Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Dẫn hiện trường cho phóng sự trong bản tin thời sự truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------

NGUYỄN MINH PHƢƠNG

DẪN HIỆN TRƢỜNG CHO PHÓNG SỰ TRONG
BẢN TIN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội-2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN MINH PHƢƠNG

DẪN HIỆN TRƢỜNG CHO PHÓNG SỰ TRONG
BẢN TIN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC

Luận văn Thạc sĩ Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ QUANG HÀO

Hà Nội- 2017



LỜI CẢM ƠN
Thực hiện Luận văn “Dẫn hiện trƣờng cho phóng sự trong bản tin thời
sự truyền hình” tôi đã nhận đƣợc nhiều sự động viên, quan tâm, giúp đỡ nhiệt
tình của các thầy cô, các đồng nghiệp.
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS.TS. Vũ
Quang Hào, ngƣời đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn và giúp tôi kết nối với các
Đài truyền hình trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã giảng dạy lớp Cao học Báo
chí khóa 2015 đã truyền dạy, cập nhật những tri thức quý báu, làm nền tảng
vững chắc để nghiên cứu về chuyên ngành Báo chí học, giúp tôi có thêm kiến
thức, lý luận phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các nhà báo, phóng viên, biên tập viên tại
Đài Truyền hình Việt Nam và một số Đài truyền hình địa phƣơng, các anh chị
em đồng nghiệp đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp có thêm kiến thức, số liệu, kinh
nghiệm và thông tin thiết thực để thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng song luận văn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả
kính mong nhận đƣợc sự góp ý, chỉ bảo của các thầy, cô giáo cùng các bạn
đọc quan tâm.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Minh Phƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu, khảo sát, số liệu công bố trong luận văn là chính xác, trung
thực và không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã đƣợc công bố
trƣớc đây. Nếu sai phạm, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.


Học viên

Nguyễn Minh Phƣơng


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.2.1: Khảo sát về tỷ lệ phóng viên đƣợc đào tạo nghiệp vụ dẫn
hiện trƣờng
Bảng 2.2.2 Thống kê phóng sự trong bản tin thời sự 12 giờ (thời lƣợng
30 phút) của VTV có dẫn hiện trƣờng theo từng tháng của Đài Truyền hình
Việt Nam
Bảng 2.2.3 Tỷ lệ dẫn hiện trƣờng (đầu, giữa, cuối phóng sự) trong
phóng sự 12 giờ của VTV
Bảng 2.2.4 Thống kê phóng sự trong bản tin thời sự 19 giờ ( thời lƣợng
45 phút ) của VTV có dẫn hiện trƣờng theo từng tháng của Đài Truyền hình
Việt Nam
Bảng 2.2.5 Tỷ lệ dẫn hiện trƣờng (đầu, giữa, cuối phóng sự) trong
phóng sự 19 giờ của VTV
Bảng 2.2.6 Thống kê phóng sự trong bản tin thời sự 19h45 (thời lƣợng
30 phút) có dẫn hiện trƣờng theo từng tháng của Đài Phát thanh và Truyền
hình Hải Phòng
Bảng 2.2.7 Tỷ lệ dẫn hiện trƣờng (đầu, cuối, giữa) trong phóng sự bản
tin thời sự 19h45 của Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ 3
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. 4
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................................. 5

PHẦN MỞ ĐẦU: .................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:............................................................................................. 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu ...................................................................................................... 4
3.2 Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................... 4
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 4
4.1 Mục đích .......................................................................................................................... 4
4.1 Nhiệm vụ.......................................................................................................................... 5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
5.1 Cơ sở lý luận .................................................................................................................... 5
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................................. 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài............................................................................... 6
6.2 Ý nghĩa thực tiễn .............................................................................................................. 6
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................................ 7
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................ 8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO DẪN HIỆN TRƢỜNG TRONG PHÓNG SỰ BẢN
TIN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH ............................................................................................ 8
1.1 Một số khái niệm ........................................................................................................ 8
1.2 Các yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động dẫn tại hiện trƣờng trong phóng
sự thời sự truyền hình .......................................................................................................... 36
CHƢƠNG 2: DẪN HIỆN TRƢỜNG TRONG PHÓNG SỰ THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH Ở
VIỆT NAM .......................................................................................................................... 41
2.1 Xu thế dẫn hiện trƣờng cho truyền hình ở Việt Nam ............................................... 41
2.2 Thực trạng dẫn hiện trƣờng trong phóng sự thời sự ...................................................... 45
2.3 Về nội dung dẫn hiện trƣờng trong các phóng sự thời sự:............................................. 54
2.4 Về hình thức dẫn hiện trƣờng ........................................................................................ 60
2.5 Về thời lƣợng dẫn hiện trƣờng .................................................................................. 61
2.6 Vị trí xuất hiện của phóng viên dẫn hiện trƣờng trong phóng sự thời sự ...................... 62
2.7 Về trang phục của phóng viên, biên tập viên xuất hiện tại hiện trƣờng .................................. 64

2.8 Về ngôn ngữ cơ thể: ....................................................................................................... 65
2.9 Về giọng nói................................................................................................................... 69
2.10 Về văn phong ............................................................................................................... 70
2.11 Về phong cách nói ....................................................................................................... 71
2.12 Xây dựng kịch bản ....................................................................................................... 72
2.13 Kỹ năng làm việc nhóm ............................................................................................... 72
CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁCH THỨC VÀ KỸ NĂNG DẪN HIỆN TRƢỜNG CHO
PHÓNG SỰ BẢN TIN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH ........................................................... 75
3.1 Cách thức và kỹ năng dẫn hiện trƣờng trong phóng sự thời sự truyền hình .................. 75
3.2 Những vấn đề đặt ra trong các chƣơng trình tƣơng tác ................................................. 80
3.3 Những yêu cầu đối với ngôn ngữ của ngƣời dẫn hiện trƣờng trong phóng sự bản tin
thời sự .................................................................................................................................. 82
3.4 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dẫn hiện trƣờng trong phóng sự bản tin thời sự. ... 88
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
Đối với mỗi một kênh truyền hình địa phƣơng, chƣơng trình thời sự chỉ
chiếm một thời lƣợng khiêm tốn nhƣng lại là chƣơng trình quan trọng nhất
của một đài, tốn nhiều công sức, chi phí và nguồn nhân lực nhất để thực hiện.
Đây cũng là nơi tập trung cao nhất, cập nhật nhất nguồn thông tin phong phú
thuộc mọi lĩnh vực khác nhau trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của mỗi địa phƣơng. Thời sự còn đƣợc đánh giá là một trong những
chƣơng trình thu hút đƣợc lƣợng công chúng lớn của truyền hình địa phƣơng.
Trong mỗi chƣơng trình thời sự, phóng sự là những câu chuyện có vấn
đề và đọng lại với ngƣời xem nhiều hơn, tạo ra điểm nhấn cho bản tin nhiều
hơn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, khi xem chƣơng trình thời sự truyền hình
địa phƣơng, công chúng có thể dễ dàng bắt gặp những phóng sự truyền thống

