Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Vai trò của người bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có người bào chữa (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 104 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH HOI

VAI TRò CủA NGƯờI BàO CHữA
TRONG CáC Vụ áN HìNH Sự BắT BUộC PHảI Có NGƯờI BàO CHữA
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH HOI

VAI TRò CủA NGƯờI BàO CHữA
TRONG CáC Vụ áN HìNH Sự BắT BUộC PHảI Có NGƯờI BàO CHữA
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN VN HIN

H NI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Hoài


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI
BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ BẮT BUỘC
PHẢI CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA ....................................................... 7
1.1.


Người bào chữa trong vụ án hình sự ................................................ 7

1.1.1. Khái niệm ngƣời bào chữa ................................................................... 7
1.1.2. Chủ thể bào chữa ................................................................................ 10
1.2.

Đặc điểm của những vụ án hình sự bắt buộc phải có người
bào chữa ............................................................................................ 17

1.3.

Chức năng và nhiệm vụ của người bào chữa trong các vụ án
hình sự bắt buộc có người bào chữa ............................................... 21

1.3.1. Chức năng của ngƣời bào chữa .......................................................... 21
1.3.2. Nhiệm vụ của ngƣời bào chữa ............................................................ 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 29
Chương 2: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ BẮT BUỘC PHẢI CÓ NGƯỜI BÀO
CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .......................................................30
2.1.

Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai
trò của người bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc có
người bào chữa .................................................................................. 30


2.1.1. Vai trò của ngƣời bào chữa ở giai đoạn điều tra đối với các vụ án
hình sự bắt buộc có ngƣời bào chữa ................................................... 31

2.1.2. Vai trò của ngƣời bào chữa trong giai đoạn truy tố đối với các vụ
án hình sự bắt buộc có ngƣời bào chữa .............................................. 37
2.1.3. Vai trò của ngƣời bào chữa ở giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với các
vụ án hình sự bắt buộc có ngƣời bào chữa ......................................... 40
2.1.4. Vai trò của ngƣời bào chữa ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đối với
các vụ án hình sự bắt buộc có ngƣời bào chữa ................................... 49
2.1.5. Vai trò của ngƣời bào chữa trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với các vụ án hình sự bắt buộc có ngƣời bào chữa ...................... 52
2.2.

Thực tiễn áp dụng vai trò của người bào chữa trong các vụ
án hình sự bắt buộc phải có người bào chữa trên đại bàn tỉnh
Hà Tĩnh .............................................................................................. 57

2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân ........................................... 57
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân ......................................................... 64
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 76
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
BẮT BUỘC PHẢI CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA................................ 77
3.1.

Một số giải pháp cụ thể để đưa Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
thực hiện có hiệu quả nâng cao chất lượng bào chữa của người
bào chữa ............................................................................................. 77

3.1.1. Tổ chức đa dạng các hình thức tuyên truyền để nâng cao chất
lƣợng bào chữa của ngƣời bào chữa trong các vụ án hình sự bắt
buộc có ngƣời bào chữa ...................................................................... 77
3.1.2. Nâng cao chất lƣợng ngƣời bào chữa, mở rộng số lƣợng ngƣời

bào chữa ............................................................................................. 79
3.1.3. Nâng cao năng lực nhận thức của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng......... 81
3.1.4. Cần đổi mới mối quan hệ giữa ngƣời bào chữa với cơ quan tiến
hành tố tụng ........................................................................................ 83


3.2.

Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện hệ thống pháp luật về vai
trò của người bào chữa trong các vụ án bắt buộc phải có
người bào chữa.................................................................................. 84

3.2.1. Quy định cụ thể hơn về đối tƣợng bắt buộc phải có ngƣời bào chữa ...... 84
3.2.2. Về thủ tục chỉ định ngƣời bào chữa ................................................... 85
3.2.3. Quy định về thủ tục đăng ký bào chữa ............................................... 86
3.2.4. Về chủ thể bào chữa ........................................................................... 89
3.2.5. Bổ sung chế tài đối với cơ quan tiến hành tố tụng ............................. 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCVND:

Bào chữa viên nhân dân

BLHS:

Bộ luật Hình sự


BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CCTP:

Cải cách tƣ pháp

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CTN:

Chƣa thành niên

NBC:

