Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Bài tập nhóm môn luật hiến pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.67 KB, 47 trang )

LUẬT HIẾN PHÁP
Lớp K18502
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Giảng viên Ths. Lưu Đức Quang

Nguyễn Ngọc Đông Nghi
Lê Kim Bảo Ngọc
Trần Quốc Thanh
Huỳnh Tấn Thành
Đặng Sơn Tùng
Nguyễn Phương Uyên

K185021667
K185021669
K185021685
K185021686
K185021706
K185021709

Luật Hiến
pháp


BÀI TẬP 1
BỐN ĐẶC TRƯNG CỦA HIẾN PHÁP


1.

HIẾN PHÁP LÀ LUẬT CƠ BẢN

Luật Hiến pháp về bản chất là một đạo luật, song đây là đạo luật đặc biệt có vị trí cơ
bản đứng trên các đạo luật khác, ngay tại Khoản 1 Điều 119 của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng đã khẳng định điều này: “Hiến
pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp
lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp...”.
Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, tính luật cơ bản của Hiến pháp thể
hiện ở chỗ các quy phạm của nó mang tính cơ sở, xác định những vấn đề cơ bản
nhất, quan trọng nhất của nhà nước. Đó là quy định về chế độ chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, mối quan hệ cơ bản giữa
nhà nước và công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, Hiến
pháp được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là nền tảng và mang tính định hướng để
xây dựng các đạo luật thông thường khác. Chúng được xây dựng để cụ thể hóa các
chế định, quy phạm của Hiến pháp, và vì vậy, không được trái với Hiến pháp. Khi
Hiến pháp được thay thế hoặc sửa đổi, các đạo luật có những quy định trái hoặc còn
thiếu so với nội dung của Hiến pháp đều phải được thay thế hoặc sửa đổi theo. Điều
này tạo ra tính thống nhất của hệ thống pháp luật và thể hiện mức độ tác động trực
tiếp của hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Theo như Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, Điều VI, Mục QUYỀN TỐI CAO CỦA
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA, “Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa Kỳ được ban hành
theo Hiến pháp này, mọi hiệp ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa
Kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan tòa ở các bang đều phải tuân theo những
luật này; bất cứ một điều gì trong Hiến pháp hoặc luật của các bang mà trái ngược
với Hiến pháp Liên bang đều không có giá trị”. Như vậy ta thấy, các nhà soạn thảo
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định Hiến pháp là “Bộ luật tối cao của đất nước”. Các tòa
án đã cho rằng câu này có nghĩa là khi có các bộ luật được các bang (kể cả hiến
pháp từng bang) hay Quốc hội đưa ra mà mâu thuẫn với hiến pháp liên bang,

những luật đó không có hiệu lực.1
Ví dụ như vụ việc Tiểu bang California xin tính tiền Medi-Cal, Liên Bang bác bỏ vì
sai luật.2
California đòi tiền co-pay với dân hưởng Medi-Cal để tiết kiệm nửa tỷ đô/năm
1 />2 />
bo-vi-sai luat?


Chính quyền của Thống Đốc Jerry Brown sẽ khiếu nại về chuyện này, theo lời H.D.
Palmer, phát ngôn nhân Bộ Tài Chánh California.
Nếu quyết định này không đảo ngược, California sẽ phải tốn kém thêm 575 triệu đô
trong tài khóa năm tới, theo lời Palmer.
California đang đòi những người nghèo đang hưởng Medi-Cal phải trả 5 đôla mỗi
lần tới phòng mạch bác sĩ, trả 3 đôla mỗi toa thuốc, và trả tới 200 đôla mỗi lần tới
bệnh viện.
Nhưng Bộ Y Tế và Nhân Dụng Liên Bang, nơi phải chấp thuận các thay đổi vì
Medi-Cal là một phần chương trình MediCaid của liên bang, nói kế hoạch của
California vi phạm Luật An Sinh Xã Hội.
Brian Cook - phát ngôn nhân Trung Tâm Dịch vụ Medicare và Medicaid, thuộc Bộ
Y Tế, nói, “Chúng tôi công nhận nhu cầu tiểu bang cần giảm chi phí và chúng tôi hỗ
trợ mục tiêu sử dụng hiệu quả dịch vụ y tế. Nhưng chúng tôi bác bỏ việc bắt dân
nghèo trả tiền co-pay vì không phù hợp với bộ luật.”
Quyết định liên bang ngăn cản tiểu bang tính tiền co-pay khi người lãnh MediCal
khám bệnh được các hội bênh vực dân nghèo ca ngợi.
2. HIẾN PHÁP LÀ LUẬT TỔ CHỨC

Sự hiện diện của một bản Hiến pháp luôn là hiện thân của những tư tưởng lập hiến
nhất định, và trong đó có tư tưởng về cách thức tổ chức mô hình chính quyền và sự
phân quyền giữa các cơ quan nhằm kiểm soát, cân bằng quyền lực một cách hiệu
quả hơn, điển hình nhất là tổ chức mô hình chính quyền tam quyền phân lập. Không

chỉ Hiến pháp Việt Nam mà Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện
nay đều tổ chức mô hình chính quyền dựa theo lý thuyết tam quyền phân lập, mặc
dù mức độ và cách thức áp dụng ít nhiều khác nhau.
Chẳng hạn như cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam được quy định
trong khoản 3, Điều 2, Hiến pháp 2013, theo đó: "Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp." Các nhánh quyền lực này được
giao cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và được quy định cụ thể trong các
Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Các cơ quan này đều có nhiệm vụ, quyền hạn riêng và tương đối độc lập với nhau,
tuy nhiên giữa chúng vẫn có những mối quan hệ nhất định.
Ví dụ như theo Điều 9, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Quốc hội phê chuẩn các
chức danh trong bộ máy nhà nước như: phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính
phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ theo danh sách đề cử chức vụ từng người (khoản 1, Điều
9),...hoặc như Điều 14, Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ cơ quan; thành lập,
giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính, ...


Hay như theo khoản 7, Điều 27, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội phê chuẩn về việc đề nghị bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC,...
Ngoài ra, Quốc hội còn có nhiều mối quan hệ liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Hội đồng nhân dân địa phương, Ủy ban nhân dân địa phương, Tòa án nhân
dân địa phương, Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
Cũng tương tự như Hiến pháp Việt Nam, dựa trên học thuyết này, Hiến pháp của
hầu hết các nước đều thể hiện tính đặc trưng là luật tổ chức khi tổ chức hoạch định
mô hình chính quyền bằng việc giao quyền lập pháp cho Nghị viện (là cơ quan đại
diện được bầu ra bằng tuyển cử, được coi là biểu hiện ý chí chung của quốc gia),
quyền hành pháp cho Chính phủ (là cơ quan có trách nhiệm thực thi luật pháp đã

được Nhà nước ban hành), quyền tư pháp cho Toà án (để thực thi công lý, một cơ
chế để giải quyết các tranh chấp, phán xử những vi phạm pháp luật).3 Lấy ví dụ ở
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, theo Điều 1 quy định: “Toàn bộ quyền lực lập pháp
được thừa nhận tại đây sẽ được trao cho Quốc hội Hoa Kỳ. Quốc hội gồm có
Thượng viện và Hạ viện”, Điều 2 trao quyền hành pháp cho Tổng thống: “Quyền
hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ” và Điều 3 tuyên bố “Quyền lực
pháp lý của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và những tòa án cấp dưới mà
Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp”.
Bên cạnh đó, tuỳ từng quốc gia, Hiến pháp còn có nhiều quy định về mối quan hệ
ràng buộc giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ, theo Hiến pháp
Hoa Kỳ, Nghị viện có quyền thông qua luật nhưng để có hiệu lực phải được Tổng
thống ký phê chuẩn. Ngược lại, Tổng thống có quyền ký kết các điều ước quốc tế
nhưng phải được Thượng viện phê chuẩn. Có thể nói, bất kì một bản Hiến pháp nào
cũng đều đưa ra những quy định về mô hình chính quyền và tổ chức phân quyền
cho các cơ quan nhằm kiểm soát quyền lực hiệu quả, và đó chính là đặc trưng của
Hiến pháp - Luật tổ chức.
3.