kiểu “báo cáo trám hình” rồi thêm tiếng động và phỏng vấn, gây sự nhàm
chán và khó để lại ấn tƣợng cho ngƣời xem. Do đó trong những năm gần đây,
để cải thiện chất lƣợng và thu hút ngày càng nhiều công chúng đến với bản tin
thời sự, các biên tập viên, phóng viên buộc phải thay đổi tƣ duy trong việc sản
xuất phóng sự. Trong đó, dẫn hiện trƣờng trong phóng sự nhƣ một làn gió
mới khiến cho các phóng sự có thêm sức sống, thêm sinh động và gần gũi hơn
với khán giả. Dẫn hiện trƣờng là một hình thức thể hiện hiệu quả của truyền
hình hiện đại. Sự xuất hiện của phóng viên truyền hình tại địa điểm diễn ra sự
kiện làm tăng sự tin cậy của công chúng. Sự hiện diện của phóng viên tại hiện
trƣờng các vụ hỏa hoạn, lũ lụt, tai nạn giao thông hoặc tại vùng đang có chiến
sự làm tăng tính chân thực của phóng sự
Hiện nay, trong các bản tin thời sự, dù là của trung ƣơng hay địa
phƣơng, dù là kinh tế, sức khỏe, thiên tai hay văn hóa đều có ít nhất một
phóng sự có xuất hiện hiện trƣờng. Có thể nói dẫn hiện trƣờng trở thành một
1


xu thế khá mạnh trong sản xuất phóng sự truyền hình. Bên cạnh đó, trong bối
cảnh bùng nổ thông tin và sự phát triển mạnh mẽ của các phƣơng tiện truyền
thông cũng tạo sức cạnh tranh lớn giữa các loại hình báo chí với nhau. Đặt ra
cho những ngƣời làm truyền hình phải thay đổi cách thức sản xuất chƣơng
trình, thay đổi cách thức sản xuất các phóng sự thời sự sao cho hấp dẫn hơn,
gần gũi và tƣơng tác nhiều hơn với khán giả truyền hình. Tuy nhiên, việc dẫn
hiện trƣờng cho phóng sự cũng đặt ra một loạt vấn đề cả về lý thuyết và
thực tiễn sản sản xuất, rất cần đƣợc nghiên cứu để đề xuất những cách
thức, kỹ năng giúp cho ngƣời phóng viên dẫn hiện trƣờng hiệu quả hơn.
Hiện cũng chƣa có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về vấn đề dẫn hiện
trƣờng trong phóng sự truyền hình. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về xu
hƣớng, thực trạng, kỹ năng dẫn hiện trƣờng trong phóng sự truyền hình, tác
giả mạnh dạn đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng bản tin thời

sự, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: Dẫn hiện trường cho phóng sự trong
bản tin thời sự truyền hình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay đã có khá nhiều sách, giáo trình, công trình nghiên cứu về
chƣơng trình thời sự truyền hình và có nội dung liên quan đến sản xuất
chƣơng trình thời bản tin thời sự truyền hình nhƣ:
- Sản xuất chƣơng trình truyền hình của tác giả Trần Bảo Khánh, Nhà
xuất bản Văn hóa- Thông tin, năm 2003: sách đi sâu vào nghiên cứu về quy
trình sản xuất một chƣơng trình truyền hình…
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Thái Kim Chung, Phóng sự chƣơng trình
thời sự Đài Truyền hình Việt Nam (khảo sát chƣơng trình thời sự 19h của Đài
truyền hình Việt Nam từ tháng 1/2004 đến tháng 6/2005),

2


- Nhà báo Huỳnh Dũng nhân có hai cuốn Phóng sự- từ giảng đƣờng đến
trang viết, NXB Thông tấn, năm 2009 và Để viết phóng sự thành công, NXB
Thông tấn năm 2012
- Giáo trình “Phóng sự truyền hình” của TS. Nguyễn Ngọc Oanh và
Ths.Lê Thị Kim Thanh, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2014 đề cập đến những vấn đề chung về phóng sự và phóng sự truyền
hình; kỹ năng sáng tạo tác phẩm phóng sự truyền hình; hệ thống bài tập thực
hành dành cho sinh viên. Cho đến thời điểm nay đây là giáo trình đƣợc coi là
hoàn chỉnh về phóng sự truyền hình những cũng chỉ đề cập đến phóng sự
truyền hình chứ không đi vào cụ thể về phóng sự truyền hình có dẫn hiện
trƣờng.
- Cuốn “Phóng sự báo chí hiện đại” do TS Đức Dũng sƣu tầm, tuyển
chọn và giới thiệu là một trong những cuốn sách đƣợc đông đảo những ngƣời
làm nghề báo yêu thích. Cuốn sách giới thiệu sự ra đời, phát triển của phóng

sự, các quan niệm về phóng sự, những đặc điểm của phóng sự, những xu
hƣớng của phóng sự. Trong cuốn sách tác giả cũng giới thiệu tới độc giả 30
bài phóng sự báo chí tiêu biểu đƣợc chia theo các dạng nhƣ phóng sự phỏng
vấn, phóng sự chân dung, phóng sự sự kiện, phóng sự điều tra, phóng sự về
hoàn cảnh, hiện trạng.
Bên cạnh các giáo trình đang đƣợc dùng để giảng dạy tại các trƣờng
đào tạ báo chí chính quy, một số cuốn sách đƣợc viết bằng chính kinh nghiệm
thực tế của những ngƣời làm truyền hình có uy tín trong nƣớc và quốc tế cũng
là nguồn tài liệu bổ ích, cung cấp những góc nhìn mới về lý luận, thực tiễn
trong hoạt động sản xuất và sử dụng phóng sự ngắn truyền hình. Nhìn chung,
tất cả các tài liệu trên đều liên quan đến thể loại phóng sự truyền hình và cách
thực hiện phóng sự truyền hình, nhƣ cuốn “Ký giải chuyên nghiệp” của Jonh
Hohenberg do Hội bảo trợ Việt- Mỹ ấn hành; cuốn “Sổ tay phóng viên: tin và
3


