Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn phương pháp nghiên cứu khoa học: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về phương pháp nghiên cứu khoa học, chức năng của phép biện chứng duy vật với tư cách là phương pháp luận phổ biến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.17 KB, 21 trang )

Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
PHẦN MỞ ĐẦU
Vấn đề phương pháp nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu
khoa học. Khoa học có tính quy luật trong sự phát triển của nó. Ở từng giai đoạn
phát triển nhất định, đặc biệt ở những giai đoạn phát triển có tính chất bước ngoặt,
khi có nhiều khuynh hướng, nhiều trường phái thì có yêu cầu phải phân tích, phải
lý giải về phương diện lôgíc và phương pháp luận, phải xét xem hướng nào đúng,
hướng nào sai và mức độ đúng sai đó thế nào. Khoa học ở thời đại chúng ta phát
triển nhanh chưa từng thấy trong lịch sử. Số kiến thức của nhân loại được nhân lên
rất nhiều lần. Số kiến thức đó tăng lên hàng ngày, hàng tháng. Riêng số tạp chí
khoa học tự nhiên đã có mấy trăm nghìn và số tạp chí tóm tắt các tạp chí đó cũng
đã tới con số nghìn. Như vậy, sự lớn mạnh không ngừng của tri thức khoa học đòi
hỏi phải nắm lấy, phải lý giải, phải khái quát những thành tựu hiện có, phải vạch ra


những hướng đi mới để tìm ra những cái mà khoa học đang chờ đợi. Đồng thời, đó
cũng là yêu cầu của bản thân quá trình nhận thức.
Sự phát triển của khoa học trong thời đại của chúng ta đã làm cho phương
pháp tư duy siêu hình không thể tồn tại được nữa, phương pháp tư biện của triết
học tự nhiên cũng đã sụp đổ. Vì vậy, cần trang bị cho các nhà khoa học những
phương pháp nghiên cứu mới để nâng cao hiệu quả nghiên cứu.
Thực tiễn sản xuất và giáo dục, đào tạo cũng đòi hỏi phải vạch ra xem hiện
nay trong số những kiến thức đã thu lượm được thì cái gì cần thiết nhấ có thể áp
dụng vào sản xuất và cần đưa vào giảng dạy, cần dạy cái gì va dạy như thế nào.
Công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, phát triển xã hội trong điều kiện đầy
biến động và toàn cầu hoá mạnh mẽ đòi hỏi phải nắm được quy luật và những biểu
hiện đặc thù của nó nhằm tổ chức và quản lý xã hội một cách khoa học.

Trong số những nguyên nhân làm cho vấn đề phương pháp luận nổi lên còn
có yêu cầu của bản thân triết học mácxít. Triết học mác xít không đứng im một chỗ,

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 1


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
nó có yêu cầu phải được phát triển và bổ sung. Với tư cách là phương pháp luận
chung nhất, phương pháp luận phổ biến nó cần được thường xuyên hoàn thiện.
Chính vì lẽ đó mà việc nghiên cứu phương pháp và phương pháp luận là

nhiệm vụ quan trọng đối với những người làm triết học nói riêng và đối với tất cả
những người làm công tác nghiên cứu khoa học nói chung. Vì thế, tôi chọn đề tài
“Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về phương pháp nghiên cứu khoa học,
chức năng của phép biện chứng duy vật với tư cách là phương pháp luận phổ
biến” làm tiểu luận cho chuyên đề Phương pháp luận nghiên cứu khoa học.

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 2


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học

PHẦN NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC.
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Methodos (con đường
nhận thức) theo nghĩa thông thường, phương pháp là cách thức, thủ đoạn được chủ
thể sử dụng để đạt được mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương
pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách
quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức vào trong thực tiễn nhằm thực hiện
mục đích nhất định.
Phương pháp là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động
của chủ thể. “Phong trào cách mạng có khi giẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại
nữa, không phải vì thiếu một phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ yếu vì