HIẾN PHÁP LÀ LUẬT BẢO VỆ NHÂN QUYỀN
3.1.Khái niệm nhân quyền:

Khái niệm “nhân quyền” đã được đề cập đến từ rất sớm. Bộ luật Hammurabi của
Ấn Độ ra đời từ khoảng năm 1780 trước Công Nguyên đã đề cập tới cả nữ quyền,
quyền trẻ em, và quyền của nô lệ. Sau đó, các thế kỷ XVII, XVIII có các nhà triết
học cho rằng nhân quyền là các quyền không thể tước bỏ được là các quyền tự
nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xã hội dân sự
được thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc
"chuyển nhượng" các quyền này.4
Có rất nhiều định nghĩa về nhân quyền, trong đó nổi bật là định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy Liên hợp quốc, nói rõ: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý


3

/>
4

/>

toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người.”
Tại Việt Nam, nhân quyền, hay còn gọi là quyền con người, được hiểu là những nhu
cầu lợi ích tự nhiên, vốn có khách quan của con người được bảo vệ và ghi nhận
trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.5 Ngay trong bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã có những quy
định về quyền con người trong mục B, chương II - nghĩa vụ và quyền lợi công dân.
Từ đó, nhân quyền đã luôn là đối tượng điều chỉnh quan trọng hàng đầu của các bản
Hiến pháp, thể hiện sự cam kết bảo vệ và tôn trọng của nhà nước đối với sự an toàn
và phát triển lành mạnh của con người.

3.2.Ví dụ thực tiễn:
Đối với các nước trên thế giới nói chung, phần lớn đều lấy nhân quyền làm đối
tượng điều chỉnh. Quyền con người bao gồm nhiều quyền trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như kinh tế, chính trị, kinh tế, xã hội… Tuy nhiên, về cơ bản nhất vẫn là các
quyền gắn liền với sự tồn tại của con người, tức là quyền được hưởng một cách
chính đáng các giá trị vật chất cần thiết cho sự sống.
Tuy nhiên, hiện nay, người dân Venezuela đã và đang chịu đựng cảnh nhân quyền bị
vi phạm nghiêm trọng. Venezuela từng là quốc gia giàu có nhất khu vực nhờ vào trữ
lượng dầu thô lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2014, giá dầu mỏ sụt
giảm, cộng với chính sách kinh tế sai lầm và sự bất ổn chính trị, Venezuela lâm vào
tình trạng khủng hoảng. Kéo dài đến nay, trong khi diễn ra sự tranh quyền tổng

thống, thì người dân đang phải chịu cảnh cuộc sống thiếu thốn trầm trọng do lạm
phát phi mã. Theo các nguồn tin từ báo điện tử 24h, thì thiếu thực phẩm kéo dài dẫn
đến tình trạng cân nặng trung bình năm 2017 của người dân giảm đến 11kg so với
các năm trước đó. Đói kém kéo dài dẫn đến nạn trộm cướp, các cuộc biểu tình nổ
ra, đất nước chìm trong khủng hoảng. Đỉnh điểm là nhiều người dân phải bới rác để
ăn, vượt biên sang các quốc gia khác để ăn xin, ăn cả thịt thú nuôi, thịt thối…Bắt
đầu từ ngày 25/03/2019, Venezuela bị cúp điện trên diện rộng, các doanh nghiệp
ngừng hoạt động, bệnh viện phải vật lộn để chữa trị cho bệnh nhân, trường học và
các cơ quan công quyền phải đóng cửa…Thêm vào đó là tình trạng thiếu nước sạch,
người dân đổ ra các dòng sông lấy nước, nước không đảm bảo chất lượng khiến
nhiều người bị bệnh, nhưng bệnh viện lại không thể đảm bảo điều kiện chữa trị.
Theo ước tính, khoảng 1/4 người Venezuela đang cần hỗ trợ nhân đạo, trong đó có
1,9 triệu người suy dinh dưỡng và khoảng 300.000 người đang bị đe dọa mạng
sống do thiếu thuốc men.6
Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng, Giáo trình Lý luận và
Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, trang 38.
5

Bài báo Tổng thống Maduro chấp nhận để hàng viện trợ vào Venezuela, báo điện
tử VnEconomy, />6


Chính phủ bất lực trong kiềm chế lạm phát và cung cấp nhu yếu phẩm cho người
dân, đó là sự sai lầm trong chính sách. Tuy nhiên, việc Quân đội của chính phủ
Venezuela do Tổng thống Nicolas Maduro đứng đầu phong tỏa biên giới, chặn
đường viện trợ của các tổ chức nhân đạo và các nước khác là vi phạm nhân quyền
nghiêm trọng và đáng lên án. Chỉ vì lo sợ bị lật đổ mà Tổng thống đương nhiệmmột cá nhân- mặc nhiên để hơn 30 triệu người dân chịu thiếu thốn cùng cực. Mãi
đến ngày 17/04/2019, dưới áp lực của các cuộc biểu tình trong nước, tổ chức Liên
Hiệp Quốc và các nước khác, lô hàng viện trợ đầu tiên của tổ chức Chữ thập đỏ
Quốc tế mới đến được Venezuela.

Qua thực trạng nêu trên, có thể thấy được điều kiện sống của người dân Venezuela
đang ở tình trạng vô cùng tồi tệ, quyền con người bị xâm phạm nghiêm trọng. Theo
như khoản 1 Điều 25 bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền: Ai cũng có quyền được
hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và
gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết;…Đây là
quyền cơ bản và bị vi phạm một cách nặng nề và rõ ràng nhất- nước chuyển màu
đen không thể uống, thức ăn khan hiếm, cơ sở y tế không thể đáp ứng nhu cầu chữa
trị, bạo loạn nổi lên khắp đất nước… Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ghi: “bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất
cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản
tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và
giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo
đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc
thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thổ bị giám hộ.” Tuy hiến pháp mỗi
nước là khác nhau, nhưng nhân quyền là đối tượng điều chỉnh chủ yếu, và có sự
thống nhất giữa các nước trong việc xác định các quyền cơ bản của con người và sự
cần thiết trong việc bảo vệ các quyền ấy. Chính trị là quan trọng, nhưng con người
trước hết phải được đảm bảo các nhu cầu về mặt sinh học, một đất nước mà người
dân phải vật vã với từng bữa ăn thì không thể có được chính trị ổn định.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có thông tin về việc khởi kiện ông Maduro trong việc vi
hiến về bảo vệ nhân quyền. Các lệnh trừng phạt của Mỹ nhắm vào Venezuela và các
quốc gia ủng hộ ông Maduro chỉ làm tồi tệ thêm tình hình của quốc gia này, người
dân càng thêm khốn khổ. Đến nay, động thái đáng chú ý nhất của Liên Hợp Quốc là
lên án việc quân đội Venezuela sử dụng vũ lực với thường dân sau cái chết của hai
người tại biên giới Brazil vào ngày 22/02/2019. Có thể nhận định rằng, trong trường
hợp này, việc bảo vệ nhân quyền theo quy định của Hiến pháp như 1 nguyên tắc
chung đã không được đảm bảo.
4.