phóng sự truyền hình” của tác giả Neil Everton do quỹ Rueter xuất bản; cuốn
“Một ngày thời sự truyền hình” của tác giả Lê Hồng Quang do Hội Nhà báo
Việt Nam xuất bản; cuốn “Phóng sự truyền hình” của hai tác giả Brigitte Bese
và Didier Desormeaux do Nhà xuất bản Thông tấn phát hành…. Tuy nhiên
việc đề cập cụ thể, chi tiết đến vấn đề dẫn hiện trƣờng trong phóng sự thời sự
thì hầu nhƣ không đề cập tới. Từ tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy đây
là lĩnh vực nghiên cứu khá mới mẻ nên tác giả mạnh dạn nêu lên thực
trạng, hạn chế cũng nhƣ đề xuất những cách thức và kỹ năng dẫn hiện
trƣờng cho phóng sự trong bản tin thời sự truyền hình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu việc dẫn hiện trƣờng cho phóng sự truyền hình mà chủ yếu là
phóng sự ngắn trong các bản tin thời sự truyền hình ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu

Khảo sát phóng sự ngắn có dẫn hiện trƣờng trong các bản tin thời sự lúc
12 giờ và 19 giờ hàng ngày trên kênh VTV1 (Đài Truyền hình Việt Nam) và
bản tin thời sự lúc 19 giờ 45 phút trên kênh THP (Đài Phát thanh và Truyền
hình Hải Phòng) từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 11 năm 2016.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Đánh giá hoạt động dẫn hiện trƣờng của phóng viên với tƣ cách là tác giả
của phóng sự ngắn, cũng nhƣ nhận diện những thành công và hạn chế của
hoạt động này thông qua việc phân tích điểm mạnh và điểm yếu của phóng sự
có dẫn hiện trƣờng.
Xây dựng bộ kỹ năng dẫn hiện trƣờng cho phóng sự ngắn thời sự truyền
hình ở nƣớc ta.

4


4.1 Nhiệm vụ
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn sản xuất phóng sự ngắn
có dẫn hiện trƣờng
Xác định tầm quan trọng và hiệu quả của dẫn hiện trƣờng đối với phóng
sự ngắn thời sự.
Nhận diện các nguyên tắc và điều kiện dẫn hiện trƣờng cho phóng sự thời
sự.
Phân tích thành công và hạn chế hoạt động dẫn hiện trƣờng trong phóng
sự thời sự thông qua việc phân tích loạt phóng sự trong các bản tin thời sự
trên kênh VTV1 (Đài Truyền hình Việt Nam) và THP (Đài Phát thanh và
Truyền hình Hải Phòng).
Rút ra một số thao tác, kỹ năng cơ bản và cần thiết đối với việc dẫn hiện
trƣờng, từ đó xây dựng bộ kỹ năng dẫn hiện trƣờng cho phóng sự thời sự ở
Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
- Phân tích loạt phóng sự ngắn truyền hình trên kênh VTV1 (Đài Truyền
hình Việt Nam) và kênh THP (Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng) để
đánh giá điểm mạnh, điểm yếu cũng nhƣ ảnh hƣởng hay tác động của nó đối
với công chúng.
- Đề xuất những cách thức, kỹ năng dẫn hiện trƣờng phù hợp với nội dung
phóng sự, phù hợp với công chúng mục tiêu và với năng lực của phóng viên.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã thực hiện một số phƣơng pháp nhƣ:
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu đƣợc sử dụng để tập hợp những tài
liệu liên quan đến khung lý thuyết về phóng sự truyền hình và dẫn hiện
trƣờng trong phóng sự truyền hình. Tìm hiểu kết quả một số công trình nghiên
5


cứu để đối chiếu và tham khảo trong khuôn khổ luận văn này, làm cơ sở cho
việc đánh giá các kết quả khảo sát.
- Phƣơng pháp phân tích dùng để phân tích các chƣơng trình bản tin thời
sự trong diện khảo sát. Kết quả này là cơ sở khoa học cho việc đƣa ra các kỹ
năng để thực hiện phóng sự truyền hình có dẫn hiện trƣờng.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn một số phóng viên có nhiều
kinh nghiệm trong việc xuất hiện hiện trƣờng trong các phóng sự thời sự để
lắng nghe những chia sẻ, kinh nghiệm, kỹ năng trong sản xuất các phóng sự
dẫn hiện trƣờng
- Phƣơng pháp khảo sát dùng để dẫn số liệu về các yêu cầu của khán giả
truyền hình với một số tiêu chí đối với phóng viên dẫn hiện trƣờng trong
phóng sự thời sự truyền hình; khảo sát số % phóng viên đã từng qua và chƣa
từng qua lớp đào tạo nghiệp vụ về dẫn hiện trƣờng trong phóng sự thời sự
truyền hình.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài luận văn có những đóng góp nhất định cả về phƣơng tiện lý luận
lẫn vận dụng trong hoạt động thực tiễn.
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn đƣợc nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm phong phú hơn
những tri thức truyền hình nói chung về kỹ năng phƣơng pháp dẫn tại hiện
trƣờng của phóng viên trong phóng sự truyền hình nói riêng.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Thứ nhất, thông qua luận văn, khẳng định dẫn hiện trƣờng trong phóng
sự đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lƣợng cho phóng sự
nói riêng và cho bản tin thời sự nói chung.

