Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Khoá luận tốt nghiệp thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn ứng hòa hà nội hiên nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 55 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

THỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Ở NÔNG THÔN ỨNG HÕA - HÀ NỘI
HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

THỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Ở NÔNG THÔN ỨNG HÕA - HÀ NỘI
HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. PHẠM THỊ THÖY VÂN

HÀ NỘI - 2019




LỜI CẢM ƠN

Với sự biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo
TS. Phạm Thị Thúy Vân đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện khóa luận này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục
Chính trị đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ cho em trong quá trình
nghiên cứu để em hoàn thành khóa luận. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới gia
đình, bạn bè luôn ở bên động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đây là lần đầu em tham gia nghiên cứu khoa học, kiến thức và kĩ năng
còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận
đƣợc sự góp ý của thầy cô, các bạn để khóa luận tốt nghiệp của em đƣợc hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Tuyến


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài do chính tôi thực hiện dƣới sự hƣớng
dẫn của TS. Phạm Thị Thúy Vân. Những trích dẫn trong khóa luận lấy từ các
công bố chính thức và có ghi chú rõ ràng. Các số liệu và kết quả nghiên cứu
trong khóa luận này là trung thực và không trùng lặp với những kết quả đã
công bố.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Tuyến


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………….... ............................................................... 1
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ ... 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 6
1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ của nhân dân ...... 8
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 15
CHƢƠNG 2. VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH
DÂN CHỦ VÀO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH DÂN CHỦ
CỦA NHÂN DÂN Ở NÔNG THÔN ỨNG HÒA – HÀ NỘI HIỆN NAY ... 19
2.1. Những yếu tố tác động đến thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay............................................................................ 19
2.2. Thực trạng thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn Ứng Hòa – Hà
Nội hiện nay và nguyên nhân .......................................................................... 21
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh .............................. 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 43
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 46


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Hiểu biết về đƣờng lối, chính sách, pháp luật của ngƣời dân ... 22
Biểu đồ 2.2. Đánh giá mức độ quan trọng của các văn bản ............................ 23

Biểu đồ 2.3. Tình hình tuyên truyền, phổ biến các nội dung về dân chủ ....... 24
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ ngƣời dân tham gia bàn và quyết định trực tiếp về chủ
trƣơng xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng...................... 25
Biểu đồ 2.5. Mức độ bàn bạc và quyết định về mức đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng ........................................................... 26
Biểu đồ 2.6. Mức độ ngƣời dân tham gia bàn bạc và quyết định các công việc
khác trong dân cƣ ............................................................................................ 27
Biểu đồ 2.7. Những nội dung nhân dân đƣợc bàn và biểu quyết để cấp có
thẩm quyền quyết định .................................................................................... 27
Biểu đồ 2.8. Các nội dung nhân dân tham gia giám sát .................................. 30
Biểu đồ 2.9. Mức độ nhân dân giám sát chính quyền địa phƣơng.................. 30


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân chủ là khát vọng hƣớng tới, là mục tiêu của con ngƣời và xã hội loài
ngƣời, dân chủ là nhu cầu khách quan đối với sự phát triển bền vững, hoàn
thiện của tất cả các nƣớc trên thế giới. Ngày nay, cuộc đấu tranh vì dân chủ,
vì sự tiến bộ xã hội đang trở thành một xu thế không thể nào tách rời của thời
đại.
Đối với Việt Nam, trong quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
cách mạng đã luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của dân chủ. Trong giai đoạn
đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề dân chủ lại càng đƣợc coi trọng
hơn bao giờ hết, dân chủ đƣợc khẳng định là bản chất của chế độ, là mục tiêu,
động lực thúc đẩy của sự phát triển.
“Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đổi mới đất nƣớc ngày nay,
đất nƣớc ta đang ngày một khẳng định vị thế của mình về một nền độc lập, tự
do, dân chủ, tiến lên sánh vai cùng các cƣờng quốc năm châu trên thế giới. Để
đạt đƣợc thành quả này là cả một quá trình đấu tranh khó khăn với những hy
sinh, mất mát không thể bù đắp đƣợc của bao thế hệ cha ông chúng ta.“Và