Ngƣời bào chữa

QBC:

Quyền bào chữa

TGPL:

Trợ giúp pháp lý

TGTT:


Tham gia tố tụng

THTT:

Tiến hành tố tụng

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang


Bảng 2.1: Số lƣợng LS của tỉnh Hà Tĩnh từ tháng 7/1993 đến
tháng 8/2017

58

Bảng 2.2: Số vụ án hình sự có ngƣời bào chữa tham gia từ
năm 2011-2016

60

Bảng 2.3: Số vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử có ngƣời
bào chữa tham gia từ năm 2011 – 2016

68

Bảng 2.4: Số bị can, bị cáo thuộc diện ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý đƣợc trợ giúp pháp lý từ năm 2011 – 2016

68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nƣớc ta đang tiến hành công cuộc cải cách toàn diện về tƣ
pháp hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, trong đó trọng
tâm là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự và mở rộng
hơn nữa quyền của ngƣời bào chữa (NBC), ngƣời bị tạm giữ (NBTG), bị can,
bị cáo. Đây là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả bảo đảm tính công bằng

của pháp luật, tính dân chủ, công khai của quá trình giải quyết vụ án hình sự
(VAHS) và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp, quyền dân chủ cho con
ngƣời, thể hiện nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị
cáo” đã đƣợc Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ghi nhận, giúp cho việc giải
quyết vụ án đƣợc chính xác, khách quan, hiệu quả, đúng pháp luật. Đây là
một nguyên tắc không thể thiếu của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), trong
đó chế định NBC là một chế định quan trọng trong việc thực hiện quyền bào
chữa của NBTG, bị can, bị cáo.
Để thực hiện yêu cầu tranh tụng, một trong những biện pháp quan trọng
là phải ghi nhận chế định NBC trong BLTTHS. Trong Hiến pháp, pháp luật
của nƣớc ta nói chung và TTHS nói riêng đã có các qui định thể chế hóa
quyền, nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận và thực tiễn
TTHS vẫn chƣa có khái niệm chính thức và thống nhất về chế định NBC.
Đồng thời, những qui định của BLTTHS hiện hành chƣa qui định đầy đủ về
các chủ thể NBC, đối tƣợng bào chữa hoặc có qui định nhƣng dƣờng nhƣ lại
ít đƣợc áp dụng trên thực tế, còn hạn chế một số quyền của NBC, một số qui
định về NBC trong pháp luật TTHS còn nhiều vƣớng mắc, bất cập khi áp
dụng, đòi hỏi khoa học Luật TTHS phải nghiên cứu, giải quyết làm sáng tỏ về

1


mặt lý luận trong khi vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí
trái ngƣợc nhau.
Hơn nữa, để đảm bảo quyền con ngƣời, đặc biệt là quyền bào chữa của
bị can, bị cáo nhất là những đối tƣợng “đặc biệt bắt buộc phải có ngƣời bào
chữa” thì rất cần có sự tham gia của ngƣời bào chữa để bảo vệ những đối
tƣợng “yếu thế” trong xã hội khi đối mặt với những vi phạm pháp luật. Nhận
thức đƣợc sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề trong giai đoạn hiện nay
với phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tác giả đã chọn đề tài “Vai

trò của người bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có người bào
chữa (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)” làm đề tài luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học Luật tố tụng hình sự đã có một số công trình nghiên
cứu và đề cập về vấn vai trò của ngƣời bào chữa trong các vụ án hình sự bắt
buộc phải có ngƣời bào chữa dƣới những góc độ và mức độ khác nhau nhƣ:
+ Giáo trình
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội) Của Tiến Sĩ. Nguyễn Ngọc Chí.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2007
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội)
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội) của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên ; Trần Văn Độ
+ Sách chuyên khảo
Những điểm mới về chế định bào chữa trong BLTTHS 2015 (Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia) của TS. Luật sƣ Phan Trung Hoài.
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nxb Hồng Đức, của
tác giả Trần Văn Biên, Đinh Thế Hƣng (chủ biên) (2016),