HIẾN PHÁP LÀ LUẬT TỐI CAO


4.1. Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất
Về mặt pháp lý, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, phản ánh sâu sắc nhất
quyền của Nhân dân và mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân; Hiến pháp là
nguồn, là căn cứ để ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết và các văn bản khác
thuộc hệ thống pháp luật: Tất cả các văn bản khác không được trái với Hiến pháp


mà phải phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp, được ban hành trên cơ sở
quy định của Hiến pháp và để thi hành Hiến pháp. Các điều ước quốc tế mà Nhà
nước tham gia không được mâu thuẫn, đối lập với quy định của Hiến pháp; khi có
mâu thuẫn, đối lập với Hiến pháp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được
tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bản lưu đối với từng điều. Ngoài ra, tất cả
các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình
theo Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa vụ mà Hiến pháp
quy định. “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể
Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Tất cả các công dân có nghĩa vụ tuân
theo Hiến pháp, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Hiến pháp; “Nhân dân
Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đặc biêt, việc xây dựng, thông qua, ban
hành, sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo trình tự đặc biệt được quy định trong Hiến
pháp.
4.2. Cơ chế bảo hiến
4.2.1. Tại sao phải bảo vệ Hiến Pháp?
Xét về bản chất, Hiến pháp là một văn bản để hạn chế quyền lực của nhà nước và
bảo vệ quyền lợi của người dân theo nguyên tắc cơ quan nhà nước chỉ làm những gì
luật định và người dân có quyền làm những gì pháp luật không cấm. Về lý thuyết,
quyền lực của nhà nước bị giới hạn, tuy nhiên, với vai trò là người làm luật và giám
sát việc thực hiện, các cơ quan nhà nước có đầy đủ quyền lực để có xu hướng lạm

quyền, tìm cách để vượt khỏi sự kiểm soát của Hiến pháp cũng tức là vi phạm Hiến
pháp. Như vậy, tất yếu cần phải có một cơ chế đặc biệt để bảo vệ Hiến pháp khỏi sự
vi phạm đó của các cơ quan nhà nước.
4.2.2. Sự cần thiết phải có cơ chế giám sát Hiến Pháp
Theo Điều 8 của Hiến pháp 2013:
“1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã
hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận
tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”
Ngoài ra, trong một nhà nước pháp quyền, tính tối cao và bất khả xâm phạm của
Hiến pháp đòi hỏi phải được tuân thủ tuyệt đối. Bên cạnh đó, vì Hiến pháp còn
được nhìn nhận như một khế ước của nhân dân, xác lập chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, khẳng định quyền lực nhà nước và chủ quyền thuộc về nhân dân,
ghi nhận và bảo vệ các quyền với tính chất quan trọng đó, cơ chế bảo hiến cần được
xây dựng một cách hoàn chỉnh.
4.2.3. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo quy định của pháp luật hiện hành


Giám sát việc tuân thủ Hiến pháp của quy định hiện hành theo cơ chế phân công
phân nhiệm mà trong đó Quốc hội giữ vai trò giám sát chính đã được quy định tại
Điều 69, 70 của Hiến pháp 2013 như: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền
lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước.”; “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;”
Việc giám sát Hiến Pháp đã có luật quy định tương đối toàn diện như: Hiến pháp
2013; Luật Tổ chức Quốc hội (Luật số 57/2014/QH13 ngày 20-11-2014); Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Luật số 87/2015/QH13 ngày
20-11-2015); Luật Tổ chức Chính phủ (Luật số 76/2015/QH13 ngày 19-6-2015);...



Quốc hội giám sát: Ủy



ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm liên tịch giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ở Trung ương với cơ quan trung ương của tổ chức
chính trị - xã hội, văn bản quy phạm của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân.



Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.



Chủ tịch nước cũng giám sát Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.



Chính phủ kiếm tra các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan
ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.




Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh về những mảng có liên quan đến ngành, lĩnh vực mà mình
phụ trách.



Tòa án nhân dân nhân dân khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế,
hành chính mà phát hiện các văn bản pháp luật sai trái là nguyên nhân
gây ra vụ án thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền sữa chữa, bãi
bỏ.



Viện kiểm sát nhân dân kiếm sát hoạt động tư pháp.



Hội đồng nhân dân, thường trực Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân trong phạm vi
nhiệm vụ quyền hạn của mình giám sát , kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp. Hội
đồng giám sát văn bản của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Như là Hội đồng


nhân dân bãi bỏ những quyết định sai trái của Ủy ban nhân dân cùng cấp,
những nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp.
4.3. Thực tiễn
Bộ Giao Thông Vận Tải ban hành văn bản trái với Hiến pháp và Bộ luật Lao Động

“Ngày 30/6/2017, Bộ GTVT ban hành Thông tư số 21/2017/TT-BGTVT, để thay
thế cho Thông tư số 41/2015/TT-BGTVT. Tuy nhiên, cả hai văn bản nêu trên đều có
vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và Bộ luật Lao động năm 2012.
Ngày 12/6/2015, Bộ trưởng Bộ GTVT ban hành Thông tư số 41/2015/TT-BGTVT
(Thông tư 41/2015), sửa đổi bổ sung một số điều trong phần 12 và 14 của Bộ quy
chế an toàn hàng không dân dụng trong lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay”.
Tại phần 14.169 của văn bản này, có quy định “nhân viên hàng không trình độ cao”
muốn nghỉ việc phải báo trước 120 ngày. Ngoài ra khi chuyển đổi nhà khai thác,
nhân viên phải: “Đã chấm dứt hợp đồng lao động và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
(nếu có) đối với người khai thác tàu bay, tổ chức bảo dưỡng tàu bay hiện tại theo
quy định…”.
Sau đó, ngày 30/6/2017, Bộ trưởng Bộ GTVT, ban hành Thông tư số 21/2017/TTBGTVT (Thông tư 21/2017), văn bản này cũng đưa những nội dung trên vào “Bộ
quy chế an toàn hàng không dân dụng lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay”.
Những quy định trong 2 Thông tư 41/2015 và 21/2017 của Bộ GTVT đang trái với
Điều 35 của Hiến pháp; trái với Điều 37 Bộ luật Lao động và trái với Điều 5 Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Cho rằng việc ra các văn bản nêu trên không trái với pháp luật, tại buổi họp báo
Chính phủ ngày 2/6/2018 khi trả lời báo chí, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật
cho rằng:Hai thông tư số 41/2015 và Thông tư 21/2017 thay thế Thông tư 41 cả hai
thông tư này đều điều chỉnh việc sử dụng người lao động trong lĩnh vực hàng
không. Do lĩnh vực hàng không có nhiều điểm rất đặc biệt, tiêu chí an toàn an ninh
hàng không phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn đặc biệt khắt khe. Đào tạo các nhân
viên ngành hàng không, đặc biệt là các phi công, rất mất thời gian, quy trình quy
định khác nhau.
Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Nhật, tại Khoản 1, Điều 70 của Luật Hàng không
dân dụng 2006 đã giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về chế độ lao
động đặc thù đối với nhân viên hàng không. Căn cứ quy định này, ngày 12/8/2015,
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 41/2015/TT-BGTVT và
sau đó được thay thế bằng Thông tư số 21/2017/TT-BGTVT để tạo hành lang pháp
lý cho việc quản lý, sử dụng nhân viên hàng không bậc cao, tạo điều kiện cho việc

sử dụng nguồn nhân lực một cách hài hòa, không tạo nên những đột biến trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động khai thác cảng
hàng không, sân bay.
Theo quy định của Thông tư thì nhân viên hàng không trình độ cao khi đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động phải báo trước cho người sử dụng lao động 120 ngày.


Theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Lao động, người lao động làm việc theo hợp
đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45
ngày.
Như vậy, Điều 37 của Bộ luật Lao động chỉ quy định mức giới hạn tối thiểu mà
không quy định mức tối đa. Mặt khác, tại Khoản 2, Điều 3, Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam quy định: “Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này
với luật khác về cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng không dân dụng
thì áp dụng quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam”, do vậy quy định
trong Luật này được ưu tiên.
Trao đổi với PV Báo GD&TĐ về những nội dung trong 2 văn bản nêu trên hiện
đang không tuân thủ một số vấn đề trong việc chấm dứt hợp đồng lao động và bồi
hoàn chi phí đào tạo không đúng với quy định, Luật sư Lê Minh Thắng – Giám đốc
Công ty Luật K và Cộng Sự, thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết:
Bộ quy chế an toàn hàng không dân dụng lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay (ban
hành kèm theo Thông tư 21/2017) gồm 23 phần. Trong đó, phần 14.169 quy định về
các yêu cầu, trình độ đối với nhân viên hàng không “trình độ cao” bao gồm: Thành
viên tổ lái (phi công); nhân viên bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và thiết bị tàu bay có
chứng chỉ CRS mức B trở lên đã có sự vi phạm nghiêm trọng Luật Lao động, cụ
thể:
Tại mục 3.b. Chấm dứt hợp đồng lao động, quy định:
“1. Nhân viên hàng không trình độ cao có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trước thời hạn, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho Người khai thác

tàu bay, tổ chức bảo dưỡng tàu bay ít nhất 120 ngày trước ngày dự kiến chấm dứt
hợp đồng lao động để Người khai thác tàu bay lập kế hoạch duy trì hoạt động bảo
đảm khai thác tàu bay theo kế hoạch bay đã được phê duyệt.
2. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 điểm này nếu
kết thúc vào tháng 6, tháng 7 của năm thì hợp đồng lao động sẽ kéo dài đến hết
tháng 7 của năm đó. Trường hợp thời hạn kết thúc của hợp đồng vào tháng 1 hoặc
tháng 2 của năm thì hợp đồng lao động sẽ kéo dài đến hết tháng 2 của năm đó.”
Trong khi đó, Khoản 3 Điều 27, Bộ luật Lao động quy định về quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, nêu rõ: “ Người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất
45 ngày”.
Như vậy, rõ ràng quy định nêu trên trong Thông tư 21/2017 của Bộ GTVT ban hành
ngày 30/06/2017, đang trái với Luật Lao động, không phù hợp với tinh thần của
Điều 35 Hiến pháp 2013.