cũng để có và giữ đƣợc nền độc lập dân chủ của nƣớc nhà thì ngoài sự cống
hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những ngƣời con kiệt xuất với
phẩm chất anh dũng, kiên cƣờng, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho
Tổ quốc. Ngƣời thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp
năm châu bốn bể để tìm ra con đƣờng mang lại độc lập tự do cho Tổ quốc
mình. Nhắc tới chủ tịch Hồ Chí Minh là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc,
một danh nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là
ngƣời cha già kính yêu của dân tộc. Học tập tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh
là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà không một sách vở nào có
thể dạy nổi. Trong đề tài này em nghiên cứu vấn đề tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
dân chủ đồng thời áp dụng vào thực tế thực hành dân chủ nhân dân ở địa
phƣơng Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay.””
“Vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội
hiện nay đã và đang đƣợc thực hiện theo đúng chủ trƣơng, đƣờng lối của
1


Đảng và Nhà nƣớc đề ra. Việc thực hành dân chủ của nhân dân ở huyện Ứng
Hòa là một chủ trƣơng đúng đắn nhằm tiếp tục cụ thể hóa phƣơng châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong quá trình triển khai, thực hành
dân chủ nhân dân ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay đã đƣợc sự quan
tâm, giám sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng và sự tham gia
nhiệt tình, có trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng.
Cùng với đó, trình độ học vấn của cán bộ, Đảng viên các cấp của huyện Ứng
Hòa đƣợc nâng cao, cơ sở vật chất, kỹ thuật để tuyên truyền ngày càng đƣợc
đầu tƣ, phát triển. Chính vì vậy, việc thực hành dân chủ ở nông thôn Ứng Hòa
– Hà Nội hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đã đạt đƣợc những kết quả rõ
rệt.”
“Tƣ tƣởng dân chủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc
bản chất của giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, vừa thể hiện đặc sắc

những giá trị truyền thống của dân tộc, đông thời tiếp thu một cách sáng tạo
những tinh hoa của giá trị nhân loại”góp phần vô cùng to lớn vào sự hoàn
thiện đƣờng lối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy,
em quyết định chọn đề tài “Thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Ứng Hòa - Hà Nội hiên nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Bàn về vấn đề dân chủ, đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu ở nhiều phạm vi khác nhau; đƣợc đề cập trong nhiều đề tài, bài
viết, một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ. Trong đó, có thể khái quát thành
các nhóm công trình sau:
* Các công trình đề cập tới tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh nói
chung
“Cuốn sách: Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh (2009) của
Phạm Văn Bính (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, nêu những vấn đề lý
luận, thực tiễn của phƣơng pháp dân chủ Hồ Chí Minh, những yêu cầu đặt ra
trong việc vận dụng phƣơng pháp dân chủ Hồ Chí Minh để hoàn thiện
phƣơng pháp lãnh đạo dân chủ của Đảng về chính trị, cải cách bộ máy, hoàn
2


thiện chức năng quản lý nhà nƣớc trong phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, phát triển ý thức công dân và năng lực thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ…củng cố khối liên minh công - nông
- trí thức, tăng cƣờng pháp chế, chống khuynh hƣớng dân chủ cực đoan.”
“Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới (2010) của Giáo sƣ - Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị
Quốc gia, nêu rõ tầm quan trọng của dân chủ đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông
thôn từ khi triển khai công cuộc đổi mới đất nƣớc đến nay; đề xuất các giải
pháp góp phần thực hiện hiệu quả việc phát huy dân chủ trong đời sống xã

hội, tạo động lực, mục tiêu cho việc xây dựng thành công mô hình chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.”
“Cuốn sách: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (1992) của
Đỗ Nguyên Phƣơng và Trần Ngọc Đƣờng (chủ biên), Nhà xuất bản sự thật Hà
Nội, phân tích những nội dung cơ bản về vấn đề hệ thống chính trị và dân chủ
XHCN nêu trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng;
những nội dung cơ bản về Nhà nƣớc pháp quyền với cải cách bộ máy Nhà
nƣớc và hoàn thiện hệ thống chính trị.”
* Các công trình liên quan trực tiếp đến chủ trương và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hòa – Hà Nội
-

“Lịch sử Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2010), Nxb. Lao động.”