2


+ Các bài viết đăng trên tạp chí khoa học.
- Một số vấn đề về cơ sở bảo đảm dân chủ trong tranh luận tại phiên
toà hình sự, tạp chí Kiểm sát, VKS nhân dân tối cao, Số 3/2002.
- Vai trò hạn chế của luật sư trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí TAND Số 3/2007, tr. 2, của tác giả
Nguyễn Hà Thanh.
- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn trong việc thực thi các quy định của
pháp luật nhằm đảm bảo quyền của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng

hình sự, dân sư, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2007 của tác giả Phan Trung Hoài.
- Người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý, của
tác giả Trần Văn Bảy (2001),
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu đƣa ra các nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, về vai trò của một chủ thể bào chữa đó là LS
mà ít có các công trình khoa học nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, thống
nhất và hệ thống về khái niệm chế định NBC, chủ thể, đối tƣợng bào chữa, đặc
biệt là chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về “Vai trò của người
bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có người bào chữa”đặc biệt là
chế định Trợ giúp viên pháp lý với tƣ cách là một chủ thể bào chữa mặc dù chế
định này đã đƣợc qui định trong Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2006 và hiện
nay đƣợc đƣa vào trong BLTTHS năm 2015 là một trông những chủ thể có
quyền bào chữa.
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép một lần nữa khẳng
định việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của người bào chữa trong các vụ án hình
sự bắt buộc phải có người bào chữa (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh)” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực
tiễn. Đây là một trong những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp cần
tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa trong khoa học
TTHS cũng nhƣ thực tiễn áp dụng ở nƣớc ta hiện nay.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để hoàn thành đề tài “Vai trò của người bào chữa trong các vụ án hình
sự bắt buộc phải có người bào chữa (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh)” Luận văn xác định mục đích nghiên cứu nhƣ sau:
Mục đích chính của luận văn là phân tích đánh giá một cách toàn diện
và có hệ thống vai trò của ngƣời bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc
phải có ngƣời bào chữa thông qua các quy định trong BLTTHS 2003 qua các

giai đoạn tố tụng và so sánh với những điểm mới tiến bộ của BLTTHS 2015.
Đánh giá thực tiễn về chất lƣợng bào chữa trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Qua đó
đƣa ra những giải pháp để thực hiện BLTTHS 2015 nhằm nâng cao chất
lƣợng bào chữa của ngƣời bào chữa đặc biệt là trong các vụ án bắt buộc phải
có ngƣời bào chữa.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu trên, những nhiệm vụ nghiên cứu sẽ
phải là:
- Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chế định NBC

nhƣ: khái niệm NBC; chủ thể; đối tƣợng bào chữa; bản chất và đặc điểm của
những vụ án hình sự bắt buộc phải có ngƣời bào chữa…
- Phân tích vai trò của ngƣời bào chữa qua các giai đoạn tố tụng trên cơ

sơ các quy định của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 2015.
- Đánh giá thực tiễn vai trò ngƣời bào chữa trên cơ sở số liệu cụ thể tại

địa bàn tỉnh Hà Tĩnh kết quả đạt đƣợc. Từ đó thấy đƣợc những hạn chế, khó
khăn vƣớng mắc để đề ra một số giải pháp nâng cao chất lƣợng bào chữa của
ngƣời bào chữa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu và giải
quyết những vấn đề vai trò của ngƣời bào chữa và những đối tƣợng bắt buộc
phải có ngƣời bào chữa trong các vụ án hình sự đƣợc quy định trong BLTTHS
2003; đồng thời so sánh, đối chiếu với những điểm mới của BLTTHS 2015. Từ
4


đó liên hệ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh để tìm ra nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế để đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực
định và nâng cao chất lƣợng bào chữa của ngƣời bào chữa.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên
quan đến vai trò của ngƣời bào chữa dƣới góc độ BLTTHS trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
5. Cơ sở khoa học
5.1. Cơ sở lí luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính
sách hình sự về cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong các Nghị Quyết của
Đảng. Đặc biệt là Nghị quyết số 49 - NQ - TW ngày 26/5/2005 về Chiến lƣợc
cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính Trị.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Đề tài thực hiện trên cơ sở thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS
về vai trò của ngƣời bào chữa trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đối với những vụ án
hình sự bắt buộc phải có ngƣời bào chữa.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp
cụ thể và đặc thù của khoa học tố tụng hình sự nhƣ: Phƣơng pháp thống kê
hình sự, phƣơng pháp phân tích, so sánh và đối chiếu, phƣơng pháp diễn dịch,
phƣơng pháp quy nạp, điều tra, xã hội, phƣơng pháp phân tích hệ thống,
phƣơng pháp chuyên gia...để tổng hợp các tri thức khoa học về Luật tố tụng
hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu các phƣơng pháp này đƣợc vận dụng một cách
linh hoạt và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
7. Điểm mới luận văn
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
5