Theo đó, Điều 35 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nêu rõ:
“Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.
Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn;
được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao
động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”.
Mặt khác, Thông tư 21/2017 đã được Bộ GTVT ban hành dựa trên nền tảng Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2014 với quan điểm cho rằng: “Trường hợp
có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về cùng một
nội dung liên quan đến hoạt động hàng không dân dụng thì áp dụng quy định của
Luật này” - (khoản 2 Điều 3) là không phù hợp với Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật vì bản thân nó vi phạm các nguyên tắc cơ bản (quy định tại Điều 5),
cụ
thể:

Đảm
bảo
tính
hợp
Hiến;
Đảm
bảo
tính
hợp
pháp;
- Đảm bảo tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp
luật.
- Đảm bảo công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Qua phân tích nêu trên, có thể thấy, việc không cho người lao động được thực hiện
các quyền và hưởng các lợi ích hợp pháp của họ sẽ khiến cho Người lao động chán
nản và khó kiểm soát hành vi (nhân viên hàng không trình độ cao - loại lao động
đặc thù). Điều này sẽ gây nguy hiểm đối với an toàn bay, nhà quản lý ban hành văn
bản cần phải xem xét từ nhiều khía cạnh, không thể dùng ý chí của người sử dụng
lao động áp đặt cho nhân viên.
Như vậy, việc ban hành Thông tư số: 21/2017/TT-BGTVT ngày 30/06/2017 quy
định chung một thời hạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động 120 ngày là trái
quy định của Luật Lao động nên cần phải hủy bỏ để tránh mọi khiếu kiện hoặc tiền
lệ xấu cho các luật khác “cơ hội gặm nhấm” Luật lao động. Qua đó tránh việc các
ngành lạm dụng tính đặc thù để tước bỏ, gây cản trở người lao động thực hiện các
quyền lợi của họ, cũng như bảo vệ tính toàn vẹn của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013
2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (PGS. TS Vũ Văn Nhiêm)
3. News.zing.vn
4. />5. hiến pháp
6. />7. />9.
10.
11.
12.
13.
14.

15.
16.
17.

constitution.pdf
luat?
Luật_Hiến_pháp_Hoa_Kỳ.pdf
/> /> /> />Bài báo Tổng thống Maduro chấp nhận để hàng viện trợ vào Venezuela,
báo điện tử VnEconomy, /> /> /> />

BÀI TẬP 2
NHỮNG GIÁ TRỊ CẦN KẾ THỪA CỦA HIẾN PHÁP 1946
Sơ lược về Hiến pháp 1946

1
1

Hoàn cảnh ra đời


Sau thắng lợi vang dội của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 2/ 9/ 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Ngay sau đó, vào ngày 20/ 9/ 1945, thay mặt Chính phủ lâm
thời, Người đã ký sắc lệnh số 34/SL quyết định thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp
của Chính phủ với mong muốn: Bản Hiến pháp của nền dân chủ cộng hoà đầu tiên
ở Việt Nam phải thể hiện rõ tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.7
Không lâu sau đó, vào tháng 11/1945, Ban dự thảo đã cho công bố trên báo Cứu
quốc để toàn dân tham gia góp ý kiến cho Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH.
Trải qua nhiều cuộc nghiên cứu và thảo luận, ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2,
Quốc hội khoá I đã thông qua toàn văn bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
DCCH- Hiến pháp năm 1946. Mười ngày sau khi bản Hiến pháp đầu tiên được ban
hành, chiến tranh lại bùng nổ, do vậy mà Hiến pháp 1946 không được chính thức
công bố. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với
Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp
1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
2

Nội dung cơ bản

Hiến pháp 1946 được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:
• Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo.
• Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
• Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Hiến pháp 1946 bao gốm: Lời nói đầu và 7 Chương với 70 Điều được xây dựng
theo ba nguyên tắc nếu trên. Trong đó:
• Lời nói đầu nêu rõ: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo đảm
lãnh thổ, giành độc lặp hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.
• Chương I (từ Điều 1 đến Điều 3) quy định về chính thể, quốc kỳ, quốc ca và thủ
đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

• Chương II (từ Điều 4 đến Điều 21) quy định về quyền và nghĩa vụ của công
dân.
• Chương III (từ Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân (Quốc
hội) cũng như cơ cấu, hoạt động của Nghị viện nhân dân; quyền và nghĩa vụ
của các nghị viên.
• Chương IV (từ Điều 43 đến Điều 56) quy định Chính phủ cũng như quy định
chi tiết cơ cấu, thẩm quyền và phương thức hoạt động của Chính phủ.
• Chương V (từ Điều 57 đến 62) quy định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành
chính cũng như quy định về cơ cấu đơn vị hành chính trên lãnh thổ Việt Nam.
7

/>



2

Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69) quy định về cơ quan Tư pháp.
Chương VII (Điều 70) quy định về việc sửa đổi Hiến pháp.
Những giá trị cần kế thừa của hiến pháp 1946 trong một số chế định cơ bản

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ bản Hiến
pháp nào trên thế giới, là bản Hiến pháp thể hiện rõ nhất tinh thần cơ bản tư tưởng
lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu, chọn lọc các Hiến pháp dân chủ và
tiến bộ của các nước khác, đồng thời đã Việt hóa một cách tối đa cho phù hợp với
điều kiện của nước ta thời bấy giờ. Tuy đã ra đời từ lâu nhưng Bản Hiến pháp đầu
tiên – Hiến pháp 1946 mang những giá trị chình trị, pháp lý quan trọng mà Quốc
hội cần kế thừa và phát huy khi sửa đổi và ban hành các bản Hiến pháp mới (Hiến
pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013).
1


Chủ tịch nước

Trong giai đoạn năm 1945-1946 khi Quốc hội bầu ra Chính phủ, đứng đầu là Chủ
tịch Chính phủ chứ không phải là Chủ tịch nước. Thiết chế Chủ tịch nước chỉ có từ
Hiến pháp 1946 và là kết quả của tư duy mới phù hợp với điều kiện Việt Nam lúc
bấy giờ. Sự ra đời của thiết chế Chủ tịch nước thời kỳ này, có thể nói, bắt đầu từ chủ
trương thành lập một Chính phủ nhân dân cách mạng theo tinh thần đoàn kết rộng
rãi tất cả các tầng lớp dân chúng.
Về tính chất của Chủ tịch nước, Hiến pháp 1946 không có quy định định nghĩa về
chế định này. Song từ các quy định về cách thức thành lập và thẩm quyền thì Chủ
tịch nước là người vừa đứng đầu Nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước
nắm trong tay thực quyền rất lớn và không phải chịu bất cứ một trách nhiệm nào,
trừ khi phạm tội phản quốc.
• Tính chất đứng đầu Nhà nước (Nguyên thủ quốc gia) của Chủ tịch nước thể
hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội
toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân,
không quân; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy
chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại
biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước;
tuyên chiến hay đình chiến; chọn Thủ tướng trong Nghị viện để đưa ra Nghị
viện biểu quyết; bổ nhiệm (dưới hình thức sắc lệnh của Chủ tịch nước) Thủ
tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ.
• Tính chất là người đứng đầu Chính phủ thể hiện ở chỗ Chủ tịch nước chủ toạ
Hội đồng Chính phủ, ký các sắc lệnh của Chính phủ quy định các chính sách thi
hành các đạo luật và nghị quyết của Nghị viện.
Bắt đầu từ Hiến pháp 1959, Nhà nước ta đã chuyển sang mô hình Xã hội chủ nghĩa
kiểu Xô viết nên thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng lại để phù hợp với giai
đoạn phát triển mới. Tuy nhiên sự đổi mới đó vẫn dựa trên sự kế thừa những nguyên
tắc và ưu điểm của các thiết chế giai đoạn trước. Sự kế thừa của chế định này thể

