Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phân tích Thương vợ Tú Xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.53 KB, 5 trang )

1



THƯƠNG VỢ



Vào giai đoạn cuối thế kỷ IXX, có thể
kể tới hai cái tên nổi bật hơn cả, đó là nhà thơ
Nguyễn Khuyến và nhà thơ Trần Tế Xương. Trong đó, nếu Nguyễn Khuyến thiên về
mảng thơ trữ tình, thì Trần Tế Xương lại thiên về mảng trữ tình trào phúng. Mỗi nhà thơ
đều để lại cho người đọc những ấn tượng rất sắc nét. Về Thương vợ, đây là một bài
thơ trữ tình, những ta vẫn thấy cái chất trào phúng thấp thoáng ẩn hiện đâu đó, vẫn là
cái nét thơ rất riêng của Tú Xương trong bài thơ trữ tình này.
Về nhà thơ Trần Tế Xương, tên thường gọi của ông là Tú Xương. Tú Xương xuất
thân trong một gia đình nghèo. Nếu Nguyễn Khuyến là một bậc tam nguyên yên đổ, đỗ
đầu trong cả ba kỳ thi, thì Trần Tế Xương là một người rất lận đận trong con đường thi
cử. Mặc dù ông bền bỉ theo đuổi, dùi mài kinh sử, nhưng kết quả cuối cùng thì vẫn chỉ
đỗ cuối bảng tú tài.
Tú Xương để lại hơn 100 tác phẩm, chủ yếu là thơ, văn tế, câu đối, phú,.. Mảng
sáng tác thành công nhất của ông là thơ Nôm. Thơ Nôm ông sáng tác thường xoay
quanh hai mảng chính là trữ tinh và trào phúng. Trong đó, thơ trào phúng được coi là
sở trường của Tú Xương. Cái trào phúng trong thơ ông được thể hiện qua nhiều sắc
thái khác nhau, khi là mỉa mai giễu cợt, khi là châm biếm đả kích mạnh mẽ, khi lại là
phê phán quyết liệt.
Bài thơ Thương vợ thuộc đề tài viết về bà Tú- một đề tài độc đáo chiếm số lượng
lớn trong thơ Trần Tế Xương. Bà Tú được ông khắc họa rất nhiều lần trong thơ văn của
mình. Trong xã hội xưa, việc người phụ nữ nuôi chồng theo đuổi con đường khoa cử
là điều hết sức bình thường, như trong câu: "Sáng trăng trải chiếu hai hàng, Để anh đọc
sách để nàng quay tơ". Nhưng đối với Trần Tế Xương, ông luôn xem việc bản thân phụ


thuộc vào vợ là một nỗi đau, nỗi tủi hổ. Cũng vì vậy mà ông luôn trân trọng, biết ơn vợ.
Đó cũng là lí do khiến Trần Tế Xương đã rất nhiều lần đưa hình ảnh người vợ chăm chỉ,
tảo tần nuôi chồng nuôi con vào thơ của mình với tất cả sự yêu thương và kính trọng.
Đây có thể xem như là một đề tài mới lạ trong văn học xưa vì khi xưa, có rất ít người
viết về vợ. Nếu có viết, thì cũng chỉ là một bài văn tế khi vợ đã qua đời. Nhưng với Trần
Tế Xương, ông viết rất nhiều về vợ mình, đưa hình ảnh vợ vào thơ của mình rồi bày tỏ
sự biết ơn trân quý với bà.
Thương vợ là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ trữ tình của Tú Xương. Bài thơ
thể hiện tấm lòng của nhà thơ đối với vợ, đồng thời thể hiện nhân cách Tú Xương.
Đây cũng lại là tâm sự chua cay của người chồng– nạn nhân của một xã hội lố lăng,
đảo điên biến con người trở thành vô tích sự với chính mình và gia đình.