-

“Ứng Hòa trong hành trình phát triển, Nxb. Văn hóa thông tin.”

“Ủy ban nhân dân huyện Ứng Hòa, Báo cáo quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội huyện Ứng Hòa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030.”
Các công trình nêu trên nhìn chung tập trung đề cập đến đặc điểm, tình
hình, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban,
ngành, đoàn thể trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng
đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị qua các thời kỳ.
Nhƣ vậy, qua việc nghiên cứu các công trình, đề tài đề cập đến vấn đề dân
chủ nói chung cũng nhƣ vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực, địa bàn, chƣa có
công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống đầy đủ, toàn diện về
3



vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn của
huyện Ứng Hòa – Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận có mục đích làm rõ những nội dung cốt lõi cơ bản của tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ, thực hành dân chủ, từ đó vận dụng hệ thống
tƣ tƣởng này vào việc nâng cao hiệu quả chất lƣợng thực hành dân chủ của
nhân dân ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
thực hành dân chủ
- “Chỉ ra thực trạng thực hành dân chủ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở
nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
đó”
- “Đề xuất một số biện pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả thực hành dân chủ ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay theo
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
“Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là nghiên cứu về những vấn đề,
những yếu tố của quá trình thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn Ứng
Hòa – Hà Nội hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.”
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu quá trình thực hành dân chủ nhân dân tại nông
thôn Ứng Hòa – Hà Nội theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm
2018.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận


4


“Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ, các văn
kiện của Đảng và Nhà nƣớc, có tham khảo, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa
học hiện đại về dân chủ.”
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng các nguyên tắc phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin; các phƣơng pháp logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa của đề tài
“Phân tích làm rõ hệ thống các quan điểm về dân chủ và phƣơng pháp
thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh sẽ là một đóng góp nhỏ và việc nghiên
cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh – một bộ phận cấu thành nền tảng tƣ tƣởng và kim
chỉ nam hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây cũng là một đóng góp vào
việc tìm tòi cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận cho việc hoàn thiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nƣớc ta và đặc biệt là ở nông thôn huyện Ứng Hòa – Hà Nội.”
“Kết quả đạt đƣợc trong khóa luận sẽ góp phần nâng cao nhận thức của
ngƣời dân huyện Ứng Hòa – Hà Nội về tƣ tƣởng dân chủ của Hồ Chí Minh,
về quyền làm chủ của nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
huyện Ứng Hòa – Hà Nội vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay.”
7. Kết cấu của đề tài
“Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
khóa luận gồm 2 chƣơng và 4 tiết.”

5


CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ


1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm “Dân chủ”
“Dân chủ là hiện tƣợng lịch sử - xã hội, gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con ngƣời và xã hội loài ngƣời. Theo nguồn gốc của tiếng
Hy Lạp, dân chủ gồm 2 từ “demos” có nghĩa là nhân dân, “kratos” có nghĩa là
quyền uy, sự cai trị. Nhƣ vậy theo nghĩa gốc, dân chủ là quyền làm chủ của
nhân dân, là trạng thái tổ chức xã hội trong đó quyền lực nhà nƣớc thuộc về
nhân dân.”
“Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã hội;
chỉ quyền của ngƣời dân và chỉ một phƣơng thức công tác, phong cách quản
lý, lãnh đạo”[44, tr.137].
“Lý luận về dân chủ chiếm một phần rất trọng yếu trong lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, từ dân chủ chủ nô
đến dân chủ tƣ sản rồi đến dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) đều là
những bƣớc tiến của lịch sử. Các ông đã đánh giá cũng nhƣ xem xét một cách
khách quan nhất nền dân chủ tƣ sản, mặc dù nó còn rất nhiều hạn chế, khuyết
điểm, song là bƣớc tiến bộ hơn cả so với chế độ chuyên chế phong kiến. Cùng
với đó, các ông đã vạch ra bản chất giai cấp của dân chủ tƣ sản, đó chính là
dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chuyên chính đối với đa số nhân dân lao
động.”Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong giai đoạn đầu tiên của cách mạng
xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản bắt buộc phải trở thành giai cấp thống trị,
phải “giành lấy dân chủ”.“Chỉ có giành đƣợc chính quyền nhà nƣớc, giai cấp
vô sản mới xây dựng và phát huy đƣợc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mới
hoàn thành đƣợc sứ mệnh lịch sử của mình là đƣa nhân dân, trƣớc hết là nhân
dân lao động trở thành ngƣời chủ của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất
của mọi quyền lực. Tƣ tƣởng đó của C. Mác và Ph. Ăng-ghen nói lên bản chất
dân chủ của xã hội mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.”
Kế thừa và phát triển những tƣ tƣởng đúng đắn của C. Mác và Ph. Ăngghen về dân chủ, V.I.Lê-nin cũng đi đến nhấn mạnh: “Dân chủ trở thành giá
6



trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của đời
sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con ngƣời, tạo ra ngày
càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con
ngƣời”. Vì vậy V.I.Lê-nin cho rằng: “dân chủ vô sản là dân chủ gấp triệu lần
dân chủ tư sản”.
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ đối với quảng đại quần chúng
nhân dân lao động, là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa không loại trừ đấu tranh giai cấp, nó kiên quyết đấu tranh chống lại mọi
hành vi đi ngƣợc lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ
chân chính của nhân dân. Do vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân
chủ và chuyên chính không tách rời nhau, dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ
cƣơng, kỷ luật.”
“Mục đích cao nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con
ngƣời và xã hội loài ngƣời, xây dựng một xã hội không có giai cấp, mọi ngƣời
đều bình đẳng, tự do; đây là nền dân chủ tiến bộ nhất. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất; tác động mạnh
mẽ đến các quyền tự do về chính trị, tƣ tƣởng, văn hóa và các lĩnh vực khác.”
Kế thừa những yếu tố tốt đẹp và phát triển hơn nữa những tƣ tƣởng về
dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đƣa ra quan điểm đặc
sắc về dân chủ bằng những diễn đạt rất súc tích, ngắn gọn: “Dân là chủ”,
“Dân làm chủ”, “Dân là gốc”, “Nƣớc ta là nƣớc dân chủ”, “Dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng”. Theo Ngƣời, ở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, những giá
trị dân chủ đƣợc thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị, trong
đó Nhà nƣớc là trụ cột. Dân chủ là mục tiêu, động lực của phát triển. Các giá
trị dân chủ trở thành phổ biến, chi phối mọi hoạt động của đời sống xã hội,
mọi công dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức, vận dụng làm chủ
bản thân và làm chủ xã hội. Theo C.Mác một nền dân chủ thật sự phải gắn liền
với sự nghiệp của nhân dân “Chế độ dân chủ là câu đố đã đƣợc giải đáp của mọi

hình thức chế độ nhà nƣớc…ngày càng hƣớng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con
ngƣời hiện thực, nhân dân hiện thực và đƣợc xác định là sự nghiệp của bản thân
nhân dân” [33, tr.349].

7


“Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nƣớc là công cụ quyền lực để
thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, luôn chịu sự giám sát của nhân
dân. Nhà nƣớc và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ, thƣờng xuyên. Cán bộ,
công chức Nhà nƣớc là ngƣời đại diện cho pháp luật để bảo vệ nhân dân. Để
tồn tại và khẳng định rõ vị thế, Nhà nƣớc phải đề ra những cơ chế, biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa, xử lý tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm trong
cán bộ; giữ vững kỷ luật, kỷ cƣơng, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao
ý thức pháp luật.”
1.1.2. Khái niệm “Thực hành dân chủ”
Thực hành dân chủ là sự thể chế hóa, pháp luật hóa phƣơng châm: “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành những quy phạm và hành động cụ
thể trong đời sống cộng đồng dân cƣ cấp xã.
“Để các quyền dân chủ đƣợc thực hiện trong cuộc sống, các quyền đó
phải đƣợc thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và đƣợc thực hiện bằng
những thiết chế tƣơng ứng của Nhà nƣớc. Ở đây, dân chủ và pháp luật, dân
chủ và kỷ cƣơng không bài trừ, phủ định nhau, trái lại, chúng nằm trong sự
thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề phát triển của nhau. Thực tế cho
thấy, cả vô chính phủ lẫn độc đoán chuyên quyền đều trái với bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Không thể có dân chủ mà thiếu pháp luật, kỷ
luật, kỷ cƣơng.”
1.1.3. Khái niệm “thực hành dân chủ nhân dân ở nông thôn”
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (1994), nông
thôn đƣợc định nghĩa là khu vực dân cƣ tập trung chủ yếu làm nghề nông.