Luận văn đã làm rõ đƣợc một số những vấn đề lý luận về quyền bào
chữa của luật sƣ, trợ giúp viên pháp lý, những đối tƣợng bắt buộc phải có

ngƣời bào chữa trong các vụ án hình sự đƣợc quy định trong TTHS Việt
Nam; đánh giá đƣợc vai trò của ngƣời bào chữa, Nghiên cứu làm rõ về
quyền của ngƣời bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003 so sánh
với những quy định trong BLTTHS 2015 để rút ra những điểm mới và hoàn
thiện những bất cập, hạn chế theo quy định của luật nhằm đƣa ra kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền bào chữa trong các vụ án hình sự
bắt buộc phải ngƣời bào chữa tham gia trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tìm ra
nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng bào chữa
bảo đảm quyền lợi cho bị can, bị cáo.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn luận văn góp phần
bảo đảm quyền con ngƣời nói chung, quyền và lợi ích của những đối tƣợng
bắt buộc phải có ngƣời bào chữa. Những kiến nghị đề xuất hoàn thiện pháp
luật các cơ quan pháp luật có thể tham khảo để tiếp tục hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu,
giảng dạy trong các cơ sở giáo dục.
8. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn chia làm 3 chƣơng cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về vai trò của ngƣời bào chữa trong
các vụ án hình sự bắt buộc phải có ngƣời bào chữa.
Chương 2: Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về
vai trò của ngƣời bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có ngƣời
bào chữa và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của ngƣời bào chữa
trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có ngƣời bào chữa.
6


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ BẮT BUỘC
PHẢI CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA
1.1. Người bào chữa trong vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Ngƣời bào chữa là một chế định quan trọng trong pháp luật TTHS
nhƣng BLTTHS 2003 vẫn chƣa đƣợc ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái
niệm ngƣời bào chữa. Do vậy hiện nay trong khoa học luật tố tụng hình sự
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm ngƣời bào chữa. Nhìn
chung các quan điểm đều dựa vào các qui định của BLTTHS để đƣa ra khái
niệm ngƣời bào chữa.
Quan điểm 1:
Ngƣời bào chữa là ngƣời tham gia tố tụng với nhiệm vụ và
mục đích là làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng
minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp ngƣời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ [8, tr.153].
Quan điểm 2:
NBC trong TTHS là ngƣời tham gia tố tụng để chứng minh sự
vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của ngƣời bị buộc tội, giúp ngƣời bị
buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [1].
Quan điểm 3:
Ngƣời bào chữa là ngƣời đƣợc ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, ngƣời đại diện hợp pháp của họ, những ngƣời khác đƣợc ngƣời

7



bị tạm giữ, bị can, bị cáo uỷ quyền mời hay đƣợc cơ quan tiến hành
tố tụng yêu cầu Đoàn luật sƣ phân công Văn phòng luật cử hoặc đề
nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của
Mặt trận cử để bào chữa cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm
làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt
pháp lý [18].
Quan điểm 4:
Ngƣời bào chữa là ngƣời không liên quan đến vụ án hình sự.
Ngƣời bào chữa là những ngƣời có trình độ, chuyên môn, khả năng
bào chữa, bênh vực ngƣời đang bị buộc tội. Họ chỉ tham gia tố tụng
hình sự khi đƣợc ngƣời bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và đƣợc cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng kí bào chữa [2].
Tuy Bộ luật tố tụng 2015 đến thời điểm hiện tại vẫn chƣa có hiệu lực
nhƣng lần đầu tiên ngƣời bào chữa đƣợc ghi nhận trong BLTTHS 2015.
Điều 72 BLTTHS quy định: “Người bào chữa là người được người bị buộc
tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và
được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng
ký bào chữa”.
Có thể nói các quan điểm trên xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau trên
cơ sở nghiên cứu chế định NBC đƣợc quy định trong BLTTHS và thực tiễn
thi hành. Nên mỗi quan điểm mới chỉ tiếp cận đƣợc một hoặc một số dấu hiệu
của chế định NBC chƣa thể hiện đầy đủ và khái quát về chế định này. Vì vậy,
một khái niệm đầy đủ về NBC phải thể hiện đƣợc các đặc điểm về NBC và
phạm vi đối tƣợng chữa nhƣ sau:

8



Thứ nhất, người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng.
Đây là đặc điểm đầu tiên thể hiện rõ nhất đƣợc quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự [20, Điều 56, Chƣơng IV]. Đặc điểm này nhằm phân biệt với
ngƣời tiến hành tố tụng (gồm:Thủ trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên; Viện trƣởng, Phó viện trƣởng Viện kiếm sát, Kiểm soát viên;
Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ ký toà án), ngƣời
THTT là những ngƣời nhân danh quyền lực Nhà nƣớc trực tiếp giải quyết vụ
án hình sự còn ngƣời bào chữa có nhiệm vụ đƣa ra các chứng cứ để làm sáng tỏ
các tình tiết trong vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời bị tạm
giam, bị can, bị cáo.
Thứ hai, NBC tham gia tố tụng với mục đích đưa ra những tình tiết xác
định người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, người bị kết án vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ TNHS đối với họ và giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này xác định nhiệm vụ, mục đích tham
gia tố tụng của NBC đối với đối tƣợng bào chữa. Theo chúng tôi, nên mở
rộng phạm vi đối tƣợng bào chữa không chỉ bao gồm NBTG, bị can, bị cáo
nhƣ trong qui định của BLTTHS hiện hành mà bao gồm cả ngƣời bị bắt cho
phù hợp với qui định của Hiến pháp năm 2013 và ngƣời bị kết án nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong giai đoạn thi hành án.
Thứ ba, NBC là người được các CQTHTT chứng nhận thông qua việc cấp
Giấy chứng nhận NBC. Đặc điểm này được qui định tại khoản 4 Điều 56
BLTTHS năm 2003.
Thứ tư, NBC là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui
định. Bởi không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia tố tụng với tƣ cách là
NBC. Theo qui định của pháp luật thì các điều kiện đó là:
- Phải đƣợc NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ, những

ngƣời khác đƣợc họ ủy quyền mời [20, Điều 57, Khoản 1]; [17, điểm 2, Mục II]; đƣợc

9



CQTHTT yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC cho họ hoặc
đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử NBC cho thành viên của tổ chức mình trong trƣờng hợp bắt buộc phải có
NBC nhƣng NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ
không mời NBC [20, Điều 57, Khoản 2, 3]; hoặc do Trung tâm Trợ giúp
pháp lý Nhà nƣớc cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sƣ - Cộng tác viên
tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp
lý là NBTG, bị can, bị cáo [22, Điều 39];
- Phải không thuộc vào một trong những trƣờng hợp không đƣợc bào

chữa theo qui định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003;
- Phải đáp ứng điều kiện do các văn bản pháp luật khác qui định. Ví dụ:

đối với NBC là LS thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật LS và các văn bản
hƣớng dẫn; đối với NBC là Trợ giúp viên pháp lý thì phải đáp ứng các điều
kiện do Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hƣớng dẫn,...
Nhƣ vậy, trên cơ sở phân tích các đặc điểm về NBC và sự tiếp thu
những điểm hợp lý, khắc phục những hạn chế trong các khái niệm NBC nói
trên, dƣới góc độ khoa học Luật TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về
NBC trong Luật TTHS nhƣ sau: “NBC trong Luật TTHS là người đáp ứng
các tiêu chuẩn, điều kiện do pháp luật qui định, được CQTHTT cấp giấy
chứng nhận, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức để
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị bắt, NBTG, bị
can, bị cáo, người bị kết án và giúp đỡ các chủ thể đó về mặt pháp lý trong
các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
1.1.2. Chủ thể bào chữa
Một là, luật sư
Luật sư là ngƣời có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định

của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây gọi chung là khách hàng) [21, Điều 2].
10