2


"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng"
Trước hết, tác giả đã tái hiện bối cảnh thời gian và không gian trong câu thơ
khai đề. Câu thơ mở đầu cất lên một cách rất tự nhiên, không chút cầu kỳ đã nói lên
bao điều về công việc của bà Tú. Từ "quanh năm" gợi ra cái vòng quay vô hạn của thời
gian. Quanh năm suốt tháng, triền miên từ ngày này sang ngày ngày khác, từ năm này
sang năm khác, bất kể thời tiết dù nắng dù mưa, dù gió giông dù bão nổi thì người phụ
này vẫn phải tảo tần duy trì công việc mưu sinh của mình. Hai từ "mom sông" cụ thể
hóa không gian làm việc của bà Tú. Đó là một phần đất nhô ra về phía lòng sông khá
cheo leo, nguy hiểm. Chênh vênh hiểm trở là thế, mà bà Tú vẫn phải xông pha nơi đầu

sông ngọn nguồn để buôn bán. Tú Xương đã quan sát thấu hiểu, từ đó phác lên hình
ảnh bà Tú tần tảo, chịu thương chịu khó với công việc kiếm sống qua ngày hết sức vất
vả, khó nhọc, cơ cực.
Nếu như câu thơ thứ nhất nói lên cái nỗi vất vả khó nhọc của bà Tú thì câu thứ
hai chính là lời giải của sự cơ cực ấy. Trước hết, tác giả tái hiện hình ảnh hai gánh nặng
oằn trĩu trên vai vợ, đó là năm con với một chồng. Ở đây, liên từ 'với' như một đòn gánh
cân xứng một bên là con, một bên là chồng. Gánh nặng 5 con cũng đã đủ vất vả rồi,
lại còn cả một ông chồng sánh ngang với 5 đứa con. Tú Xương tự xem mình là một
đứa con đặc biệt, một gánh nặng đặc biệt của bà Tú. Đó là một thoáng tự trào của tác
giả, khi tự mỉa mai, chế giễu chính bản thân mình. Tác giả thấy rằng lẽ ra, mình phải là
người san sẻ với vợ nuôi 5 đứa con, phải chung sức với vợ gánh vác gia đình. Vậy mà
không những không thể san sẻ bớt nhọc nhằn mà còn tự biến mình thành một gánh
nặng trên vai bà Tú. Qua hình ảnh trên, tác giải biểu lộ tâm trạng vừa tủi hổ, vừa thương
vợ, lại vừa tự thấy áy náy, xót xa. Cách dùng từ 'nuôi đủ', không thừa không thiếu, cho
thấy bà Tú là một người vợ, người mẹ tảo tần tháo vát. Dù cho công việc khó nhọc,
hoàn cảnh nặng nề như vậy thì bà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống đủ
đầy. Có thể thấy, bà Tú đã làm tròn, hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của một người
trụ cột kinh tế của gia đình. Như vậy, đằng sau từ 'nuôi đủ' này, ta thấy cả sự biết ơn,
trân trọng, ngưỡng mộ của Trần Tú Xương dành cho vợ mình.
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Hai câu thơ đã bộc lộ tính chất đặc thù công việc của bà Tú. Cách đảo cấu trúc
"Lặn lội thân cò", "Eo sèo mặt nước" tô đạm chân dung lam lũ bươn chải của một người
phụ nữ. Đầu tiên là "lặn lội", từ ngữ tượng hình gợi ra một dáng hình vất vả, phải xông
pha, bươn chải nơi đầu sông ngọn nguồn. Bên cạnh đó, từ tượng thanh 'eo sèo' tái hiện
hình ảnh bà Tú trong công việc buôn bán đời thường. Eo sèo tức là bon chen, tranh