6


Thứ hai, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn đƣa ra một số giải
pháp nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả trong việc áp dụng dẫn
hiện trƣờng cho từng loại phóng sự khác nhau.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
phần Nội dung của khóa luận gồm 3 chƣơng
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận cho dẫn hiện trƣờng phóng sự bản tin thời
sự truyền hình
Chƣơng 2: Dẫn hiện trƣờng trong phóng sự thời sự ở Việt Nam
Chƣơng 3: Đề xuất cách thức và kỹ năng dẫn hiện trƣờng cho
phóng sự thời sự truyền hình

7



PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO DẪN HIỆN TRƢỜNG TRONG
PHÓNG SỰ BẢN TIN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Phóng sự truyền hình
Theo các nhà nghiên cứu về báo chí và truyền thông, khái niệm “phóng
sự” lần đầu tiên đƣợc ngƣời Anh sử dụng. Ban đầu phóng sự đƣợc ngƣời Anh
dùng để mô tả về các đám cháy, những trận lụt, những kỳ họp quốc hội…Sau
đó trên báo Pháp cũng xuất hiện những phóng sự với tƣ cách là các bài viết về
quá trình điều tra của phóng viên về những con ngƣời. Một sản phẩm có thể
coi là phóng sự truyền hình đầu tiên đƣợc Hãng Phát thanh và Truyền hình
Anh quốc (BBC) thực hiện vào năm 1937 nhân lễ đăng quang của vua Geoge
VI. Kể từ đó cho đến nay, phóng sự truyền hình đã phát triển nhƣ một thể loại
tất yếu của truyền hình. Mặc dù vậy, quan niệm về phóng sự truyền hình vẫn
tồn tại với rất nhiều những ý kiến và quan điểm khác nhau. Từ khi ra đời, thể
loại này đƣợc khai thác ở nhiều khía cạnh. Ví dụ, ngƣời Đức, những ngƣời
nổi tiếng về sự chính xác và logic trong tƣ duy thì coi phóng sự chỉ đơn giản
là sự đưa tin. Ngƣời Pháp, những ngƣời hài hƣớc, tế nhị thì coi phóng sự là
điều tra. Còn ngƣời Mỹ, những ngƣời nổi tiếng thực dụng thì lại xem phóng
sự hấp dẫn ở chỗ có thể mô tả, tường thuật các cuộc họp.
Trong giáo trình “Nghiệp vụ báo chí” - tập 2 (Khoa báo chí trƣờng
Tuyên huấn Trung ƣơng trƣớc đây): “Phóng sự đƣợc định nghĩa là một trong
những thể tài thông tin quan trọng của báo, có ít nhiều đặc trƣng văn học,
phản ánh sự kiện xảy ra có thể kết hợp nghị luận, nhằm nêu lên phẩm chất
tinh thần của con ngƣời và toàn bộ xã hội theo một hệ thống quan điểm và
đƣờng lối chính trị nhất định”. Quan niệm này xác định phóng sự là thể tài

8



thông tin quan trọng, gần gũi với văn học. Phóng sự không chỉ đơn thuần là
miêu tả, tƣờng thuật sự việc mà còn kết hợp với lý lẽ, đánh giá. Các sự kiện
đƣợc đề cập đến trong phóng sự là những sự kiện có ý nghĩa chính trị xã hội.
Theo Đức Dũng, tác giả cuốn Phóng sự Báo hiện đại: “Phóng sự là thể
loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bày, diễn tả sự kiện, con
ngƣời, tình huống điển hình trong một quá trình phát sinh phát triển dƣới dạng
một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát, vừa chi tiết sống động với vai trò quan
trọng của nhân vật trần thuật và bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất văn
học”. Quan điểm này cho rằng phóng sự là thể loại đứng giữa, là gạch nối
trong quá trình phát sinh, phát triển. Ở đấy, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò
của ngƣời viết qua việc thẩm định hiện thực một cách chân thực và có cảm
xúc.
Tác giả Huỳnh Dũng Nhân, tác giả cuốn Để viết phóng sự thành công:
“Phóng sự là một thể tài báo chí, phản ánh những vấn đề có tính thời sự, có ý
nghĩa chính trị xã hội đƣợc bạn đọc quan tâm. Phóng sự có thể viết bằng các
bút pháp mang tính văn học. Trong phóng sự có nhân vật và có cái tôi trần
thuật. Phóng sự giúp bạn đọc hiểu sâu hơn, rõ hơn sự việc và chia sẻ đƣợc với
tác giả những vấn đề đƣợc đặt ra trong tác phẩm”.
Theo tác giả Dƣơng Xuân Sơn, tác giả cuốn Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông: “Phóng sự truyền hình cũng nhƣ các thể ký truyền hình khác,
đều thông tin về ngƣời thật, việc thật trong một quá trình phát sinh và phát
triển. Không chỉ dừng lại ở việc thông tin, phóng sự còn cố gắng thẩm định
hiện thực, trả lời những câu hỏi mà hiện thực đặt ra. Phóng sự có đầy đủ khả
năng nêu rõ những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình diễn biến, bối cảnh của
sự kiện và cách giải quyết các mâu thuẫn để làm cho ngƣời xem có khả năng
hình dung khá đầy đủ những biến cố xảy ra nhƣ chính họ chứng kiến. Trong
phóng sự truyền hình dấu ấn chủ quan của tác giả thể hiện rõ nét, đó là “cái
9



tôi” vừa logic, lý trí giàu lý lẽ và ở một chừng mực nào đó vừa sử dụng sức
mạnh của cảm xúc. Trong nhiều trƣờng hợp, cảm xúc thẩm mỹ trở thành một
động lực đƣa tác phẩm đạt tới những phấm chất khác lạ. Cái tôi nhân chứng
khách quan khiến cho công chúng luôn tin tƣởng rằng họ đang tiếp xúc sự
thật hoàn toàn. Ở khía cạnh khác, cái tôi còn góp phần tạo ra giọng điệu và
thể hiện khuynh hƣớng tác phẩm. Đối tƣợng phản ảnh của phóng sự truyền
hình là những “hoàn cảnh có vấn đề” đang đƣợc đông đảo công chúng quan
tâm. Tuy nhiên không phải sự kiện tiêu biểu nào cũng có thể trở thành phóng
sự truyền hình. Chỉ khi nào cuộc sống xuất hiện những câu hỏi, những hiện
tƣợng cần giải đáp thì phóng sự mới xuất hiện.
Phóng sự truyền hình là một thể loại báo truyền hình thuộc nhóm chính
luận nghệ thuật, phản ánh các sự kiện, con ngƣời, tình huống, hoàn cảnh điển
hình trong quá trình phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định hiện thực đó
qua cái tôi trần thuật vừa tỉnh táo lý trí, vừa cảm xúc bằng phƣơng tiện kỹ
thuật truyền hình.
Trong bài “Nhâ ̣n diê ̣n phóng sƣ̣ truyề n hiǹ h” đăng trên báo Truyề n hiǹ h
tháng 5 năm 1997, tác giả Phong Châu đƣa ra quan niệm : “Trong phóng sƣ̣ ,
phóng viên kể lại một sự kiện (nên sƣ̣ kiê ̣n có tiń h tiêu biể u , thâ ̣t ra phóng sƣ̣
có đối tƣợng rộng hơn ), ghi la ̣i tƣ̀ ngƣời thâ ̣t viê ̣c thâ ̣t , không đƣơ ̣c dàn dƣ̣ng
giả cảnh và chuyển đến cho ngƣời xem những điều mắt thấy tai nghe do máy
quay ghi và thu đƣơ ̣c kế t hơ ̣p với lời biǹ h do phóng viên viế t . Phóng viên có
thể xuấ t hiê ̣n trong phóng sƣ̣ nhƣ mô ̣t nhân chƣ́ng kể và biǹ h về sƣ̣ kiê ̣n