Người muốn được hành nghề luật sư phải gia nhập một đoàn luật sư
phải có đủ các điều kiện theo quy định của Luật Luật sư, để đạt tiêu chuẩn để
trở thành luật sư hội đủ điều kiện được quy định tại Điều 10 Luật luật sư:
“Công dân Việt Nam trung thành với Tố quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, đã đƣợc đào tạo nghề luật sƣ, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sƣ,
có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sƣ thì có thể trở thành luật sƣ”. Và khi
đạt đủ tiêu chuẩn tại Điều 10 còn phải hội đủ điều kiện hành nghề luật sư
được quy định tại Điều 11 Luật luật sư: “Ngƣời cỏ đủ tiêu chuẩn quy định tại
Điều 10 của Luật này muốn đƣợc hành nghề luật su phải có chứng chỉ hành
nghề luật sƣ và gia nhập một Đoàn luật sƣ”.
Những luật sƣ đƣợc ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện
hợp pháp của họ mời làm ngƣời bào chữa đế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho họ và luật sƣ này không thuộc một trong những điều kiện không đƣợc bào
chữa đƣợc quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự: “Người đã tiến hành tổ tụng
trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng
trong vụ án đó; Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm
chứng, người giám định hoặc người phiên dịch" [20, Điều 56, Khoản 2], thì
luật sƣ đƣợc mời làm ngƣời bào chữa và đƣợc Cơ quan tiến hành tố tụng đồng
ý cấp giấy chứng nhận bào chữa thì luật sƣ đƣợc mời mới trở thành luật sƣ
bào chữa trong vụ án hình sự. Đây là hai điều kiện phải cùng tồn tại song
song với nhau có một bên chủ thể không đồng ý thì luật sƣ không thể trở
thành luật sƣ bào chữa trong vụ án hình sự.
Tóm lại, luật sƣ bào chữa là ngƣời có đủ điều kiện hành nghề theo quy
định của pháp luật và đại diện cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời mà luật sƣ bào chữa nhận lời bào chữa

và phải đƣợc Cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thi luật
sƣ mới chính thức trở thành luật sƣ bào chữa trong vụ án hình sự.

11


Hai là, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Ngƣời đại diện hợp pháp cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Ngƣời
đại diện hợp pháp cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có thể tham gia tố
tụng với tƣ cách là ngƣời bào chữa trong trƣờng ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo không tự mình bào chữa đƣợc hoặc trong trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên hoặc ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần
hoặc thể chất, ngƣời không có khả năng nhận thức hoặc nhận thức kém cần có
ngƣời đại diện về mặt pháp luật để giúp cho họ có thể tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích họp pháp của họ. Ngƣời đại diện hợp pháp cho ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là cha mẹ hoặc ngƣời giám hộ của ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.
Ngƣời đại diện hợp pháp không chỉ là ngƣời đại diện cho ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong vai trò là ngƣời bào chữa mà ngƣời đại diện hợp pháp
cũng có quyền thay mặt ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo mời ngƣời bào chữa
để giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Nhƣ vậy, ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là ngƣời đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên hoặc ngƣời có nhƣợc điểm về
tâm thần hoặc thể chất và họ phải tuân thủ theo những quy định mà pháp
luật đặt ra cho ngƣời bào chữa (nếu ngƣời đại diện hợp pháp thực hiện luôn
chức năng bào chữa).
Ba là, Bào chữa viên nhân dân
Đây là một diện chủ thể ngƣời bào chữa mang tính đặc thù riêng chỉ có
ở Việt Nam, đƣợc hình thành trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp

(theo Sắc lệnh số 69-SL ngày 18-6-1949). Theo Nghị định số 01 ngày 12-011950 của Bộ Tƣ pháp thì điều kiện trở thành Bào chữa viên chỉ bao gồm: có
quốc tịch Việt Nam, ít nhất có 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chƣa can án, do