3


giành trong buổi chợ đông. Điều này cũng được Trần Tế Xương nhắc tới trong một câu
thơ ở bài Văn tế sống vợ: " Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười".
Một lần nữa, tác giả đặt bà Tú vào bối cảnh thời gian và không gian lao động
nhưng được tái hiện một cách cụ thể và chi tiết hơn. 'Khi quãng vắng' để thể hiện được
cả không gian lẫn thời gian lao đông của bà Tú. Một không gian vắng vẻ, heo hút, chứa
đựng trong đó nhiều bất trắc và nguy hiểm. Để hoàn thành công việc, bà Tú phải tận
dụng tối đa thời gian, đi sớm hơn người, về muộn hơn người. Trong câu ca dao " Ra đi
mẹ dặn câu này, Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua", việc đi đò đầy ẩn chứa rất nhiều
bất trắc nguy hiểm. Nhưng hoàn cảnh của bà Tú đã không cho phép bà được lựa chọn,
đò đầy, đò đông cũng phải chen chân bước lên chuyến đò để hoàn thành công việc
của mình. Khi quãng vắng hay buổi đò đông đều thể hiện những nguy hiểm, những rủi
ro. Từ đó càng tô đậm sự vất vả, cơ cực của bà Tú thêm rõ nét hơn.
Nhà thơ đã mượn hình ảnh ẩn dụ "thân cò" để ví von thân phận người vợ của
mình. Từ hình ảnh thân cò mà hiện hình dáng vẻ bà Tú đang đơn độc, lầm lũi, lặn lội
kiếm ăn trong công việc mưu sinh đầy nguy nan. Thân cò gợi tả dáng vẻ gầy gòcủa
bà Tú, bà nhỏ bé yếu ớt như thế thật đáng thuơng làm sao. Hình ảnh con cò trong ca
dao vô cùng cực khổ bất hạnh :" Cái cò lặn lội bờ sông- Gánh gạo nuôi chồng tiếng
khóc nỉ non" hay "Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy
nay". Nếu trong ca dao xưa, hình ảnh 'con cò' đã trở nên quen thuộc, nay đi vào thơ
của Trần Tế Xương đã trở thành 'thân cò' qua sự sáng tạo của ông. Trước hết là cái
dáng hình nhỏ bé, gầy còm, lầm lũi; cạnh đó là nỗi đau thân phận của người phụ nữa
trong xã hội xưa. Và bà Tú là một trong những người phụ nữ ấy. Ông Tú thấu hiểu nỗi
vất vả và cả sự hy sinh thầm lặng của bà Tú nên đã dành sự cảm thông sâu sắc với
vợ mình.
“Một duyên, hai nợ âu đành phận

Năm nắng, mười mưa, dám quản công"
Nếu như trong hai câu thơ trên, người chồng đôn hậu với tấm lòng yêu thương
vợ đã hình dung ra được những cái vất vả, nhọc nhằn của bà Tú khi một thân một mình
mưu sinh trong cuộc đời mênh mông với rất nhiều bất trắc. Ở hai câu thơ này, vẫn là
cái tấm lòng thương vợ ấy, ông còn dõi theo những tâm tư sâu thẳm trong lòng người
vợ chịu thương chịu khó của mình.
Trước hết, từ 'duyên' và 'nợ' có thể được hiểu như một sự tiền định cho các mối
quan hệ của con người. 'Duyên' còn là nhân duyên, cái mối liên hệ tốt đẹp, hạnh phúc
giữa vợ và chồng. Nhưng có duyên thì sẽ có nợ. 'Nợ' thường gợi lên suy nghĩ về những
gánh nặng mà con người phải trả. Mà gánh nặng chính là sự nhọc nhằn, bất hạnh, đau
khổ. Việc sử dụng số từ 'một' và 'hai' như cố gợi đến mối quan hệ giữa số ít và số nhiều.






4


Nếu như đặt chúng vào câu thơ, có thể hiểu rằng ông Tú đang âm thầm xót thương,
nhìn lại cuộc đời làm vợ của bà Tú, của người phụ nữ cả đời tần tảo hi sinh cho chồng
con. Trong cuộc hôn nhân ấy, dường như duyên thì ít còn nợ thì nhiều, sự tốt đẹp hạnh
phúc thì khó thấy, còn khổ hạnh, vất vả thì nhiều vô kể. Qua đây, không chỉ thể hiện
được thân phận, cuộc đời của bà Tú, mà cao hơn cả là sự thấu hiểu, cảm thông cho số
phận của một con người mà được hưởng thì ít mà phải trả thì nhiều. 'Âu đành phận'
buông ra như một tiếng thở dài âm thầm, một cách nói hết sức dân dã, quen thuộc
trong đời sống hàng ngày 'âu cũng đành'. Lời tự nhủ của một người vở tảo tần, chấp
nhận mọi cái vất vả đắng cay, coi nó như cái phận của mình. Phía trên thì là 'thân', giờ
thì là 'phận' ở câu dưới đã cho thấy cái nhìn thương yêu của Trần Tế Xương cho người