hiện ở chỗ: Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ


quan khác được Quốc hội lập ra, phân giao nhiệm vụ, quyền hạn và chịu sự giám
sát, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quốc hội lẽ đương nhiên nắm cả quyền
nguyên thủ. Song, khác với các nước dân chủ nhân dân Đông Âu khi chuyển sang
chế độ xã hội chủ nghĩa thì cũng đồng thời xoá thiết chế nguyên thủ quốc gia cá
nhân, ở nước ta thiết chế Chủ tịch nước vẫn tiếp tục tồn tại nhưng được quy định lại
cho phù hợp hơn. Chủ tịch nước vẫn còn có vai trò khá lớn đối với Hội đồng Chính
phủ, là cầu nối phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ, tuy vẫn còn nghiêng nhiều về
phía Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa (lưu giữ) vị trí của Chủ tịch nước đối
với Chính phủ ở Hiến pháp trước.
Tại Hiến pháp 1980, thiết chế Chủ tịch nước cá nhân bị xoá bỏ, thay vào đó là thiết
lập chế độ Chủ tịch nước tập thể dưới hình thức Hội đồng Nhà nước, mô hình tổ
chức chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 còn lưu giữ ít nhiều, trong khi
Hiến pháp 1959 đã hầu như bị bãi bỏ. Tuy vậy, quá trình thực hiện thể chế Hội đồng
Nhà nước đã nhanh chóng bộc lộ nhiều hạn chế. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải tổ
chức lại chế định này và đã được sửa đổi tại Hiến pháp 1992.
Trong Hiến pháp 1992, thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng lại, chuyển từ mô
hình “nguyên thủ tập thể” (Hội đồng Nhà nước) sang Chủ tịch nước là một cá nhân.
Mô hình lần này vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến
pháp 1959 và 1946, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng Nguyên thủ quốc gia
trong thể chế Hội đồng Nhà nước trong Hiến pháp 1980 (là đặc trưng của bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa), đồng thời có thêm những đặc trưng mới để bảo đảm sự
phân công và phối hợp giữa các cơ cấu trong bộ máy nhà nước.
Hiến pháp 1992 (Điều 101) xác định tính chất của Chủ tịch nước là người đứng đầu
Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối
ngoại. Những tính chất này, cũng giống như các bản Hiến pháp trước.

Chế định Chủ tịch nước cá nhân được tái lập và kế thừa nhiều điểm ưu việt của chế
định này trong các Hiến pháp trước đã bảo đảm được sự độc lập, chủ động giải
quyết nhanh các nhiệm vụ, đồng thời góp phần tăng cường tính phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước - là những
yếu tố góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả, tính nhanh nhạy của bộ máy nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.
Với Hiến pháp 2013, chế định Chủ tịch nước về cơ bản vẫn giống với Hiến pháp
năm 1992 nhưng đã được tăng thêm nhiều quyền hạn đáng kể, đơn cử quyền yêu
cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề cần thiết. Chế định hiện nay có sự giao thoa;
trước tiên xác định Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia; đồng thời thực hiện một
phần quyền hành pháp, một phần quyền tư pháp, lập pháp dù chưa rõ nét. Từ Hiến
pháp 1992 trở đi, thiết chế Chủ tịch nước Việt Nam gần giống với mô hình tổng
thống của Singapore, Đức, Áo...quy định rằng Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia
song không đứng đầu cơ quan hành pháp.


2

Quốc hội

Ở bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp năm 1946, Chế độ Nghị viện lần đầu tiên
được xác lập tại Việt Nam. Theo Điều 22 Hiến pháp 1946 quy định: “Nghị viện
nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Trên phương diện thẩm quyền, ở Điều 23 Hiến pháp năm 1946 xác định một cách
tổng quát: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra
pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước
ngoài”, chứ không quy định một cách chi tiết như các bản Hiến pháp Việt Nam sau
này.
Cơ cấu tổ chức của Nghị viện nhân dân, theo quy định của Hiến pháp năm 1946
cũng không phức tạp như chế độ Nghị viện của các quốc gia dân chủ thời kỳ đó.

Nghị viện chỉ có một ban duy nhất là Ban Thường vụ bao gồm một Nghị trưởng, 12
Uỷ viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết với nhiệm kỳ tương đối ngắn là 3 năm.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh về chế định Nghị viện ở Hiến pháp 1946 đó chính là
tính dân chủ trong hình thức hoạt động. Điều 30 Hiến pháp 1946 quy định rằng:
“Nghị viện họp công khai, công chúng được nghe” và Điều 33: “Những việc quan
hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phán quyết, nếu hai phần ba tổng số
Nghị viện đồng ý, Nghị viện có thể tự giải tán. Ban Thường vụ thay mặt Nghị viện
tuyên bố tự giải tán.
Đến năm 1959, khi nước ta thực hiện một bước chuyển căn bản từ một chế độ thuộc
địa thực dân phong kiến sang chế độ XHCN theo kiểu Xô viết thì chế độ Nghị viện
nhân dân đã thay đổi với việc quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều 43). Đây không chỉ đơn
thuần là sự thay đổi về tên gọi mà còn khẳng định Quốc hội là: “Cơ quan duy nhất
có quyền lập pháp”, thể hiện một bước chuyển biến quan trọng trong chế độ sắc
lệnh sang chế độ đạo luật.
Trong bản Hiến pháp 1959, các thẩm quyền và cách tổ chức của Quốc hội được cải
tiến dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm 1946. Chức năng của Quốc hội được quy
định cụ thể hơn với nhiều quyền hạn mới và nhiệm kì thay đổi từ ba sáng bốn năm.
Hiến pháp năm 1959 xác định cơ quan Thường trực của Quốc hội là Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thay cho ban Thường vụ Nghị viện như năm 1946. Ngoài ra còn có Uỷ
ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch ngân sách, và những Uỷ ban khác mà Quốc
hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Với bản Hiến pháp năm 1980, bản chất của Quốc hội vẫn giống như được xác định
trong Hiến pháp năm 1959, với tính cách là một chế định quyền lực quan trọng của
một nhà nước phát triển mô hình XHCN. Tuy nhiên, tại Hiến pháp năm 1980, bản
chất của Quốc hội đã được xác định cụ thể hơn: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam” (Điều 82, Hiến pháp năm 1980). Tại quy định này, nhà lập hiến đã xác
định rõ hai tính chất của Quốc hội: tính chất đại biểu của nhân dân và tính chất
quyền lực cao nhất. Nếu Hiến pháp năm 1959 mới chỉ xác định một tính chất cơ bản

nhất của Quốc hội là tính chất quyền lực nhà nước cao nhất, thì đến Hiến pháp năm