,

phỏng vấn những ngƣời trong cuộc nhằm làm sáng tỏ chủ thể của phóng sự .
Nô ̣i dung của phóng sƣ̣ phải là sƣ̣ kiê ̣n mới diễn ra , nế u kể lại sự kiện đã diễn
ra lâu thì không phải là phóng sƣ̣.”
Phóng sự truyền hình một mặt mang trong nó đầy đủ những yếu tố và
đă ̣c trƣng của phóng sƣ̣ nói chung , nhƣng mă ̣t khác la ̣i bi chi

̣ phố i bởi nhƣ̃ng
10


phẩ m chấ t khu biê ̣t của truyền hình – mô ̣t loa ̣i báo chí dùng phƣơng tiê ̣n nghe
nhìn để chuyển tải thông tin . Vì vậy có thể định nghĩa phóng sự truyền hình
là: mô ̣t thể loa ̣i truyề n hình , phản ánh kịp thời một sự kiện , mô ̣t vấ n đề bƣ́c
xúc của đời số ng xã hô ̣i đang xảy ra trong quá trình phát sinh , phát triển với
mô ̣t thái đô ̣ thẩ m đinh
̣ nhấ t đinh
̣ của cái tôi trầ n thuâ ̣t đồ ng thời khám phá ra
bản chất bên trong của vấn đề để từ đó có những kiến nghị , giải pháp cho vấ n
đề đó.
“Phóng sự truyền hình là một thể loại tác phẩm truyền thống và luôn
giữ vị trí trung tâm trong các chƣơng trình truyền hình. Mục đích của nó là
chuyển tải sự kiện một cách nhanh chóng, chân thực và chặt chẽ tới ngƣời
xem. Ngƣời phóng viên trong các phóng sự của mình có một vị trí tối ƣu. Họ
vừa là nhân chứng trực tiếp, vừa là ngƣời dẫn dắt, định hƣớng công chúng
tiếp cận sự kiện nhanh chóng và hiệu quả”.
Theo các tác giả trên thế giới, hình thức sơ khai nhất của việc sử dụng
phóng sự thời sự có thể gọi là phóng sự không mang tính bình luận, hay là
truyền hình sự kiện (có thể là trực tiếp hoặc qua băng hình). Nói cách khác,
phóng sự thời sự ghi lại, chuyển tải lại những sự kiện chính trị- kinh tế- xã hội
hoặc những sự kiện văn hóa quan trọng, trong đó chủ yếu là những sự kiện
vừa mới đƣợc diễn ra hoặc đang diễn ra. Đó có thể là những phiên họp có ý
nghĩa nền tảng của các cơ quan lập pháp quốc gia nhƣ họp quốc hội, các cuộc
họp có ý nghĩa nền tảng của các nhà hoạt động nhà ƣớc và các chuyến viếng
thăm ngoại giao cấp nhà nƣớc. Ngoài ra, còn có những cuộc thi đấu thể thao,
các hoạt động văn hóa, cùng các sự kiện khác mới xảy ra. Tất cả những sự
kiện ấy đều thu hút đƣợc sự quan tâm của đông đảo công chúng. Phóng sự

thời sự lấy cốt lõi là các sự kiện. Trong quá trình thông tin phản ánh, phóng
sự thời sự không tách rời sự kiện.

11


Theo nhà nghiên cứu Fierre Ganz, nói đến phóng sự thời sự, cũng
không thể không đề cập vấn đề thời lƣợng (tức độ dài tác phẩm). Cùng với
những cải tiến về phƣơng thức đƣa tin, “một ba mƣơi” (1’30”) đã trở thành
tiêu chuẩn chung của phóng sự thời sự tại nhiều kênh truyền hình nổi tiếng
trên thế giới.
Trong quan niệm của ngƣời làm truyền hình Việt Nam, phóng sự ngắn
hoàn toàn phân biệt với tin. Theo nhà báo Thanh Lâm- nguyên phó ban Thời
sự Đài Truyền hình Việt Nam thì phóng sự ngắn không đơn thuần chỉ phản
ánh mà phải tạo ra một góc nhìn, phải có sự phân tích, định hƣớng công
chúng. Có ý kiến cho rằng phóng sự ngắn không phải là một thể loại báo chí
độc lập mà thực chất chỉ là một dạng phải sinh của thể loại phóng sự. Bản
thân cách gọi phóng sự ngắn là cách gọi của giới làm nghề, cách gọi theo thói
quen, bởi đến nay trong lý luận tác phẩm báo chí chƣa xuất hiện khái niệm
này. Phóng sự ngắn chỉ thực sự phát huy vai trò khi đặt mình trong một tổng
thể chƣơng trình. Không có sự tồn tại độc lập của phóng sự ngắn kiểu chƣơng
trình phóng sự ngắn hay chuyên mục phóng sự ngắn….Tên gọi phóng sự
ngắn là tên gọi phù hợp nhất cho dạng phóng sự này. Sở dĩ nhƣ vậy bởi hai lẽ
đặc trƣng ngắn về thời lƣợng là đặc trƣng quan trọng nhất, chi phối các đặc
trƣng khác cũng nhƣ kết cấu của thể loại. Tại Việt Nam, các đài truyền hình
đang từng bƣớc cải tiến phƣơng thức làm phóng sự theo hƣớng co ngắn thời
lƣợng, với tiêu chuẩn quy định cho các phóng sự phát sóng trong chƣơng
trình thời sự không quá 2 phút 30 giây.
Từ những quan niệm trên, có thể nhận thấy sự đa dạng và phong phú
của thể loại phóng sự, đồng thời cũng thấy đƣợc độ phức tạp và khó khăn

