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý
vốn của khách hàng thông qua việc bán và giữ các chứng khoán của khách hàng vì
quyền lợi của khách hàng theo hợp đồng bằng văn bản với khách hàng với mục đích
làm cho vốn của khách hàng đạt mức sinh lời tối ưu nhất. Khách hàng sẽ không trực
tiếp thực hiện đầu tư mà ủy quyền cho CTCK đầu tư thay mình, đồng thời có nghĩa
vụ thanh toán cho CTCK một khoản phí tính trên phần vốn của khách hàng mà công
ty quản lý dù danh mục có lãi hay không.
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có
chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán

chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán

13


trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Tổ chức phát hành sẽ phải trả cho CTCK phí
bảo lãnh. Mức phí này phụ thuộc vào chất lượng, quy mô của đợt phát hành và tình
hình cụ thể của thị trường.
- Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Tư vấn đầu tư chứng khoán là các
hoạt động tư vấn liên quan đến chứng khoán như cung cấp cho NĐT kết quả phân
tích, công bố phát hành các báo cáo phân tích, hoặc khuyến nghị có liên quan đến
chứng khoán có thu phí. Phí tư vấn thường được tính trên tỷ lệ phần trăm doanh số
giao dịch chứng khoán của khách hàng.
- Các hoạt động phụ trợ: Bên cạnh các hoạt động chính nêu trên, CTCK còn
cung cấp các hoạt động phụ trợ khác như phân tích đầu tư, lưu ký chứng khoán,
quản lý thu nhập của khách hàng, nghiệp vụ tín dụng,…
Pháp luật một số nước quy định rõ nhiệm vụ kinh doanh chứng khoán nào
CTCK được phép thực hiện, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nào cấm được thực
hiện (Ví dụ Luật Chứng khoán Trung Quốc). Điều này nhằm tránh mâu thuẫn, xung
đột lợi ích giữa các hoạt động kinh doanh chứng khoán và hạn chế sự xâm phạm tới
quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT chứng khoán. Bên cạnh đó, cũng có nước cho
phép CTCK được thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nhưng
phải đảm bảo tách biệt các nghiệp vụ này (Ví dụ ở Việt Nam, Mỹ). Điểm chung
nhất trong pháp luật chứng khoán của hầu hết các nước đều có quy định kinh doanh
chứng khoán là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, để kinh doanh chứng
khoán, CTCK phải thỏa mãn những điều kiện luật định và được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Ở Việt Nam, điều kiện, thủ
tục cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho đến thời điểm hiện nay đã có
những cải cách nhất định (trước khi ban hành Luật chứng khoán, CTCK phải xin
cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán và đăng ký kinh doanh theo quy định của

Luật Doanh nghiệp) [20, tr.179].
1.1.2. Hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán
1.1.2.1. Khái niệm về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học: “Môi giới được hiểu là người

14


làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc, giao thiệp với nhau”. Còn khái niệm chứng
khoán được hiểu như sau: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành”.
Như vậy, MGCK là việc CTCK làm trung gian để khách hàng có thể thực
hiện việc mua, bán chứng khoán của các tổ chức phát hành. Luật chứng khoán định
nghĩa: “MGCK là việc CTCK làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho
khách hàng”. MGCK được hiểu là hoạt động của CTCK và của nhân viên môi giới
trong sự tương quan chặt chẽ với nhau và với một đối tác chung là khách hàng –
NĐT để tác động vào sự vận hành và phát triển của TTCK. Hoạt động môi giới là
một giao dịch kinh doanh của một CTCK, trong đó CTCK đại diện cho khách hàng
tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hay trên thị trường OTC
mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết quả khi đưa ra quyết định giao
dịch đó và phải trả một khoản phí gọi là phí giao dịch cho CTCK.
Đối với CTCK, các hoạt động xuất hiện theo những nhu cầu của NĐT và
theo sự phát triển của thị trường. Hoạt động môi giới được xem là hoạt động xuất
hiện đầu tiên đồng thời là hoạt động cơ bản nhất trong số các hoạt động mà một
CTCK tiến hành triển khai. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ đảm đương
vai trò là nhà trung gian giúp cho NĐT thực hiện việc mua bán chứng khoán. CTCK
với lợi thế có mạng lưới thông tin rộng khắp trên cả thị trường chính thức lẫn phi
chính thức có thể cung cấp cho NĐT một bức tranh toàn cảnh về TTCK và giúp
khách hàng có thể mua bán được chứng khoán ở bất kỳ thị trường nào.
PGS. TS. Lê Thị Thu Thủy cũng đưa ra nhận định của mình về hoạt động MGCK

của CTCK như sau: “Hoạt động MGCK của CTCK là hoạt động kinh doanh chứng
khoán, theo đó một CTCK đại diện cho khách hàng thực hiện giao dịch chứng khoán
thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC và chính
khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả của việc giao dịch đó” [19].
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về hoạt động MGCK của CTCK như sau:
Hoạt động MGCK của CTCK là hoạt động kết nối giữa những người cần mua và
những người cần bán chứng khoán mà ở đó CTCK đóng vai trò làm trung gian thực
hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng.

15


×