Nhân dân đƣợc hiểu là đông đảo những ngƣời dân, thuộc mọi tầng lớp,
đang sống ở một khu vực địa lý nào đó. Nhân dân ở nông thôn Việt Nam bao
gồm nhiều đối tƣợng khác nhau, tuy nhiên, lực lƣợng chiếm số lƣợng đông
đảo là nông dân, những ngƣời gắn bó trực tiếp với sản xuất, lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh ngƣời nông dân, khu vực nông thôn còn có
những ngƣời làm nghề trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thƣơng mại, dịch
vụ, cán bộ hƣu trí, cựu chiến binh… tuy không gắn bó trực tiếp với lao động
sản xuất song luôn gắn bó về lối sống, sinh hoạt ở khu vực nông thôn.
8


“Nông thôn với tính chất là cấp cơ sở trong hệ thống quản lý hành chính
nhà nƣớc, là đơn vị hành chính thấp nhất - xét về mặt không gian quản lý; là
cấp gần dân nhất, tiếp nhận, triển khai thực hiện các chủ trƣơng, đƣờng lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc; theo dõi, giám sát, kiểm tra
công dân thực hiện các nghĩa vụ, pháp luật. Nông thôn chính là hình ảnh thu
nhỏ của nhà nƣớc; là nơi thể hiện trực tiếp, cụ thể bản chất của chế độ nhà
nƣớc, của chế độ xã hội; thể hiện trực tiếp sự hoàn thiện hay hạn chế, yếu
kém của thể chế, của cơ chế và mô hình tổ chức quyền lực; thể hiện cụ thể
thái độ của ngƣời dân, là nơi mà việc làm, đời sống, tâm tƣ, nguyện vọng của
ngƣời dân đƣợc bộc lộ đầy đủ, rõ rệt; nơi thể hiện và đánh giá trực tiếp hiệu
lực, hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở.”
“Từ khái niệm về Dân chủ, Thực hành dân chủ và khái niệm Nông thôn,
có thể hiểu thực hành dân chủ ở nông thôn là quá trình nhân dân cùng các
chủ thể khác thực hiện thể chế về dân chủ ở cơ sở, cụ thể là quy định pháp
luật về các quyền biết, bàn, làm, kiểm tra trực tiếp và đầy đủ nhất ở chính
nông thôn - địa bàn mà nhân dân đang sinh sống và lao động hàng ngày.”
1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ của nhân dân
1.2.1. Nội dung thực hành dân chủ
“Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ của nhân loại,

Hồ Chí Minh lí giải khái niệm dân chủ một cách ngắn gọn, đơn giản, cô đọng,
dễ hiểu, dễ thực hiện và dễ kiểm soát.”Việc lí giải này thƣờng đƣợc Hồ Chí
Minh gắn với vấn đề nhà nƣớc. Ngƣời nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là dân làm chủ”; “Nƣớc ta là nƣớc dân chủ, có địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”.
“Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức về dân chủ và đó
là quan niệm ngắn gọn nhất phản ánh đúng bản chất và nội dung quan niệm
của Hồ Chí Minh về dân chủ.”
« Nƣớc ta là nƣớc dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân

9


Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ƣơng do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ƣơng đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lƣợng đều ở nơi dân» [36, tr.698].
Để thực hiện các quyền làm chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân dân
không chỉ có mỗi quyền mà điều quan trọng là phải có năng lực làm chủ. “Mọi
ngƣời Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có
kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nƣớc nhà” [35, tr.40].
“Hồ Chí Minh luôn chú trọng việc thực hành dân chủ để nƣớc ta trở
thành một nƣớc dân chủ thực sự. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành
dân chủ đƣợc thể hiện ở các tác phẩm, bài nói, bài viết, ứng xử và tác phong
làm việc với nhiều góc tiếp cận khác nhau.”Dựa trên quan điểm về dân chủ là
dân “là chủ” và dân“làm chủ”, Hồ Chí Minh xác định, quần chúng nhân dân
vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể của quá trình thực hành dân chủ.