thiếu một phương pháp cách mạng thích hợp”. (Lê Duẫn, Dưới lá cờ vẻ vang ..., sự
thật, Hà Nội, 1976, tr.34).
Chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp là những nguyên tắc cơ bản do lý trí
con người tự đặt ra. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng phương
pháp không phải hình thành một cách chủ quan, tuỳ tiện. Đó không phải là những
nguyên tắc có săn, bất biến. Tuỳ theo bản chất của đối tượng, mục đích của việc
nghiên cứu, tìm ra bản chất của sự vật và mục đích của việc tác động, biến đổi sự
vật, tuỳ theo điều kiện tồn tại của đối tượng, quy luật và xu thế vận động, phát triển
của đối tượng mà chủ thể mới xác định, nghiên cứu và hành động như thế nào? sử
dụng những phương tiện, công cụ, biện pháp gì? Trình tự tiến hành những bước
như thế nào cho thích hợp. Nói tóm lại, phương pháp không phải là thuần tuý chủ
quan mà chủ yếu là do những điều kiện khách quan (bản chất, quy luật của sự vật,

điều kiện tồn tại của sự vật, điều kiện hoạt động của chủ thể) quy luật.
Phương pháp có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau:

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 3


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
- Phương pháp riêng, phương pháp đặc thù (phương pháp chung) và phương
pháp phổ biến.
- Phương pháp nhận thức và phương pháp thực tiễn.

Việc phân biệt các phương pháp trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong thực tế,
các loại phương pháp đan xem, bổ sung lẫn nhau. Cùng một đối tượng hay công
việc có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, những cuối cùng chủ thể phải
lựa chọn một phương pháp tối ưu mang lại hiệu quả cao nhất. Lựa chọn phương
pháp giản tiện để giải quyết công việc phức tạp tiết kiệm thời gian, chi phí đem lại
hiệu quả cao trong điều kiện sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại đang
là xu hướng được chú ý hiện nay.
Theo quan điểm duy vật biện chứng (Chủ nghĩa Mác - Lênin), Phương pháp
là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để
điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định.
Theo Ăngghen, “Phương pháp không phải là điểm xuất phát mà là kết quả
cuối cùng của sự nghiên cứu. Phương pháp không phải là được ứng dụng vào giới

tự nhiên và lịch sử loài người mà là được rút ra từ trong giới tự nhiên và lịch sử loài
người. Không phải là giới tự nhiên và loài người thích ứng với phương pháp, mà
trái lại, nguyên tắc chỉ đúng nếu nó thích ứng với giới tự nhiên và lịch sử”
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định
phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa.
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương
pháp nhận thức và cải tạo hiện thực; là hệ thống chặt chẽ các quan điểm, các
nguyên ký chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp. Tất cả những lý luận và nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ
đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Trong số các
nguyên lý ấy thì quan trọng nhất là :

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 4


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
- Các nguyên lý thế gipứi quan gắn liền với bản tính của khách thể được
nghiên cứu đóng vai trò chỉ đạo, định hướng, gợi mở đối với quá trình tìm tòi,
nghiên cứu.
- Các nguyên lý, các nguyên tắc chung của bản thân một khoa học nào đó
hay của các khao học khác có vai trò định hướng, gợi mở việc xem xét, nghiên cứu
các sự vật hoặc cách thức sử dụng các tài liệu.

- Lý luận về một hay về nhiều phương pháp (nội dung của các phương pháp;
phạm vi; khả năng và nguyên tắc ứng dụng các phương pháp; mối quan hệ qua lại
giữa các phương pháp) sẽ được sử dụng trong khoa học ấy.
Với một cơ cấu như vậy phương pháp luận của các khoa học cụ thể sẽ bao
gồm được cả cái chung và cả cái riêng, bao gồm được cả các nguyên lý và phương
pháp phổ biến cũng như các nguyên lý và phương pháp của từng ngành khoa học
hay một nhóm khoa học, sẽ tránh được quan điểm thực chứng muốn loại trừ các
nguyên lý và phương pháp triết học ra khỏi phương pháp luận của các khoa học cụ
thể.
Như vậy, phương pháp luận không phải là một tập hợp tuỳ tiện các lý luận,
các nguyên lý, cũng không phải là tập hợp máy móc các phương pháp được sử
dụng trong một khoa học cụ thể nào. Phương pháp luận cũng không phải là một