12


đƣơng sự đƣợc quyền trình danh sách 3 ngƣời và đƣợc Chánh án lựa chọn
(hàng năm, Ủy ban kháng chiến hành chính và Chánh án lập ra một danh sách
bào chữa viên) [42].
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa
viên nhân dân để cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ
chức mình” [20, Điều 57, Khoản 3]. Tuy nhiên, khác với chế định bào chữa
viên theo Sắc lệnh 69-SL, thực tế tiêu chuẩn, cơ chế cử bào chữa viên nhân
dân, hồ sơ thủ tục liên quan chƣa đƣợc quy định rõ. Thực tiễn tố tụng hình
sự kể từ Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đƣợc ban hành đến nay, số lƣợng
ngƣời bào chữa là Bào chữa viên nhân dân rất ít. Việc bỏ quy định diện chủ
thể bào chữa là “Bào chữa viên nhân dân” là phù hợp trong điều kiện thực tế
hiện nay và năm trong chiến lƣợc phát triển nghề luật sƣ theo hƣớng chuyên
nghiệp hóa.
Ở một cách tiếp cận khác, có quan điểm cho rằng cấn tiếp tục giữ lại
chế định “Bào chữa viên nhân dân” trong diện chủ thể ngƣời bào chữa, bởi
không chỉ đơn thuần về yếu tố chính trị từ tính đặc thù trong truyền thống lịch
sử nghề luật sƣ ở Việt Nam.Trên diễn đàn của nhiều hội thảo, tọa đàm có ý
kiến cho rằng hiện nay do số lƣợng luật sƣ trên cả nƣớc còn thấp, chƣa đủ đáp
ứng yêu cầu giúp đỡ về mặt pháp lý, bào chữa trong các vụ án hình sự. Theo
thống kê từ nhiều nguồn khác nhau, tỉ lệ luật sƣ tham gia tố tụng hình sự
trung bình chỉ đạt khoảng 25% tổng số vụ án. Do vậy, cần thiết duy trì chế
định “bào chữa viên nhân dân” [16, tr. 162]. Tuy nhiên cần quy định rõ tiêu
chuẩn, điều kiện để xác định tƣ cách Bào chữa viên nhân dân. Khoản 3 Điều

72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở
lên, trung thành với tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến
thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ đƣợc
13


giao, đƣợc ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành
viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho ngƣời bị buộc tội là
thành viên của tổ chức mình.
Căn cứ vào hƣớng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TA nhân dân tối cao
tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 về quy định tại khoản
2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 thì một ngƣời đƣợc coi là BCVND khi ngƣời
đó đƣợc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tƣ 70/2011/TT-BCA ngày
10/10/2011 của Bộ Công an thì thủ tục cấp Giấy chứng nhận NBC đối với
BCVND là phải có giấy tờ chứng minh là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử đến; Giấy Giới thiệu của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận nơi
NBTG, bị can là thành viên [3]. Nhƣ vậy, nếu hiểu theo qui định của BLTTHS
năm 2003 và Thông tƣ 70 thì chúng ta có thể hiểu BCVND cũng chính là thành
viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc tổ chức thành viên của Mặt
trận, phạm vi tham gia bào chữa hẹp hơn so với NBC là LS (họ chỉ tham gia
bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình). BCVND
tham gia TTHS trong trƣờng hợp theo yêu cầu của CQTHTT hoặc do Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa
cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Bốn là, về người bào chữa là “người đại diện của người bị buộc tội”
Đây là một trong những điểm mới của BLTTHS 2015 quy định về chủ thể

bào chữa. Diện chủ thể ngƣời bào chữa này về nội hàm khái niệm có khác với
“ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo” quy định trong
điểm b Khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Liên quan đến chủ thể
này, trong pháp luật thực định ở nƣớc ta có những cách hiểu khác nhau. Mặt

14


khác, do pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội danh, đƣợc
quyền tự bảo vệ và nhờ ngƣời khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trong quá trình tham gia tố tụng, nên diện chủ thể bào chữa cho pháp nhân ngoài
luật sƣ còn có thể là đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Do đó khi quy định
là “ngƣời đại diện của ngƣời bị buộc tội” là bảo đảm tính đại diện, bao quát cho
các trƣờng hợp.
Năm là, về người bào chữa là “trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp
người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”
Chế định Trợ giúp viên pháp lý là một chế định hoàn toàn mới, lần đầu
tiên xuất hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, chƣa đƣợc qui định
trong BLTTHS năm 2003 nhƣng đƣợc BLTTHS năm 2015 ghi nhận đây là
một chủ thể có quyền bào chữa. Chế định Trợ giúp viên pháp lý ra đời thể
hiện tính ƣu việt, nhân văn của chế độ ta nhằm giúp cho ngƣời nghèo, đối
tƣợng chính sách, những ngƣời yếu thế trong xã hội đƣợc quyền bình đẳng
trong việc tiếp cận, sử dụng pháp luật, đƣợc mời NBC miễn phí nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nƣớc, làm việc tại Trung tâm
Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc, đƣợc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp thẻ
Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tƣ pháp [24, Điều 22].
Trợ giúp pháp lý cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, giúp ngƣời đƣợc
trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết

pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần vào việc phổ
biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng
ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Do tính chất vụ việc trợ giúp pháp lý phải liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý và không thuộc lĩnh vực kinh

15


doanh, thƣơng mại, nên trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nƣớc. Nhà
nƣớc giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý; khuyến khích, tạo điều kiện để mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sƣ và luật sƣ, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý.
Các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình khuyến
khích, tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức, thành viên, hội viên và
cá nhân khác làm việc tại cơ quan, tổ chức mình làm cộng tác viên trợ giúp
pháp lý. Về phần mình, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức khác có
liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình phối hợp, tạo điều kiện, cung cấp thông tin, tài liệu cho tổ chức thực
hiện trợ giúp pháp lý để trợ giúp pháp lý.
Theo Điều 10 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, đối tƣợng đƣợc trợ giúp
pháp lý bao gồm: ngƣời nghèo; ngƣời có công với cách mạng; ngƣời già cô
đơn, ngƣời tàn tật và trẻ em không nơi nƣơng tựa; ngƣời dân tộc thiểu số
thƣờng trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Những đối
tƣợng nói trên không phải là những trƣờng hợp bắt buộc chỉ định bào chữa theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, họ là đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách
nhân đạo và bảo đảm quyền bào chữa trong trƣờng hợp bản thân ngƣời bị buộc
tội hoặc thân nhân của họ không đủ điều kiện trang trải chi phí tố tụng và dịch
vụ pháp lý. Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm trợ giúp pháp

lý Nhà nƣớc và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý gồm tổ chức hành nghề
luật sƣ; tổ chức tƣ vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp.
Nhƣ vậy, ngƣời thuộc đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý có thể tự mình
hoặc thông qua ngƣời thân thích, ngƣời đại diện yêu cầu trợ giúp pháp lý đến
Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
hoặc tổ chức hành nghề luật sƣ, tổ chức tƣ vấn pháp luật tham gia trợ giúp
16


pháp lý trong phạm vi đăng kí. Khi yêu cầu, họ phải cung cấp giấy tờ chứng
minh là ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý; cung cấp thông tin tài liệu có liên quan
đến vụ việc trợ giúp pháp lý và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông
tin, tài liệu đó; tôn trọng tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, ngƣời thực hiện
trợ giúp pháp lý và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực
hiện trợ giúp pháp lý; không yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý khác
trợ giúp pháp lý cho mình về một vụ việc đang đƣợc tổ chức thực hiện trợ
giúp pháp lý trợ giúp; chấp hành pháp luật về trợ giúp pháp lý và nội quy thực
hiện trợ giúp pháp lý.
1.2. Đặc điểm của những vụ án hình sự bắt buộc phải có người
bào chữa
Trong pháp luật hình sự nƣớc ta chƣa có một khái niệm nào quy định về
những vụ án hình sự bắt buộc có ngƣời bào chữa. Tuy nhiên trong BLTTHS
2003 quy định các trƣờng hợp bắt buộc phải có ngƣời bào chữa nhƣ sau:
2. Trong những trƣờng hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc
ngƣời đại diện hợp pháp của họ không mời ngƣời bào chữa thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sƣ
phân công Văn phòng luật sƣ cử ngƣời bào chữa cho họ hoặc đề
nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của
Mặt trận cử ngƣời bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:

a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất
là tử hình đƣợc quy định tại Bộ luật hình sự;
b) Bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc
điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong các trƣờng hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều
này, bị can, bị cáo và ngƣời đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu
cầu thay đổi hoặc từ chối ngƣời bào chữa [20, Điều 57, khoản 2].

17


×