“Theo Hồ Chí Minh, phải làm sao cho ngƣời dân có quyền làm chủ, có
điều kiện làm chủ, biết hƣởng quyền làm chủ, đồng thời biết dùng quyền làm
chủ.”Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Việc gì cũng hỏi ý kiến quần chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho
dân chúng hiểu rõ. Đƣợc dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức
làm”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra quy trình của thực hành dân chủ đối với nhân
dân: (1) Cán bộ lãnh đạo cần phải biết “hỏi”, biết “bàn bạc” để thực hiện vai
trò “là chủ” của nhân dân trong xã hội. (2) Khi thảo luận cần biết “giải
thích” để nhân dân cùng hiểu nội dung của vấn đề cần tạo sự đồng tình, ủng
hộ. (3) Cần “làm” theo sự thống nhất để phát huy cao độ tinh thần và hành
động“làm chủ”của nhân dân trong xã hội. Có nhƣ vậy, việc thực hành dân
chủ mới công khai, hiệu quả, tạo đƣợc niềm tin nơi dân.
“Có thể thấy, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trong nhận
thức về dân chủ, so với tƣ tƣởng dân chủ thời phong kiến và cả dân chủ tƣ
sản. Các nhà tƣ tƣởng với ý thức hệ phong kiến quan niệm dân chủ là chủ của

10


dân. Dƣới chế độ phong kiến, quyền lực và quyền uy đều tập trung trong tay
nhà vua. Dân chỉ là thần dân, thảo dân, là bề tôi tự nhiên chịu ơn huệ và bị
trói buộc bởi luật lệ và những quy định của triều đình. Dân chủ tƣ sản chỉ đem
lại lợi ích và quyền lực cho một thiểu số ngƣời giàu có.”
Thứ nhất, để nhân dân đƣợc làm chủ, nhân dân phải đƣợc quyền biết mọi
việc.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một ngƣời
dân hiểu rõ rằng: “Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng
hái làm cho kỳ đƣợc”. Nhất là, đối với ngƣời dân làm nghề nông, những
ngƣời có trình độ học vấn không cao nhƣng lại chiếm đa số trong xã hội, thì
cán bộ phải tuyên truyền, giải thích “làm sao cho bà con hiểu mình là ngƣời

chủ tập thể, làm chủ hợp tác xã, làm chủ Nhà nƣớc”.
Phạm vi dân biết ở đây là: Tình hình phát triển kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội nói chung của đất nƣớc, của địa phƣơng; nhân dân cần biết những
vấn đề cụ thể, rõ ràng liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình,
của mỗi gia đình, cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội và đƣợc quyền "biết" đến
những vấn đề, nhƣ: Chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của cả nƣớc nói chung và của địa phƣơng – nơi mà mình sinh sống nói
riêng; Kết quả thanh tra, kiểm tra và giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng của cán bộ, đảng viên; Về việc triển khai thực hiện chính sách đối với
gia đình có công với cách mạng, gia đình thƣơng binh liệt sĩ, bệnh binh, vấn
đề an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
Thứ hai, những nội dung nhân dân “bàn bạc” và “thi hành”.
Khi dân đã đƣợc biết, đƣợc hiểu thì cần phải tạo điều kiện để mọi
ngƣời đƣợc bàn bạc thật sự: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý
kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt ra kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phƣơng”. Sau khi dân đã biết, đã hiểu, đã bàn bạc và xây dựng
kế hoạch của địa phƣơng mình, cơ sở mình, thì nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo
là “động viên và tổ chức cho toàn dân ra thi hành”. Trong triển khai thực hiện,
phải theo dõi, gúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân nhân dân tự giác tham gia,
11


“đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Trong chế độ dân chủ, nhân
dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, góp phần xây dựng nhà nƣớc. Dân có thể
bàn để hiểu sâu sắc, để nâng cao kiến thức, bàn để thống nhất xây dựng, bàn
để làm. Dân có thể bàn ở nhiều nơi, trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Để nâng cao nhận thức và phát huy trí tuệ, dân có quyền đƣợc cung cấp thông
tin, có định hƣớng để mỗi ngƣời dân tự hình thành quan điểm, làm cơ sở cho
việc bàn bạc, thảo luận, xây dựng các chủ trƣơng, chính sách của Đảng phù

hợp. Theo đó, vấn đề dân biết, để bàn, để làm là nhu cầu hết sức cấp bách và
khách quan. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Mỗi công dân đều có quyền bầu
cử, ứng cử để cùng lo việc nƣớc. Quyền ấy phải đƣợc tôn trọng và bảo vệ.
Ngƣời công dân là con ngƣời chính trị, có quyền tham gia chính sự. Ngƣời
kêu gọi các tầng lớp nhân dân ta, công nhân, nông dân, lao động trí óc, các
nhà công thƣơng, đồng bào thiểu số, ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của ngƣời
công dân, ngƣời chủ nƣớc nhà.Và Hồ Chí Minh tha thiết mong muốn, làm
cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lấy mọi công việc của mình, để mau
chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện các dân tộc bình
đẳng về mọi mặt”.
Thứ ba, nhân dân cùng tham gia giám sát, kiểm tra các công việc của
Đảng và Nhà nƣớc.
Dân kiểm tra là một trong những nội dung cơ bản trong thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nƣớc, xây dựng các
đoàn thể vững mạnh, trong sạch và bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của kiểm tra, giám sát là “để giúp
họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ƣu điểm”. Do đó, sau
khi dân biết, dân bàn, dân thực thi, thì công đoạn cuối cùng là mỗi tổ chức,
đơn vị, địa phƣơng, cơ sở khi thi hành xong “phải cùng với nhân dân kiểm
thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thƣởng”, để giúp tiếp tục
thực hiện tốt hơn nữa những nhiệm vụ khác.
“Theo Hồ Chí Minh, nhân dân cần đƣợc kiểm tra, giám sát những gì có
liên quan tới nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Giám sát việc thực thi nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nƣớc, quản lý sản xuất kinh doanh
và hoạt động của cán bộ, công chức ở nông thôn; kiểm tra từng con ngƣời cụ
12


thể gắn với chức trách cụ thể, trọng tâm và việc thực hiện những quy định về
tiền bạc, tài chính, kinh tế, quản lý và sử dụng đất đai, chính sách xã hội và việc

giải quyết những đơn thƣ khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phƣơng đơn vị cơ sở; giám sát, phát
hiện những vi phạm của công dân, giúp chính quyền địa phƣơng và thủ trƣởng
đơn vị xem xét, xử lý kịp thời, đúng mức.”
“Cũng theo Hồ Chí Minh, để thực hiện đƣợc những nội dung nói
trên,”cần truyên truyền, vận động để ngƣời dân thấy rõ đƣợc trách nhiệm,
quyền lợi của bản thân mình, và có cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi để quần
chúng nhân dân có thể đóng góp ý kiến, giám sát, phản biện trong công tác
xây dựng Đảng. Bởi vì, cùng sống trong cộng đồng nên nhân dân cũng là
những ngƣời am hiểu các vấn đề của tổ chức Đảng và gần gũi với đảng viên.
Ở mỗi địa phƣơng, mỗi cơ sở, nếu tổ chức đảng làm tốt việc phát huy quyền
dân chủ của nhân dân thì nhân dân sẽ tích cực tham gia đóng góp xây dựng
Đảng. Điều quan trọng là trong mỗi tổ chức, mỗi đảng viên phải thật sự cầu
thị, chính trực, thật thà, khiêm tốn lắng nghe, có phƣơng pháp, có hình thức
thích hợp để nhân dân dám nói và nói thật, nói đúng với tinh thần xây
dựng.”Ngƣời yêu cầu: “Tổ chức đảng phải tạo điều kiện thuận lợi, hƣớng dẫn
cụ thể về nội dung, cách thức để ngƣời dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, có
phƣơng pháp, kế hoạch ghi nhận, tiếp thu có chọn lọc những ý kiến sát đáng
của quần chúng nhân dân. Đối với những ý kiến phê bình đúng của quần
chúng thì phải tiếp thu nghiêm túc và có biện pháp sửa chữa.”Còn với các ý
kiến không đúng hoặc chƣa đúng thì cần phải phân tích, giải thích đầy đủ với
thái độ thực sự “trọng dân”.
“Hồ Chí Minh là một tấm gƣơng của tinh thần dân chủ, phát huy dân
chủ và luôn mong muốn đồng bào luôn giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
bình để cán bộ làm tròn nhiệm vụ ngƣời lãnh đạo, ngƣời đày tớ trung thành
của nhân dân. Vì thế, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân thƣờng xuyên giám sát
các hoạt động, công việc của Chính phủ từ Trung ƣơng đến cơ sở.”Bằng tình
cảm của mình, Hồ Chí Minh đã nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong
nhân viên có nhiều khuyết điểm. Có ngƣời làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ
đen, khinh dân, mƣu vinh thân, phì gia.... Xin đồng bào hãy phê bình giúp đỡ