khoa học độc lập đứng tách rời các khoa học; nó là một bộ phận không thể thiếu
của bất cứ một ngành khoa học nào, bởi vì nó chính là lý luận hay học thuyết về
phương pháp được sử dụng trong một ngành khoa học nào đó. Do đó, mỗi khoa
học đều có phương pháp luận của mình. Song, điều này không ngăn sản sự tồn tại
của một lý thuyết đóng vai trò phương pháp luận chung cho một nhóm ngành khoa
học.
Theo quan niệm chung hiện nay thì có; phương pháp luận riêng chỉ áp dụng
cho một môn khoa học nhất định; phương pháp luận chung áp dụng cho một số bộ

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 5



Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
môn khoa học; phương pháp luận chung nhất áp dụng được cho tất cả các bộ môn
khoa học. Phương phápluận chung nhất, phổ biến nhất chính là triết học.
Tuy nhiên, triết học có nhiều loại, vì vậy chỉ có triết học khoa học - triết học
mác xít được xét từ góc độ là học thuyết về phương pháp nhận thức và cải tạo thực
tiễn, mới có thể đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất. Trong điều kiện hiện
nay, các nguyên lý của triết học mác xít có thể phát huy đầy đủ và tốt nhất chức
năng thế giới quan và phương pháp luận của nó. Triết học mác xít có khả năng vạch
ra phương thức chung để đạt đến tri thức lý luận, giúp cho việc xác định phương
hướng nghiên cứu, cách đặt vấn đề và chỉ ra cách thức chứng minh các luận điểm.

Mặc dầu vậy, triết học mác xít với tư cách là phương pháp luận chung nhất và phổ
biến nhất không thay thế phương pháp luận của các khoa học cụ thể.
Triết học mác xít không đứng im một chỗ, nó có yêu cầu phải được phát triển
và bổ sung. Với tư cách là phương pháp luận phổ biến chung nhất, phương pháp
luận phổ biến nó cần được thường xuyên hoàn thiện.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ CHỨC NĂNG PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA NÓ.
1. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật mácxít.
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và
tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép biện chứng
duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
Đây là các nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản

của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể các nguyên lý trên. Nghiên cứu và làm
sáng tỏ các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật cơ bản đó là nhiệm vụ của phép
biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: Vậy là từ trong lịch sử của giới tự
nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà người ta đã rút ra được các quy luật của
biện chứng. Những quy luật không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung
nhất của hai giai đoạn phát triển lịch sử ấy cũng như là bản thân tư duy.
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 6


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học

Triết học mácxít là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin
khẳng định rằng, “triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” [Nxb
Tiến bộ Mátxcơva (1980), V.I.Lênin toàn tập, t.23, tr.54]. Tuy nhiên, khác với chủ
nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy
móc, siêu hình, không biết áp dụng phép biện chứng vào quá trình nhận thức và
duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội, chủ nghĩa duy vật của Các Mác và Ph.
Ăngghen đã khắc phục tất cả những thiếu sót ấy, phát triển triết học duy vật lên
trình độ cao hơn, đã “hoàn thành cái lâu đài triết học duy vật cho đến tận
đỉnh”[Nxb Tiến bộ Mátxcơva (1980), V.I.Lênin toàn tập, t.23, tr.298] bằng cách kế
thừa có phê phán những gì là tinh túy, là quý giá, là thành quả của triết học cổ điển
Đức, trước hết là triết học Hêghen. Thành quả quý giá đó chính là “phép biện
chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất

và không phiến diện”[Nxb Tiến bộ Mátxcơva (1980), V.I.Lênin toàn tập, t.23,
tr.53], “là học thuyết toàn diện nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất về sự phát
triển”[Nxb Tiến bộ Mátxcơva (1980), V.I.Lênin toàn tập, t.26, tr.63].
Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm vì điểm
xuất phát của nó là ý niệm, cho nên không thể dùng nó một cách nguyên xi được
mà cần phải cải tạo nó, phải giải thích nó trên lập trường duy vật. Dựa vào những
thành tựu của khoa học tự nhiên mà Ph. Ăngghen gọi là ba phát minh vĩ đại của thế
kỷ XIX và của thực tiễn xã hội cho đến giữa thế kỷ XIX, Các Mác và Ph.Ăngghen
đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Trong triết học Mác, phép biện chứng
không tách rời chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật
biện chứng, còn phép biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật, như V.I.Lênin
nói, chúng trở thành một khối thép duy nhất mà trong đó, người ta không thể bỏ