trong việc nắm bắt đặc trƣng của thể loại này. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
đƣợc một điều rằng phóng sự hiện đại kết hợp trong mình cả tính chất thông
tấn lẫn tính chất văn học, là gạch nối giữa hai lĩnh vực này, sử dụng các loại
12


bút pháp mô tả, tƣờng thuật và nghị luận để đạt đƣợc mục đích chính là vừa
phản ánh trung thực những vấn đề mang tính chất thời sự vừa góp phần định
hƣớng suy nghĩ của độc giả.
Theo phóng viên Tấn Quýnh, Đài Truyền hình Phú Yên, tên gọi
“phóng sự ngắn” dành cho phóng sự đƣợc phát sóng trong các chƣơng trình
thời sự còn có sự bộc lộ nhiều yếu tố bất hợp lý. Tên gọi này xuất hiện từ khi
các đài truyền hình bắt đầu áp dụng sản xuất phóng sự để phát sóng trong các
chƣơng trình thời sự với độ dài khoảng 3 phút, mà trƣớc đây phóng sự thƣờng
có độ dài không dƣới 15 phút. Kể từ đó, những phóng sự đƣợc sử dụng trong
các chƣơng trình thời sự đều có tên gọi là “phóng sự ngắn”.
1.1.2 Đặc trƣng của phóng sự ngắn truyền hình
- Đặc trƣng về thời lƣợng: Dấu hiệu đặc trƣng nhất của phóng sự ngắn
truyền hình chính là thời lƣợng ngắn. Trong thực tế một phóng sự ngắn có
thời lƣợng 5 phút hoặc gần 5 phút đã là quá dài, vừa không đủ thời lƣợng
chƣơng trình để chuyển tải vừa gây cảm giác mệt mỏi trong tâm lý tiếp nhận.
Trong chƣơng trình thời sự hiện nay, thời lƣợng phổ biến của các phóng sự
ngắn là từ 2,5 – 3,5 phút. Cũng có những phóng sự dài tới mức trên dƣới 5
phút nhƣng trƣờng hợp này không xuất hiện thƣờng xuyên. Thời lƣợng ngắn
tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch tổ chức sản xuất, lắp ghép kết nối
chƣơng trình. Thời lƣợng ngắn của phóng sự cũng cho phép gia 23 tăng lƣợng
thông tin đến mức tối đa trong chƣơng trình thời sự đồng thời làm tăng nhịp
độ tiết tấu chƣơng trình, tạo cảm giác đa dạng nhiều chiều trong tâm lý tiếp
nhận của công chúng.
- Đặc trƣng về lời dẫn: Lời dẫn là phần lời sử dụng trong phần mở đầu

của phóng sự nhằm mục đích giới thiệu phóng sự và liên kết nội dung chƣơng
trình. Lời dẫn trong phóng sự ngắn có thể là ngôn ngữ của phóng viên nhƣng
cũng có thể là ngôn ngữ của biên tập viên. Hiện tại ở chƣơng trình thời sự,
13


phóng viên viết lời dẫn cho phóng sự nhƣng biên tập viên lại có quyền chỉnh
sửa để phù hợp với nội dung phóng sự cũng nhƣ gắn kết chƣơng trình. Lời
dẫn của phóng sự ngắn truyền hình thực hiện hai chức năng cơ bản là giới
thiệu và liên kết. Điều này có nghĩa thông qua lời dẫn ngƣời xem phải nhận
diện đƣợc phóng sự, phải biết đƣợc vấn đề mà phóng sự đề cập. Lời dẫn còn
phải giúp ngƣời xem thấy đƣợc mối liên hệ giữa phóng sự này với phóng sự
khác trong một cấu trúc chƣơng trình tổng thể, phải làm thế nào để tạo cảm
giác rằng sự sắp xếp giữa các phần của nội dung chƣơng trình không phải là
sự sắp xếp ngẫu nhiên. Ngoài ra lời dẫn của phóng sự ngắn truyền hình phần
nào còn bao hàm luôn cả các chức năng của tít.
- Đặc trƣng về hình ảnh: Đặc thù của truyền hình là khả năng chuyển
tải thông tin dƣới hình thức những hình ảnh chuyển động, có kèm theo âm
thanh. Trong khuôn khổ thời lƣợng hạn chế cộng với yêu cầu tối đa hoá lƣợng
thông tin, đòi hỏi hình ảnh phóng sự ngắn phải là những hình ảnh mạnh, hình
ảnh chứa đựng thông tin với tiết tấu nhanh và logic. Hình ảnh trong phóng sự
ngắn luôn tuân thủ những nguyên tắc của nghệ thuật điện ảnh để đáp ứng một
cách cơ bản nhất nhu cầu nghe nhìn của công chúng. Tuy nhiên do yêu cầu về
tính thời sự và giá trị thông tin nên trong thực tế nhiều khi cảnh quay của
phóng sự ngắn không đòi hỏi khắt khe về độ chuẩn tắc.
- Đặc trƣng về âm thanh: Cùng với hình ảnh chuyển động, truyền hình
còn đồng thời chuyển tải thông tin dƣới hình thức âm thanh. Âm thanh trong
tác phẩm truyền hình bao gồm lời bình, tiếng động hiện trƣờng và âm nhạc.
Lời bình là ngôn ngữ của phóng viên, là một phần của kết cấu tác phẩm để
làm nổi bật giá trị thông tin mà hình ảnh mang tới. Lời bình trong phóng sự

ngắn truyền hình thƣờng là lời bình đơn giản ngắn gọn dễ hiểu. Nói cách khác
lời bình của phóng sự ngắn gần với ngôn ngữ thông tấn nhất trong các dạng
của thể loại phóng sự truyền hình. Sở dĩ nhƣ vậy bởi tác phẩm phóng sự ngắn
14