1980 tính chất đại biểu cho nhân dân đã được khẳng định. Trên phương diện chức
năng và thẩm quyền, Quốc hội trong Hiến pháp năm 1980 không có thay đổi lớn so
với Quốc hội được quy định trong Hiến pháp năm 1959 ngoài sự thiếu vắng của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội.
Hiến pháp năm 1992 ra đời trong các điều kiện đổi mới là một bước phát triển quan
trọng của bộ máy nhà nước Việt Nam. Nghiên cứu các điều khoản của Hiến pháp
năm 1992 về Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam so sánh với các
điều khoản các Hiến pháp trước đây về Quốc hội, chúng ta thấy rằng, Quốc hội theo
Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục kế thừa đặc điểm quan trọng có tính bản chất của
Quốc hội Việt Nam trong lịch sử lập hiến như: tính chất đại biểu tối cao của nhân
dân, tính chất quyền lực nhà nước tối cao, là cơ quan duy nhất lập hiến và lập pháp;
Quốc hội với bốn chức năng: lập hiến và lập pháp, thành lập các cơ quan tối cao của
nhà nước, quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia, thực hiện quyền giám sát
tối cao...”. Điều đáng chú ý trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp năm
1992 là việc thiết lập trở lại chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đây chính là sự
kế thừa chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959. Đối với
các Uỷ ban khác của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục kế thừa tinh thần của
Hiến pháp năm 1980 về các Uỷ ban. Tuy nhiên, các Uỷ ban theo Hiến pháp năm
1980 được xác định là Uỷ ban Thường trực của Quốc hội (Điều 92, Hiến pháp năm
1980), nhưng đến Hiến pháp năm 1992 tính chất thường trực của Uỷ ban không
được nhắc đến.
Hiến pháp năm 2013 được xem là bước phát triển dài và cơ bản so với Hiến pháp
1946 trong lịch sử lập hiến. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Quốc hội vừa
kế thừa đầy đủ các giá trị các quy định của Hiến pháp 1946 về Nghị viện nhân dân
vừa phát triển và bổ sung mới nhiều giá trị mới về cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong cấu trúc tổ chức bộ máy nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, của nhân dân. Theo

đó, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của Quốc hội như bốn bản Hiến pháp trước, song về mức độ đã được
điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tiễn, nội dung được thể hiện cô đọng và gọn
hơn. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 xác định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”.
3

Chính phủ

Theo Điều 43 Hiến pháp năm 1946: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Có thể nói, Chính phủ trong Hiến
pháp 1946 được trao quyền rất lớn bao gồm các quyền:
• Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
• Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
• Đề nghị dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp
mà gặp trường hợp đặc biệt.
• Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.






Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc
chuyên môn.
Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
Lập dự án ngân sách hằng năm.

Đến Hiến pháp năm 1959, tại điều 71 quy định : “ Hội đồng Chính phủ là cơ quan

chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính cao
nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Những thay đổi trong bộ máy nhà
nước thời kỳ này khẳng định quan điểm mới về tổ chức bộ máy nhà nước, theo xu
hướng quyền lực nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Và theo điều này
thì một mặt Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mặt khác là cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, đứng đầu hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước, đảm nhận một chức năng hoạt động độc lập – hoạt động hành
chính Nhà nước. Cũng từ đây, tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam bắt đầu theo
chế độ đại nghị - tính trội thuộc về Quốc hội trong mối quan hệ với Chính phủ và
các cơ quan khác của nhà nước.
Khác với thiết chế Chính phủ ở Hiến pháp năm 1946 và thiết chế Hội đồng Chính
phủ ở Hiến pháp năm 1959 là thiết chế Hội đồng Bộ trưởng ở Hiến pháp năm 1980.
Tuy nhiên vẫn có sự kế thừa tính chất chấp hành của Hội đồng bộ trưởng trước
Quốc hội. Song không giống hoàn toàn Hiến pháp 1959, chúng ta thấy tính độc lập
tương đối của Chính phủ với Quốc hội không còn nữa. Hội đồng bộ trưởng được tổ
chức theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành – hành chính Nhà nước cao nhất của
Quốc hội. Nói cách khác nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Để khắc phục nhược điểm Chính phủ thiếu tính độc lập tương đối trong lĩnh vực
hoạt động hành chính Nhà nước, Hiến pháp năm 1992 quay về với Hiến pháp năm
1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền, nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập
trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng rành rọt giữa các cơ
quan Nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”. Với quy định này Chính
phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của
Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính
Nhà nước. Có thay đổi là vậy nhưng về cơ bản, chức năng của Chính phủ ở Hiến
pháp năm 1980 vẫn giống như Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959.
Đến Hiến pháp 2013 thì đã có sự rõ ràng, minh bạch hơn về chế định Nhà nước.

Điều 94 Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp”. Và tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy có sự biểu đạt khác nhau,
nhưng các Hiến pháp đều trực tiếp hay gián tiếp quy định Chính phủ là cơ quan thi
hành Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội. Với những quy định này đã khẳng
định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, hành pháp hiểu theo nghĩa là
thi hành Hiến pháp, thi hành Luật.


4

Cơ quan tư pháp

Chương VI Hiến pháp 1946 với các Điều từ Điều 63 đến Điều 69 quy định về cơ
quan tư pháp bao gồm Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp
và sơ cấp. Bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc đã rất thành công trong việc xác định
và thành lập cơ chế bảo đảm sự độc lập của các cơ quan tư pháp. Việc tổ chức hệ
thống tòa án theo cấp xét xử mà không tổ chức theo cấp hành chính là một yếu tố
làm tăng thêm tính độc lâp trong hoạt động của tòa án. Hiến pháp 1946 đã có sự
xuất hiện bóng dáng của viện công tố. Sau đó, một loạt các sắc lệnh của chính phủ
được ban hành như Sắc lệnh 24, Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946, Sắc lệnh 51 ngày 174-1946, Sắc lệnh 131 ngày 20-7-1946. Theo các sắc lệnh này, cơ quan công tố nằm
trong hệ thống tổ chức của các tòa án. Hệ thống này do Bộ tư pháp quản lý. Các
công tố viên có thẩm quyền tư pháp cảnh sát. Các công tố viên có quyền điều tra
hình sự, thực hành quyền công tố, điều khiển công việc và giám sát công tác điều
tra của tư pháp cảnh sát. Ngay từ đầu các công tố viên của cơ quan công tố vừa trực
tiếp điều tra về các vụ án hình sự, vừa thực hành quyền công tố , vừa giám sát và
điều khiển hoạt động điều tra của cơ quan tư pháp cảnh sát.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, tổ chức bộ máy nhà nước ta đã có những
thay đổi căn bản, trong đó có tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp. Toà án sơ
cấp được đổi thành Toà án nhân dân huyện; Toà án đệ nhị cấp được đổi thành Toà

án nhân dân tỉnh; Hội đồng phúc án được đổi thành Toà án phúc thẩm và phụ thẩm
nhân dân được gọi là Hội thẩm nhân dân. Một trong những cải cách quan trọng,
đánh dấu bước phát triển mới của các cơ quan tư pháp Việt Nam hệ thống toà án
nhân dân và viện công tố tách khỏi Bộ tư pháp và chịu sự quản lí của Hội đồng
Chính phủ.
Đối với hệ thống tòa án nhân dân và hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, về cơ bản ở
Hiến pháp năm 1959 vẫn kế thừa và phát triển mô hình tổ chức của tòa án nhân dân
giai đoạn trước. Nhưng quyền hạn được trao nhiều hơn và cụ thể hơn.
Hệ thống cơ quan tư pháp nước ta thời kì 1992 đến nay tiếp tục được củng cố và
hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị và yếu tố hợp lí của hệ
thống cơ quan tư pháp các bản Hiến pháp trước đồng thời có những cải biến quan
trọng nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
5

Chính quyền địa phương

Hiến pháp 1946 quy định: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba
bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện
chia thành xã. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Uỷ ban hành chính. Điều đáng lưu ý ở đây
là Hiến pháp nói về phương diện hành chính - phương diện tổ chức để thực hiện
quyền lực hành pháp. Điều đặc biệt là cấp bộ và cấp huyện không thành lập Hội
đồng nhân dân, thực chất đây chỉ là những thiết chế hành chính - bàn tay nối dài của
cơ quan hành chính cấp trên.