một tiền đề cơ bản nào, một phần cốt yếu nào, mà không xa rời chân lý khách quan.
Cho nên, sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng, trong triết học Mác chỉ có chủ nghĩa duy vật
mới là lý luận, còn phép biện chứng chỉ là phương pháp. Cần khẳng định rằng, cả
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 7


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng đều đóng vai trò là lý luận vì không có các
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, mà tất cả các nguyên lý của phép biện chứng
trước hết đều là sự phản ánh khái quát quá trình vận động và phát triển của hiện

thực. V.I.Lênin gọi phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển, tức là lý luận về
sự phát triển chính là vì lý do đó.
Lý luận về sự phát triển hay phép biện chứng ấy bao gồm:
Thứ nhất, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật được giải thích một cách biện
chứng.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng, “trong thế giới, không có cái gì ngoài
vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu khác
ngoài không gian và thời gian”[Nxb Tiến bộ Mátxcơva (1980), V.I.Lênin toàn tập,
t.18, tr.209]; rằng, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là sự phản ánh tự giác ít nhiều tích cực của các sự vật và
quá trình hiện thực của thế giới vật chất.
Như vậy, trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái thứ nhất,

quyết định và tồn tại độc lập với ý thức, còn ý thức là cái thứ hai, cái bị quyết định
và tồn tại lệ thuộc vào vật chất. Tuy nhiên, khác với chủ nghĩa duy vật trước Mác,
chủ nghĩa duy vật biện chứng, một mặt, khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật
chất, coi ý thức là sự phản ánh tự giác thế giới vật chất, mặt khác, lại kiên quyết
thừa nhận tác dụng tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất. Thông qua hoạt động
của con người, ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật
chất ấy.
Thứ hai, ngoài các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, lý luận về sự phát triển
còn bao gồm các nguyên lý của phép biện chứng đã được giải thích trên lập trường
duy vật. Theo các nguyên lý đó:
a. Mỗi kết cấu vật chất đều có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật,
các hiện tượng, các quá trình khác của hiện thực.

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 8


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
b. Tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng trong bộ óc con người
đều ở trong trạng thái biến đổi và phát triển không ngừng. Nguồn gốc của sự phát
triển đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ngay trong lòng sự vật. Phương thức
của sự phát triển đó là sự chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại theo kiểu nhảy vọt. Còn chiều hướng của sự phát triển này
là sự vận động theo đường xoáy trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng. Những

nguyên lý và quy luật cơ bản trên đây của phép biện chứng, tức là của học thuyết
về sự phát triển được V.I.Lênin trình bày một cách rất cô đọng như sau: “Sự phát
triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở
một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”), “Sự phát triển có thể nói là theo
đường trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng; - sự phát triển bằng những bước
nhảy vọt, bằng những sự đột biến, bằng những cuộc cách mạng; - “những bước
gián đoạn của sự tiến triển dần dần”; sự biến đổi lượng thành chất; - những kích
thích nội tại theo hướng phát triển, những kích thích gây ra bởi sự mâu thuẫn, bởi
sự xung đột giữa những lực lượng và giữa những xu thế khác nhau đang tác động
vào một vật thể nhất định, trong một phạm vi hiện tượng nhất định, hoặc trong nội
bộ một xã hội nhất định; sự phụ thuộc lẫn nhau và mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết
giữa tất cả các mặt của từng hiện tượng (và lịch sử luôn luôn làm lộ ra những mặt

mới) - các mối liên hệ quy định quá trình vận động có tính chất thế giới, thống nhất
và có quy luật; đó là một số đặc điểm của phép biện chứng, tức là học thuyết về sự
phát triển, có một nội dung phong phú hơn (so với học thuyết thông thường)”[Nxb
Tiến bộ Mátxcơva (1980), V.I.Lênin toàn tập, t.26, tr.65].
Thứ ba, phép biện chứng duy vật, như V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, còn
đồng thời là lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác. Theo lý luận ấy thì nhận thức là
sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn
giản, trực tiếp, hoàn toàn, mà là một quá trình nhờ đó tư duy mãi mà và không
ngừng tiến gần đến khách thể. Sự tiến gần ấy được bắt đầu từ trực quan sinh động.
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 9



Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
V.I.Lênin viết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan”[Nxb Tiến bộ Mátxcơva (1981), V.I.Lênin toàn tập,
t.29, tr.179]. Cơ sở, động lực và mục đích của toàn bộ quá trình này là thực tiễn.
Thực tiễn đó cũng đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.
Nội dung của phép biện chứng duy vật không phải chỉ được thể hiện trong
những nguyên lý và quy luật trên đây, mà còn được thể hiện trong hàng loạt quy
luật về các mối quan hệ qua lại biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nguyên
nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, hiện tượng và bản

chất, khả năng và hiện thực....Tuy nhiên, những nguyên lý và quy luật kể trên là
những nguyên lý và quy luật cơ bản nhất.
2. Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của Phép
biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể và nguyên tắc phát triển.
2.1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn.
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ
biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng
quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự

tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối
liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 10


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm

đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải
chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta
phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất
nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc
tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể.

Theo Lênin: “Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải
đặt nó trong mối liên hệ với sự vật và hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt,
các yếu tố, kể các cả mắc khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Mặc dù trên thực
tế chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, chính xác
nhưng sự cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm
phải sai lầm và sự cứng nhắc”.
2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm
nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm
khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của

từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 11


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế
diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối,
chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của
hoàn cảnh cụ thể.
2.3. Quan điểm phát triển

Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó
con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát
triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở
sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng,
phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi.
Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến
đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình
phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương

pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh
hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại
đối với đời sống của con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con
người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011


Trang 12


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận
dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
3. Vai trò phương pháp luận của phép biện chứng duy vật với tư cách là
phương pháp luận phổ biến.
Những nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật nói chung,
của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng, đã được trình bày vắn tắt ở trên, như chúng
ta thấy, là sự phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến
nhất của hiện thực khách quan. Vì vậy, chúng có giá trị định hướng rất lớn cho con

người trong hoạt động thực tiễn của mình. Gía trị định hướng này, về nguyên tắc,
không khác với giá trị định hướng của nguyên lý và qui luật chung do một bộ môn
khoa học chuyên ngành nào đấy nêu lên về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện
thực, chẳng hạn, không khác với giá trị định hướng của định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng, của định luật vạn vật hấp dẫn, của qui luật giá trị ... Cái
khác chỉ là ở chỗ vì các nguyên lý và qui luật của phép biện chứng duy vật là sự
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của cả tự
nhiên, xã hội và tư duy cho nên chúng có tác dụng định hướng không phải chỉ trong
một phạm vi nhất định nào đấy như đối với các nguyên lý và qui luật do các khoa
học chuyên ngành nêu lên, mà trong tất cả mọi trường hợp. Chúng giúp cho con
người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật không phải xuất phát
từ một lập trường nhất định, thấy trước được phương thức vận động chung của đối

tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải
tiến sự vật phải trải qua, nghĩa là chúng giúp cho con người xác định được về đại
thể con đường cần đi, có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn
đề, tránh được những lầm lạc hay mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng
chịt phức tạp mà không có tư tưởng dẫn đường.
Chẳng hạn, một trong những vấn đề bức xúc mà bất kỳ ai trong chúng ta
cũng mong muốn giải quyết - đó là loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 13



Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
Những tất cả vấn đề là loại trừ bằng cách nào?
Có người nghĩa rằng, chúng ta có quyền trong tay và vì chỉ cần sử dụng
quyền lực đó ra lệnh cấm là được.
Thực ra vấn đề không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Tôn giáo, như chúng ta biết, là một trong những hình thái ý thức xã hội. Sự
xuất hiện và tồn tại của nó có những nguyên nhân khách quan nhất đinh. Trong
những thời kỳ đầu của lịch sử, sự thống trị của những sức mạnh thiên nhiên bên
ngoài có ý nghĩa quyết định đối với sự ra đời và tồn tại của tôn giáo. Đến khi xã hội
có giai cấp xuất hiện, thì ngoài những sức mạnh thiên nhiên đó ra còn có cả những
sức mạnh xã hội nữa. Những sức mạnh xã hội ấy cũng chi phối cuộc sống con
người một cách huyền bí, khó hiểu y hệt những sức mạnh thiên nhiên vậy. Trong

những xã hội có giai cấp thì chính áp bức xã hội là nguồn gốc chủ yếu của tôn giáo.
Cho nên, muốn đấu tranh chống tôn giáo phải đấu tranh chống những nguyên nhân
vật chất đã sản sinh ra tôn giáo. Nói cách khác, theo các nhà kinh điển của Chủ
nghĩa Mác, muốn loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội thì phải loại trừ mọi chế
độ người bóc lột người chứ không phải chỉ dùng biện pháp cấm đoán mà được.
Chính vì vậy, một mặt, chúng ta chủ trương tự do tín người, xem đó là quyền riêng
của mỗi người, nhưng mặt khác, chúng ta tiến hành cuộc cách mạng xã hội nhằm
xây dựng một chế độ xã hội không có chế độ người bóc lột người. Và bằng cách
đó, loại trừ nguồn gốc xã hội sâu xa đã sản sinh ra tôn giáo làm cho tôn giáo tự nó
phải tiêu vong đi. Đó là một đường lối khoa học và đường lối đó chỉ có thể có được
trên cơ ở lập trường duy vật.
Như vậy, xuất phát từ những lập trường triết học khác nhau, chúng ta đã đi

đến những cách giải quyết vấn đề khác nhau và do đó, việc chấp nhận hay không
chấp nhận một lập trường triết học nhất định sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp
nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định
về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp nhận một cơ sở phương pháp
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 14


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
luận nhất định cho hành động. Trong trường hợp ở đây, xuất phát từ lập trường duy
vật, coi vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, chúng ta đi tìm những nguyên

nhân vật chất đã sản sinh ra tôn giáo và tìm cách loại trừ chúng để loại trừ tôn giáo
ra khỏi đời sống xã hội. Còn những ai xuất phát từ lập trường duy tâm, dù tự giác
hay không tự phát, coi ý thức là cái gì đó có trước và quyết định vật chất sẽ tìm
cách loại trừ tôn giáo chỉ bằng sức mạnh của ý chí, bằng cách cấm đoán. Rõ ràng
cách giải quyết thứ hai này sẽ không dẫn đến kết quả được.
Thí dụ trên đây cho thấy rằng, triết học không phải là một cái gì quá xa xôi,
viễn vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với đời sống, với thực tiễn, là cái
định hướng, cái chỉ đạo cho chúng ta trong hành động. Xuất phát từ một lập trường
triết học đúng đắn, cụ thể là xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chúng ta có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do
cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm,
chúng ta không thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây, thể hiện giá trị định

hương - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của phép
biện chứng duy vật. Tiếc rằng, giá trị này hiện nay, theo chúng tôi chưa đuợc chúng
ta chú ý khai thác triệt để, có lẽ chính vì vậy mà còn có những sự đánh giá chưa
thoả đáng về vai trò của triết học trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống.
Sự đánh giá chưa thoả đáng đó thể hiện trước hết ở thái độ coi thường vai trò
của triết học. Những người giữa thái độ này cho rằng triết học nghiên cứu và giải
quyết những vấn đề quá chung nên những kết quả nghiên cứu của nó chẳng có tác
dụng thiết thực gì hết. Cái khó theo họ là phải giải quyết những vấn đề cụ thể do
thực tiễn đất nước đang đặt ra thì chỉ có cách là lao mình vào hoạt động thực tiễn
và từ trong thực tiễn mà tìm ra câu trả lời chứ không thể trông chờ gì được vào triết
học cả.
Ý kiến trên đây,trong chừng mưc nhất định ,có căn cứ của nó,vì trong nhiều

truờng hợp khi giải quyết những vấn đề cụ thể,các cán bộ làm công việc thực tiển
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 15