là tác phẩm mang tính thời sự với yêu cầu hàng đầu là cung cấp thông tin cho
mọi đối tƣợng công chúng. Từ những đối tƣợng công chúng có năng lực tiếp
nhận đặc biệt đến những ngƣời có năng lực tiếp nhận bình thƣờng nhất vẫn có
thể hiểu đƣợc nội dung phóng sự. Bên cạnh đó phóng sự ngắn trong chƣơng
trình thời sự truyền hình thƣờng chỉ phát một lần trong một khoảng thời gian
hạn hẹp và do vậy phải nói thế nào để ngƣời xem hiểu ngay vấn đề. Ngƣời
xem không phải vừa tiếp nhận thông tin vừa nghiền ngẫm những ẩn ý của tác
giả hay nhấm nháp cái hay cái đẹp trong cách sử dụng ngôn từ.
- Đặc trƣng về phỏng vấn: Phỏng vấn trong hoạt động báo chí nói
chung tồn tại vừa với tƣ cách là một thể loại báo chí độc lập, vừa là công cụ
để thu thập thông tin. thực tiễn hoạt động báo chí cho thấy trong phỏng vấn
chỉ nên hỏi ngƣời đƣợc phỏng vấn những gì mà phóng viên không thể nói
hoặc không đủ thẩm quyền để nói. Khi thực hiện phỏng vấn cũng cần tránh
dạng câu hỏi mang tính áp đặt, câu hỏi đóng, câu hỏi hai trong một, câu hỏi
quá rộng, câu hỏi mang tính liệt kê, câu hỏi rập khuôn, công thức…Trong
phóng sự ngắn truyền hình, phỏng vấn đƣợc sử dụng nhằm chuyển tải, biểu
thị quan điểm thái độ, nhận thức, hiểu biết của ngƣời trong cuộc. Đối tƣợng
phỏng vấn có thể là nhân chứng (khi phản ánh một sự kiện), có thể là chuyên
gia (khi bàn về một vấn đề), có thể là ngƣời có trách nhiệm đối với sự kiện
hiện tƣợng mà phóng sự đề cập... Sự xuất hiện của ngƣời trong cuộc khi trả
lời phỏng vấn sẽ làm cho thông tin đề cập trong phóng sự trở nên khách quan,
vấn đề đƣợc phân tích một cách chặt chẽ.
- Đặc trƣng về dẫn hiện trƣờng: Dẫn hiện trƣờng là việc phóng viên
trực tiếp xuất hiện trong phóng sự truyền 34 hình để nói về một nội dung nào

đấy liên quan đến vấn đề mà phóng sự đang đề cập. Phóng sự ngắn truyền
hình là thể loại bó hẹp về thời lƣợng và do vậy khi tiến hành hiện dẫn phóng
viên cần phải tự trả lời câu hỏi liệu có cần thiết phải dẫn hay không. Hay nói
15


cách khác sự xuất hiện của phóng viên trong phóng sự phải là sự xuất hiện có
nghĩa. Nếu thực sự không cần thiết phải hiện dẫn, nếu hiện dẫn không giúp
ích cho việc triển khai phóng sự thì tốt hơn nên ƣu tiên thời lƣợng vào việc
khác. Thƣờng thì hiện dẫn trong phóng sự ngắn chỉ đƣợc thực hiện trong một
số tình huống cụ thể nhƣ: phóng viên cần khẳng định một cách có thẩm quyền
rằng mình là ngƣời làm chủ thông tin, dẫn hiện trƣờng để làm tăng thêm sức
nóng của vấn đề, dẫn khi không đủ hình ảnh hoặc hình ảnh không đủ sức
mạnh để diễn đạt một vấn đề…và đến gần hơn với khán giả.
1.1.3 Ngôn ngữ truyền hình
Truyền hình là một trong những loại hình báo chí sử dụng phức hợp
ngôn ngữ của nhiều loại phƣơng tiện truyền thông và nghệ thuật khác nhau.
G.V Cudonhetxop trong Báo chí truyền hình (tập 1) thì khẳng định
truyền hình và điện ảnh là có cùng ngôn ngữ.
Khiếu Quang Bảo trong bài viết “Ngôn ngữ truyền hình” thì quan niệm
ngôn ngữ truyền hình là loại ngôn ngữ tổng hợp, có ngôn ngữ viết cho độc giả
báo in, có ngôn ngữ nói cho tính giả phát thanh, hơn thế nữa, có ngôn ngữ
hình ảnh cho khán giả truyền hình.
Và trong nhiều tài liệu khác đều thống nhất ở các điểm: ngôn ngữ
truyền hình là ngôn ngữ tổng hợp của các loại hình truyền thông nghệ thuật.
Là yếu tố thống nhất của hai yếu tố âm thanh và hình ảnh
1.1.4 Đặc trƣng của ngôn ngữ truyền hình
Ngôn ngữ truyền hình có tính khái quát cao: Hình ảnh và âm thanh mà
công chúng nhìn thấy và nghe thấy là thứ hình ảnh, âm thành tuyến tính có
tính khái quát. Do đó, hình ảnh và âm thanh phải đƣợc lựa chọn kỹ lƣỡng,

chắt lọc. Hình ảnh và âm thanh trong truyền hình phải chứa đựng sự kiện,
những thông tin nhất định.

16


Khả năng khái quát của hình ảnh và âm thanh truyền hình tùy thuộc
vào năng lực lựa chọn hình ảnh và âm thanh của ngƣời làm truyền hình. Cùng
một sự việc xảy ra, phóng viên hay biên tập viên có nhiều cách để lựa chọn
ghi lại hình ảnh và âm thanh. Tuy nhiên để chọn hình ảnh nào, âm thành nào
còn đặt ra một vấn đề lớn.
Ngôn ngữ truyền hình mang tính thông tin: Do thời gian phát sóng bị
hạn chế, ngôn ngữ truyền hình nhần mạnh “cái gì”, “ở đâu” hơn là “tại sao”
và “nhƣ thế nào”. Nói cách khác, phóng viên hay biên tập viên chú trọng vào
ngôn ngữ thông tin hơn là ngôn ngữ giải thích. Truyền hình không có đất cho
những câu chuyện dài, đặc biệt là trong các chƣơng trình thời sự.
Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ nghe nhìn: Sự tổng hợp của hai yếu
tố hình ảnh và âm thanh, trong đó chủ yếu là lời bình là ƣu thế của truyền
hình. Âm thanh và hình ảnh gợi cho khán giả sự cảm nhận bằng giác quan
nhƣ nghe, nhìn, cảm nhận,…
Ngôn ngữ truyền hình thƣờng ngắn gọn, súc tích: trong truyền hình,
khán giả chỉ nhận những thông tin cốt lõi. Vì vậy ngôn ngữ thể hiện luôn cô
động, súc tích.
Ngôn ngữ truyền hình mang phong cách khẩu ngữ, đời thƣờng- văn
nói. Dùng khẩu ngữ không có nghĩa là dùng tiếng lóng hoặc những từ không
phổ thông. Ngôn ngữ đời thƣờng càng dung dị, gần gũi, dễ hiểu càng tốt để
đƣa khán giả vào câu chuyện.
1.1.5 Các loại phóng sự truyền hình
Phóng sự truyền thẳng là loại phóng sự đƣợc truyền trực tiếp tới ngƣời
xem ngay sau khi sự kiện đang diễn ra. Việc thu thẳng, xử lý thông tin diễn ra

trong quá trình phát sóng. Phóng viên đi theo sự kiện. Công việc cần thiết
nhất đối với phóng viên là khâu chuẩn bị. Quan trọng là kịch bản, số ngƣời
giúp việc và phải dự tính trƣớc các tình huống có thể xảy ra.
17