Đến Hiến pháp 1959, mô hình chính quyền địa phương đã có những thay đổi đáng
kể. Điển hình là bản Hiến pháp này đã chính thức bãi bỏ đơn vị hành chính có tính
chất vùng, miền. Bên cạnh đó, ở cấp chính quyền địa phương đã không còn có sự
phân biệt giữa đơn vị hành chính cơ bản có tính chất “tự nhiên” như cấp tỉnh, xã,

thành phố với đơn vị hành chính có tính chất “nhân tạo” như cấp huyện, khu phố
nữa. Trước đó, Hiến pháp 1946 đã có sự phân biệt này. Hơn nữa, theo Hiến pháp
1959, chính quyền địa phương còn là cơ sở để tổ chức các cơ quan tư pháp như hệ
thống cơ quan Toà án, hệ thống cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân ở cấp địa phương.
Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong
Hiến pháp 1959 cũng có một số sự thay đổi nhất định. Lần đầu tiên Hiến pháp xác
định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”, còn Uỷ
ban hành chính là “cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan
hành chính của Nhà nước ở địa phương”.
Những quy định của Hiến pháp 1980 về chính quyền địa phương vẫn trên cơ sở kế
thừa và phát triển những quy định của Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, để phù hợp với
giai đoạn mới, một số nội dung về vấn đề này đã có sự điều chỉnh nhất định. Theo
đó, giữa chính quyền nằm trên địa bàn nông thôn và thành thị không có sự phân biệt
đáng kể. Các đơn vị hành chính của hai đơn vị này về cơ bản là giống nhau, đều có
ba cấp chính quyền đó là: dưới cấp tỉnh có cấp huyện (hoặc thành phố/thị xã thuộc
tỉnh) và cấp xã (hoặc phường/thị trấn); dưới cấp thành phố trực thuộc trung ương
gồm có quận (hoặc huyện/thị xã) và phường (hoặc xã/thị trấn). Một điểm đáng lưu ý
là Hiến pháp 1980 lần đầu tiên đưa ra khái niệm “đơn vị hành chính tương đương”,
theo đó, các cấp thành phố thuộc trung ương, quận/thị xã thuộc thành phố,
phường/thị trấn được xác định là tương đương với cấp tỉnh, huyện, xã. Như vậy,
Hiến pháp đã lấy địa bàn nông thôn làm chuẩn trong vấn đề gọi tên các đơn vị hành
chính địa phương. Có thể nói Hiến pháp 1959 là bước đệm quan trọng để Hiến pháp
1980 tổ chức triệt để nguyên tắc tập quyền. Những quy định này cho thấy, Hiến
pháp 1980 quy định về cơ quan hành chính địa phương đã có thay đổi lớn so với
Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1992 cũng không xác định đơn vị hành chính nào là cơ bản để tổ chức
hoàn chỉnh gồm có cả Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, mà Hiến pháp thực
hiện uỷ quyền lập pháp với một quy định mở “Việc thành lập Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định”. Bên cạnh đó, vai trò cũng
như trách nhiệm cá nhân trong quản lý và điều hành ở chính quyền địa phương đã

được đề cao hơn giai đoạn trước đổi mới. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đã được Hiến
pháp trao nhiều quyền trực tiếp giải quyết, xử lý công việc. Chính điều này đã làm
cho cơ chế làm việc của Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1992 có nhiều điểm phù
hợp và khả thi hơn so với Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 cũng thể hiện tinh thần
phân cấp mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phương trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt
là trong vấn đề ngân sách, tổ chức bộ máy hành chính và biên chế cũng như các lĩnh
vực quản lý khác ở địa phương nhằm bảo đảm tính chủ động, sáng tạo, năng động
của mỗi địa phương.
Trong Hiến pháp 2013 đã quy định về thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt với tổ chức bộ máy quản lý đặc thù, gắn với


điều kiện địa lý, không gian riêng không giống với các đơn vị hành chính hiện có,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong thời kì hội nhập. Một điểm
khác biệt nữa trong Hiến pháp 2013 về tổ chức chính quyền địa phương sẽ phù hợp
với các đặc điểm của từng khu vực nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chínhkinh tế đặc biệt và không quy định trong Hiến pháp mà được quy định cụ thể trong
các đạo luật. Vấn đề đặt ra là chính quyền địa phương có thể không được tổ chức
giống nhau ở các đơn vị hành chính. Tuy nhiên, ở mọi đơn vị hành chính đều phải
được tổ chức theo nguyên tắc chính quyền hoàn chỉnh, có nghĩa là có đầy đủ hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân , trong đó Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân
dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân. Không phải mọi địa bàn
hành chính đều được tổ chức 3 cấp chính quyền, khu vực đô thị và khu vực nông
thôn có thể được tổ chức không đồng nhất về cấp chính quyền. Hiến pháp 2013
cũng ghi nhận về việc lấy ý kiến nhân dân về những thay đổi trong thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính là một chế định mang tính tích cực,
góp phần khắc phục tình trang nhập, tách địa giới hành chính thiếu căn cứ, thiếu sự
tham gia ý kiến của nhân dân dẫn đến không đảm bảo tính dân chủ trong vấn đề này
ở nước ta thời gian qua.
6


Quyền và nghĩa vụ của công dân

Việc quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một trong những chế
định quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong mỗi bản Hiến. Với vai trò là bản Hiến
pháp đầu tiên của dân tộc, Hiến pháp 1946 lần đầu tiên đã ghi nhận các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền và nghĩa vụ được quy định trong bản
Hiến pháp này đã bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ các quyền
dân sự, chính trị, kinh tế đến xã hội và đặc biệt, lần đầu tiên đàn bà được khẳng định
“ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”.
Hiến pháp 1959 tiếp tục kế thừa các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân
trong Hiến pháp 1946 với một số quyền được quy định cụ thể hơn.
Đến Hiến pháp 1980, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có phần mở rộng hơn
khi quy định công dân có một số quyền như “được bảo vệ sức khoẻ”, “có quyền có
nhà ở”, “có quyền có việc làm” v.v...
Hiến pháp 1992, với chủ trương đổi mới toàn diện, nhiều quyền của công dân đã
được ghi nhận lại theo Hiến pháp 1946 sau khi bị gián đoạn hoặc hạn chế ở các bản
hiến pháp 1959 và 1980 như: quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh. Cụ thể,
Hiến pháp 1946 quy định rất rõ ràng, “công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn
luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”. Trong khi đó, một số trong các quyền tự do nói trên
không được ghi nhận ở Hiến pháp 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp 1959 lại bổ sung
nhiệm vụ của Nhà nước “bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân
được hưởng các quyền tự do đó”. Tiếp đó, Hiến pháp 1980 quy định chặt chẽ hơn
với việc bổ sung quy định không được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Hiến pháp 1992 cũng có những quy định
tương tự. Hơn nữa, các quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1992


thường kết thúc bằng các quy định cần sự hướng dẫn tiếp theo của các quy định
pháp luật, trong khi Hiến pháp 1946 không có quy định nào như vậy.

Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến vượt bậc trong việc bảo vệ các quyền con
người và quyền công dân. Bên cạnh việc quy định về quyền công dân, quyền con
người cũng được quy định một cách chi tiết và đầy đủ. Nếu trong Hiến pháp năm
1992 chương Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có 29 điều thì chương
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm
2013 có 36 điều (tăng 7 điều so với Hiến pháp năm 1992). Hiến pháp năm 2013 đã
dành 21 điều quy định về quyền con người, 15 điều quy định về quyền công dân.
Tại Điều 14 khoản 1 Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “ Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật”. Việc quy định cụ thể về quyền con người được thể hiện trên các bình
diện: quyền bình đẳng trước pháp luật (khoản 1 Điều 16), quyền không bị phân biệt
đối xử (Khoản 2 Điều 16), quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều
18), quyền sống, tính mạng được pháp luật bảo hộ (Điều 19); quyền bất khả xâm
phạm về thân thể (Điều 20, khoản 1), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 21). Ngoài ra quyền con người trên
các lĩnh vực khác được quy định tại các Điều 22, 24, 26, 36, 37, 38, 40, 41,... Nhìn
chung, quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn quyền công dân. Trong khi
quyền công dân Việt Nam chỉ dành cho người có quốc tịch Việt Nam thì quyền con
người có phạm vi chủ thể rộng hơn là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài,
người không có quốc tịch (bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam).
Quyền công dân Việt Nam được pháp luật Việt Nam điều chỉnh, trong khi đó quyền
con người vừa được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam điều chỉnh.
3