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
không thể tìm thấy ơ các cán bộ làm công tác triết học một câu trả lời cụ thể. Nói
như thế không có nghĩa là những nghiên cứu triết học hoàn toàn không có tác dụng
thiết thực gì trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống. Vì sao vậy?
Vì để giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống một cách có hiệu quả, không
một ai có thể lãng tránh việc giải quyết những vấn đề chung liên quan đến các vấn

đề cụ thể đó. Nếu không giải quyết những vấn đề chung sẽ không tránh khỏi sẽ sa
vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện. Khi phê phán những người xem thường việc giải
quyết những vấn đề “chung” hay là những vấn đề có “tính chất lý luận” tức là
những vấn đề không có liên hệ trực tiếp với một nhiệm vụ thực tế nhất định nào đó
đề ra trước Đảng vào thời điểm đang xét, V.I.Lênin viết rằng, những người đó đã
“lãng tránh những vấn đề chung rộng lớn”. “Họ đã quên mất rằng xét cho cùng,
chính sách rộng lớn – có tính nguyên tắc chính là chính sách duy nhất thực sự thực
tế. Họ đã quên rằng người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết
những vấn chung, thì kẻ đó, trên những bước đi sẽ không sao tránh khỏi vấp phải
những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà dù có vấp phải những vấn đề
đó trong trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có
những sự dao động tồi tệ nhất và mất hắn tính quy tắc”. (Chúng tôi nhấn mạnh

chính mình). Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng có thể giải quyết một cách có hiệu
quả những vấn đề riêng mà không cần giải quyết những vấn đề chung. Nói cách
khác, những vấn đề chung và những vấn đề riêng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau,
chặt chẽ tới mức không thể giải quyết những vấn đề thuộc loại này một cách có
hiệu quả nếu không tính đến kết quả giải quyết những vấn đề thuộc loại kia và
ngược lại.
Chẳng hạn, một trong những vấn đề mà chúng tư sản rất quan tâm là vấn đề
xác định cho đúng những khả năng hiện có và tiềm năng của đất nước. Do không
đánh giá đúng các khả năng ấy nên trong việc đề ra phương hướng và nhiệm vụ của
kế hoạch phát triển kinh tế trước đổi mới chúng ta đã phạm chủ quan, nóng vội, đề
Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011


Trang 16


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao, đồng thời lại cũng
bảo thủ và trì trệ trong việc đánh giá và vận dụng các khả năng nhiều mặt khác.
Vì vậy, một vấn đề rất lớn đặt ra là phải xác định đúng các khả năng và phải
khai thác mọi khả năng hiện có và tiềm tàng, đồng thời phải bồi dưỡng cho cán bộ,
đảng viên ... biết phát hiện và khai thác những tiềm năng của đất nước.
Nhưng muốn đi vào giai quyết vấn đề này có căn cứ khoa học, thì không thể
nào không giải quyết những vấn đề như: thế nào là khả năng, phân biệt thế nào khả
năng với hiện thực, với mục đích chủ quan với ước vọng của con người? đặc biệt là

phải làm thế nào để phát hiện được và cho đúng khả năng? Riêng việc giải đáp cho
câu hỏi cuối cùng này đòi hỏi phải làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề như: cần tìm khả
năng ở đâu? Căn cứ vào những biểu hiện nào để phát hiện khả năng? Cái gì làm
này sinh khả năng: cấu trúc sự vật, điều kiện bên ngoài, các quy luật đang tác động
trong quá trình phát triển của sự vật hay những mâu thuẫn ngay trong bản thân nó?
Vai trò của nhân tố chủ quan ở đây ra sao?...
Rõ ràng đây là những vấn đề phương pháp luận chung, trước là những vấn đề
của triết học. Và bằng việc làm sáng tỏ những vấn đề ấy các cán bộ triết học sẽ góp
phần tích cực của mình vào việc giải quyết những vấn đề cấp bách của cuộc sống.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu từ đó lại đi đến tuyệt đối hoá vai trò của triết
học, nghĩa rằng chỉ cần nắm được triết học thì lập tức sẽ giải quyết được tất cả
những vấn đề cụ thể của thực tiễn. Có nơi, có lúc vì quá nhấn mạnh vai trò của triết