vợ lam lũ được hiện rõ qua một bề dày xót thương qua hai tiếng 'thân phận'.
'Năm nắng mười mưa', cụm từ khiến ta không khỏi liên tưởng tới một thành ngữ
hết sức quen thuộc 'một nắng hai sương'. Ta lại một lần nữa thấy được cái sự sáng
tạo của Tú Xương trong việc sử dụng thành ngữ dân gian. Ở đây, cái sự vất vả, nhọc
nhằn còn được nhân lên gấp bội lần. Cái sự khiêm nhường, chịu đựng của bà Tú được
thể hiện qua cụm từ 'dám quản công'- một thái độ không bao giờ kể công, không bao
giờ than phận của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Qua cái ý tình mà Tú Xương gửi gắm trong hai câu thơ này, ta có thể khẳng định
rằng hai câu thơ nghe như lời tự nhủ chua chát của bà Tú nhưng lại chính là những lời
âm thầm dõi theo của một người chồng cảm thông với vợ mình. Ông xót xa cho người
phụ nữ dường như không biết than thân trách phận, không biết kể lể công lao. Than
thân là ông than thay cho bà, ghi công cũng là ông ghi thay cho bà. Hai câu thơ đã thể
hiện được cái tấm lòng khiêm nhường nhẫn nhịn của bà Tú và cả tình thương của ông
Tú dành cho vợ.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Lấy chồng hờ hững cũng như không"
Lời thơ như một tiếng chửi bẽ bàng. Nếu như tưởng rằng hai câu luận là thời
than thân trách phận của bà Tú, thì có lẽ đây sẽ là tiếng chửi của bà. Nhưng tất nhiên,
đó không phải. Một người phụ nữ cao thượng, đầy lòng vị tha như bà không thể buông
lời than vãn, vậy càng không thể cất lên tiếng chửi cay độc như thế này. Đây là tiếng
chửi của chính ông Tú. Ông tự trách mình thông qua tiếng chửi xót xa, chua chát, tiếng
chửi chứa đựng tất cả những cái xót xa, ân hận, ngượng ngùng của một người chồng
vô dụng, không thể hoàn thành cái trách nhiệm trụ cột với vợ, với con. Cụm từ 'ăn ở
bạc' là sự bạc bẽo, vô ơn. Trần Tế Xương chửi mình bạc bẽo vì hờ hững với vợ, thờ ơ,
bàng quang, không thấu hiểu vợ. Dù qua sáu câu thơ trên, qua mỗi phần ta đều thấy
không chỉ hình ảnh của người vợ, mà con là tình thương của người chồng. Vậy tại sao
ông lại tự giễu mình là hờ hững, vô tâm? Ông tự ý thức rằng mình vô dụng, mình bất







5


lực, không thể san sẻ được gánh nặng với vợ dù chỉ là một chút ít. Đây quả là một lời
tự trách chân thành của một con người trung thực với mình, trung thực với đời, dám
sòng phẳng nhận mình là một thứ ăn lương vợ.
Ông chửi thói đời, lên án cái xã hội nam tôn nữ ti một cách đầy phẫn uất. Cái xã
hội phong kiến nửa thực dân mà ông đang sống không dung nạp tài năng, tâm huyết,
khiến cho ông trở thành 'quan ăn lương vợ'. Gánh nặng trong cuộc đời của ông lại đè
nặng lên đôi vai gầy của người vợ đảm đang, nhân hậu và giàu đức hi sinh.
Có thể thấy, Thương vợ được xem như một thành công xuất sắc của Trần Tế
Xương. Cái thành công ấy được thể hiện qua nhiều phương diện khác nhau. Ngôn từ
sắc sảo, đầy sức biểu cảm mà giản dị, quen thuộc với đời sống hàng ngày. Sử dụng
sáng tạo vốn văn hóa dân gian từ những ca dao, thành ngữ và cả tục ngữ. Tất cả đều
đi vào thơ văn của Tú Xương môt cách dung dị, tự nhiên và đầy sáng tạo. Thông qua
đó, ông đã đồng thời thể hiện được hình ảnh bà Tú, một người phụ nữ Việt Nam tần
tảo, đảm đang, một con người khiêm nhường, cao thượng và giàu đức hi sinh. Song,
còn là tình thương yêu vợ sâu sắc, chân thành, cảm động của ông Tú dành cho vợ
mình. Bài thơ không chỉ dừng lại ở càm hứng cuộc sống, mà còn thấp thoáng một
tiếng chửi thời thế, hướng tới sự lên án một xã hội tàn bạo, khiến con người phải dấn
sâu vào cay đắng tủi hổ.
Là một nhà nho sinh ra vào thời kì Hán học đã thất thế nên một ông Tú chẳng
thể giúp gì được cho vợ con. Tâm trạng Thương vợ được trở lại nhiều lần trong thơ Tú
Xương. Thấu hiểu và trân trọng sự vất vả của vợ, tình cảm đối với người vợ hiền thảo
tảo tần đã khiến Tú Xương đóng góp cho văn học Việt Nam một hình tượng đẹp về
người phụ nữ phương Đông.








×