Phóng sự hậu kỳ là dạng phóng sự đƣợc phát đi sau khi sự kiện đã xảy
ra. Phóng viên thực hiện dạng phóng sự này phải tuân thủ theo các bƣớc của
quy trình sản xuất một tác phẩm truyền hình. Tính hợp lý của phóng sự tùy
vào bản thân sự kiện và cách xử lý của phóng viên. Khi dựng phóng sự cũng
quan trọng nhƣ khi chuẩn bị và ghi hình. Trong phóng sự truyền hình, có thể
căn cứ vào đối tƣợng phản ảnh để chia các loại phóng sự: phóng sự sự kiện,
phóng sự vấn đề, phóng sự chân dung, phóng sự ngắn, phóng sự điều tra
Phóng sự sự kiện là loại phóng sự đƣợc phát đi khi đang xảy ra hoặc nó
đã kết thúc hoàn toàn. Loại phóng sự này có yêu cầu là phải hết sức nóng hổi,
sinh động, đề cập đến những sự kiện thu hút sự chú ý của nhiều ngƣời. Việc
thu nhập và xử lý thông tin tùy thuộc và năng lực và cách nhìn nhận của
phóng viên. Ngƣời thực hiện phải lựa chọn các chi tiết để làm rõ chủ đề sau
khi đã xác định đƣợc góc độ xử lý. Nhóm làm phim phải có mặt ngay tại hiện
trƣờng khi sự kiện xảy ra, đây là công việc quan trọng nhất trong quá trình
thực hiện loại phóng sự này. Sau khi ghi hình, ngƣời thực hiện cần khẩn
trƣơng làm hậu kỳ để chuyển nhanh đến công chúng. Điều cần lƣu ý, phóng
sự sự kiện đƣợc thực hiện một cách thƣờng xuyên trong các chƣơng trình
truyền hình cũng giống nhƣ tin tức, nó cung cấp cho khán giả những thông tin
nóng hổi, tỉ mỉ, có đánh giá, phân tích và bình luận của phóng viên về ảnh
hƣởng của những xu hƣớng vận động của sự kiện.
Phóng sự vấn đề, đối tƣợng của loại phóng sự này là những vấn đề sự
kiện có ỹ nghĩa quan trọng đƣợc xã hội quan tâm. Những vấn đề về chủ
trƣơng đƣờng lối của Đảng đƣợc thể hiện qua các loại phóng sự này giúp
quần chúng hiểu rõ hơn. Đây là loại phóng sự có tính chính luận cao. Những

vấn đề mà phóng sự đề cập thƣờng có nội dung phong phú, đƣợc thể hiện khi
sự kiện hoặc vài sự kiện có cùng tính chất đã kết thúc, dƣ luận xã hội đòi hỏi
có một sự hiểu biết cặn kẽ, tỉ mỉ. Loại phóng sự này là một bức tranh toàn
18


cảnh về vấn đề mà nhà báp truyền hình cần đề cập tới, ví dụ: vấn đề môi
trƣờng, an toàn thực phẩm, cải cách hành chính, dịch cúm gia cầm, tăng học
phí,.. Có thể nói rằng, loại phóng sự vấn đề giải quyết tốt những vấn đề bức
xúc dự luận đang đòi hỏi đƣợc xã hội quan tâm, từ sự phát sinh, xu thế vận
động đến cách giải quyết vấn đề đó.
Phóng sự chân dung là loại phóng sự thƣờng đi sâu vào khắc họa hình
ảnh, chân dung một con ngƣời với những tính cách, vị trí, vai trò khác nhau
trong xã hội. Nhƣ chân dung một anh hùng, bác sỹ, một nhà khoa học, một
doanh nhân,..Phóng sự chân dung cũng đề cập đến cuộc đời của một con
ngƣời nhƣng cũng có thể đề cập đến khoảng khắc đời thƣờng của họ. Điều
quan trọng trong phóng sự chân dung là cần có sự sinh động, không đƣợc sử
dụng thủ pháp nhân cách hóa, điển hình hóa cảu nghệ thuật điện ảnh. Khi
thực hiện phóng sự chân dung có thể có dàn cảnh nhƣng phải dựa trên cơ sở
của sự thật, phản ánh những chi tiết có thật, chính xác, khách quan để làm bộc
lộ tính cách của đối tƣợng phản ánh.
Phóng sự điều tra là loại phóng sự đƣợc thực hiện khi trong xã hội nảy
sinh những vấn đề, trong đó có những mâu thuẫn gay gắt hay vấn đề đang gây
nhiều tranh cãi, nhằm lý giải, phân tích để đƣa ra những phƣơng pháp giải
quyết những mâu thuẫn đó. Phóng sự điều tra thƣờng bắt đầu từ một kết quả
tốt hoặc xấu. Để làm rõ nguyên nhân, phóng viên phải xuống hiện trƣờng để
thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó có đủ căn cứ, lý lẽ để phân
tích và chứng minh các vấn đề mà mình đƣa ra. Trong quá trình thực hiện
phóng sự điều tra, nhà báo phải coi đó là vấn đề lƣơng tâm, trách nhiệm của
mình. Không đƣợc chủ quan hoặc coi đây là nói để khoe trí tuệ, ngôn từ, để

lên gân hoặc để khẳng định mình. Đây là loại phóng sự khó thực hiện, vì thế
phải có những phƣơng án để vƣợt qua các trở ngại trong việc thu thập tài liệu,
phỏng vấn nhân chứng cũng nhƣ về tâm lý. Phóng sự điều tra truyền hình là
19


×