học nên đã gây ra ở một số người ảo tưởng cho rằng, triết học là cái chìa khoá vạn
năng, chỉ cần nắm được nó là sẽ tự khắc giải quyết đuợc mọi vấn đề cụ thể. Nhiều
khi chính chúng ta, những cán bộ triết học, cũng mắc sai lầm này khi muốn tự mình
xông vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cụ thể chỉ với tri thức triết học chung,
chỉ với những kiến thức về các quy luật và các mối quan hệ chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy mà không nắm đuợc những tri thức cụ thể.

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 17



Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
Nhà vật lý học nổi tiếng Liên Xô – V.L.Kapixa – đã có một sự so sánh rất
đáng chú ý. “Việc áp dụng phép biện chứng vào lĩnh vực các khoa học tự nhiên đòi
hỏi phải có một sự hiểu biết cực kỳ sâu sắc các tài liệu thực nghiệm và sự khái quát
hoá chung về mặt lý luận. Thiếu điều đó thì phép biện chứng tự bản thân nó vẫn
không thể đưa lại lời giải đáp cho vấn đề. Phép biện chứng như cây vĩ cầm của
Xtradivariux - một cây vĩ cầm hoàn hảo nhất trong tất cả các cây vĩ cầm, nhưng để
sử dụng được nó thì phải biết âm nhạc và phải làm nhạc công. Thiếu điều đó thì cây
vĩ cầm này cũng chỉ phát ra những âm thanh sai lệch như những cây vĩ cầm thông
thường mà thôi”. Nhận xét trên đây cũng chỉ đúng cho trường hợp vận dụng phép
biện chứng vào các ngành khoa học tự nhiên, mà cũng đúng cho tất cả các trường
hợp vận dụng phép biện chứng vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo

thực tiễn.

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 18


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
KẾT LUẬN
Như vậy, để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết
sức phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực
sai lầm: hoặc là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào những tình trạng mò mẫm,

tuỳ tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương
hướng thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trông tác; hoặc là tuyệt
đối hoá vai trò của triết và do đó sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách
máy móc những nguyên lý, những quy luật chung mà không tính đến những tình
hình cụ thể do không nắm được tình trạng cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể.
Trong điều kiện hiện nay, các nguyên lý của phép biện chứng duy vật có thể
phát huy đầy đủ và tốt nhất chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó.
Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận của sự nhận thức, là phương pháp
luận chung nhất đối với khoa học hiện đại. Nó chỉ ra phương thức chung nhất để
đạt đến tri thức lý luận, nó giúp cho việc xác định hướng nghiên cứu, cách đặt vấn
đề, nó chỉ ra phương thức chứng minh các luận điểm ... Với tư cách là phương pháp
luận phổ biến, phương pháp luận chung nhất, nó không thay thế phương pháp của

các khoa học cụ thể.

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 19


Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982.
2. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.54.

3. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.298.
4. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.26, tr.63.
5. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.26.
6. GS.TS.Nguyễn Trọng Chuẩn, Phương pháp luận và vai trò của phương
pháp luận triết học trong nghiên cứu khoa học,
7. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Giáo trình Triết học, Hà Nội, 2009.

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 20



Tiểu luận Chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................3
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC..................................................................................3
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ CHỨC NĂNG PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA NÓ........................................................................................................6
1. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật mácxít.....................................6
2. Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật.. . .10
2.1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn..........................................10
2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể................................................................................11

2.3. Quan điểm phát triển........................................................................................12
3. Vai trò phương pháp luận của phép biện chứng duy vật với tư cách là
phương pháp luận phổ biến..................................................................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................20

Học viên: Trương Ngọc Dũng – Cao học Văn hoá học - Khoá 2011

Trang 21




×