Kết luận

Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc và cũng là bản Hiến pháp
dân chủ đầu tiên của khu vực Đông Nam Á. Sự ra đời kịp thời của Hiến pháp và nội
dung tiến bộ của nó đã khẳng định vững chắc quyền độc lập, tự do và bình đẳng của

dân tộc ta trong bối cảnh đất nước vừa giành được độc lập. Đồng thời, những quy
định của Hiến pháp có nhiều nội dung tiến bộ, độc đáo, phù hợp với điều kiện đặc
thù của đất nước ta. Thời điểm khi xây dựng Hiến pháp năm 1946, vừa phải trải qua
hàng trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân và phong kiến nên nhận thức của người
dân vẫn còn nhiều hạn chế, điều đó khiến việc tiếp cận với những quy định tiến bộ
của hiến pháp này vẫn còn gặp nhiều bỡ ngỡ. Tuy chưa được chính thức công bố và
đưa vào thực hiện do nguyên nhân là do ngay sau khi Hiến pháp vừa được thông
qua thì chỉ ít ngày sau nhân dân cả nước đã phải bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp, nhưng bản Hiến pháp 1946 đã đặt nền móng khá
vững chắc cho nền lập hiến nước nhà mà các bản Hiến pháp sau tiếp tục kế thừa.
Mặc dù giữa các bản Hiến pháp của nước ta có sự kế thừa và phát triển về chế định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, song ở một góc độ nào đó, một số quyền
chưa được kế thừa và phát triển một cách hợp lý. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
khái quát thì các quy định về quyền và nghĩa vụ công dân trong lịch sử lập hiến của
Việt Nam đã được thể hiện nhất quán trong các bản Hiến pháp.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nhà
xuất bản Công an Nhân dân.

2

Vũ Văn Nhiêm, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (Tài liệu phục vụ
môn học Luật Hiến pháp Việt Nam), Nhà xuất bản Hồng Đức.

3


Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 & Tìm
hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kì, Nhà xuất bản Hồng Đức.

4

Bùi Xuân Đức, Đổi mới & Hoàn thiện Bộ máy nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội – 2004.

5

Báo điện tử VNEXPRESS, />
6

Website Công ty THHH Luật Minh Khuê, />
7

Cổng thông tin điện tử Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.

8

Website Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, />
9

Nguyễn Huỳnh Nam, Đề tài: Những giá trị cần kế thừa của Hiến pháp
năm 1946.


BÀI TẬP 3
NGUYÊN TẮC HIẾN PHÁP VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

I

ĐIỀU 14
Khoản 1

1.

"Hàng triệu người sinh ra, rồi chết đi mà không hề biết rằng mình là chủ nhân của
các quyền con người..."
- Wolfgang Benedek –
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật.”
Quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, bình đẳng với tất cả mọi người. Nó
không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai, Nhà nước nào, nó không
thể phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ các quyền con người nào.8
Ở khoản 1 Điều 14 của Bộ luật Hiến Pháp 2013 nhắc đến quyền con người, quyền
công dân. Hai khái niệm này đồng dạng nhưng không đồng nhất. Quyền con người
có nội hàm rộng hơn, bao quát hơn quyền công dân.
Quyền Dân sự và Chính trị (còn gọi là Dân quyền hay là Quyền công dân) là các
quyền bảo vệ sự tự do cá nhân khỏi sự xâm phạm của các chính phủ, và bảo vệ
các tổ chức xã hội và cá nhân. Quyền này đảm bảo khả năng của một người để được
tiếp cận và tham gia vào đời sống dân sự và chính trị của xã hội và nhà nước không
được có phân biệt đối xử hay đàn áp.Về quyền dân sự bao gồm việc bảo đảm tính
toàn vẹn của thể chất và tinh thần, cuộc sống và an toàn; bảo vệ khỏi mọi sự phân
biệt đối xử trên những cơ sở như chủng tộc, giới tính, nhân dạng giới tính, biểu hiện
giới tính tự chọn, định dạng giới, nguồn gốc quốc gia, màu da, tuổi, quan hệ chính
trị, thiên hướng tình dục, sắc tộc, tôn giáo, hoặc tình trạng khuyết tật; và quyền cá
nhân như quyền riêng tư, quyền tự do tư tưởng và nhận thức, tự do phát biểu, tự do

tôn giáo, báo chí, tự do hội họp và lập hội và quyền tự do đi lại. Về các quyền chính
trị bao gồm công lý trung lập (thủ tục xét xử công bằng, bình đẳng trước pháp luật)
trong pháp luật, chẳng hạn như quyền lợi của bị cáo, trong đó có quyền được xét xử
công bằng; pháp luật đúng thủ tục và quy trình; quyền đòi bồi thường hoặc khắc
phục lỗi pháp lý; và quyền tham gia vào xã hội dân sự và chính trị như quyền tự do
lập hội, quyền hội họp, quyền kiến nghị, quyền tự vệ và quyền bỏ phiếu (quyền bầu
cử).
Nhóm quyền dân sự, bao gồm:
a) Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật
b) Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân
c) Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện
d) Quyền về xét xử công bằng
8

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948


e) Quyền về tự do đi lại, cư trú
f) Quyền được bảo vệ đời tư
g) Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo
h) Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân
Nhóm quyền chính trị, bao gồm:
a) Quyền tự do biểu đạt
b) Quyền tự do lập hội
c) Quyền tự do hội họp một cách hòa bình
d) Quyền tham gia vào đời sống chính trị
Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội bao gồm quyền có mức sống thích đáng, quyền
lao động, quyền sức khỏe, quyền học tập, quyền bảo vệ tài sản và tín dụng, các
quyền văn hóa, quyền hưởng lợi từ các tiến bộ khoa học kỹ thuật, quyền phát triển.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG

Việt Nam: Hãy chấm dứt đàn áp các nhà hoạt động tôn giáo9
(New York) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu, Việt Nam cần
hoãn xử 6 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và điều tra xem các hoạt động nghiệp vụ của
công an nhằm vào họ có phải vì nguyên nhân kỳ thị hay đàn áp tôn giáo không. Tòa
án Nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang sẽ mở phiên tòa hình sự xử sáu người
với tội danh gây rối trật tự công cộng vào ngày mồng 9 tháng 2 năm 2018.
Vụ bắt giữ phát sinh từ một cuộc biểu tình do họ khởi xướng để phản đối hành vi
của công an nhằm vào các tín đồ ở tỉnh An Giang, đang trên đường đi dự đám giỗ
bà mẹ một cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo. Công an vẫn thường xuyên sách nhiễu các
thành viên độc lập của nhóm tôn giáo thiểu số này, vốn có quá trình hiềm khích với
nhà nước từ rất lâu.
“Vụ việc có vẻ là biểu hiện mới nhất về chủ trương đàn áp của chính quyền nhằm
vào các thành viên nhóm tôn giáo này,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á châu
của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Chính quyền cần chấm dứt sách nhiễu và
bắt bớ những người tham gia các nhóm tôn giáo không được đăng ký và để cho
người dân thực hành tín ngưỡng theo ý mình.”
Những người bị cáo buộc gồm: Bùi Văn Trung (còn gọi là Út Trung) 54 tuổi; vợ
ông là bà Lê Thị Hên, 56 tuổi; con gái ông là Bùi Thị Bích Tuyền (còn gọi là Lài),
36 tuổi; con trai ông là Bùi Văn Thâm, 31 tuổi; Nguyễn Hoàng Nam (còn gọi là
Tèo), 36 tuổi; và Lê Hồng Hạnh, 41 tuổi.
Buổi tối ngày 18 tháng 4 năm 2017, cảnh sát giao thông và nhiều người mặc thường
phục dựng chốt chặn gần nhà ông Bùi Văn Trung ở huyện An Phú, tỉnh An Giang,
để chặn các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo độc lập tới dự đám giỗ mẹ của ông Bùi Văn
Trung. Cảnh sát không lập biên bản phạt vi phạm luật giao thông mà thu giữ luôn
giấy tờ của họ. Những người mặc thường phục chửi bới và dọa đánh họ trong khi
cảnh sát giao thông không can thiệp. Đây dường như là một vụ nữa theo kịch
bản công an dùng ‘côn đồ’ mặc thường phục để đe dọa người dân.
9

/>


×