13


giám sát công việc Chính phủ. Còn những việc làm, mà chƣa làm đƣợc thì xin
đồng bào nguyên lƣợng”.
“Tóm lại, thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn là một trong
những nội dung quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình
nhân dân thực hiện các quy định của pháp luật về quyền dân chủ của nhân
dân. Về bản chất, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là những nội dung
liên hoàn của trình tự công khai hóa và dân chủ hóa. Thực hiện đầy đủ các
khâu này nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của công dân đã đƣợc Hiến pháp
và pháp luật quy định. Nhà nƣớc không thể có dân chủ khi nhân dân không
đƣợc biết, đƣợc bàn, đƣợc làm, đƣợc kiểm tra những nội dung thiết thực, ảnh
hƣởng trực tiếp tới quyền, lợi ích của họ.”
1.2.2. Hình thức thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân làm chủ” là”một bƣớc tiến quan
trọng về chất của vấn đề dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, chúng ta phải làm nhƣ
thế nào cho ngƣời dân có đƣợc quyền làm chủ, có điều kiện làm chủ, biết
hƣởng thụ quyền làm chủ, đồng thời biết dùng quyền làm chủ. Muốn vậy
nhân dân cần phải có năng lực làm chủ. Năng lực làm chủ đó không phải
bỗng dƣng mà có, không phải từ trên trời rơi xuống, không phải do “ban
phát” mà một mặt, Đảng và Nhà nƣớc phải tạo ra những cơ chế, chính sách và
pháp luật phù hợp; mặt khác, ngƣời dân phải ra sức phấn đấu, rèn luyện, phải
học về dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ của bản thân,
phƣơng pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Chỉ có nhƣ
vậy, nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh triệt để tình trạng dân chủ
chung chung và tình trạng dân chủ hình thức.”
“Luôn thấm nhuần quan điểm toàn diện và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra sự cần thiết phải quan tâm đến mọi mặt của đời sống và chú ý hài hòa
các mối quan hệ. Trọng tâm có bốn vấn đề phải coi là quan trọng ngang nhau:

chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Không đƣợc xem nhẹ một mặt nào. Nội
dung toàn diện của dân chủ thể hiện ở các mặt ấy. Ngƣời nêu trƣớc hết là dân
chủ trong chính trị. Hồ Chí Minh khẳng định, nƣớc ta là nƣớc dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ. Bởi thế, thực hiện dân chủ chính trị thì phải bảo

14


đảm phát huy quyền làm chủ của dân. Đây là bản chất của dân chủ mà cũng là
bản chất của chủ nghĩa xã hội. Phải thể chế hóa quyền dân chủ chính trị,
quyền làm chủ của dân qua Hiến pháp và các đạo luật, qua thể chế bầu cử để
dân đƣợc tự do lựa chọn ngƣời xứng đáng làm đại diện cho mình. Ủy quyền
kèm theo kiểm tra, giám sát thực hiện quyền. Dân là chủ thì từ Chủ tịch nƣớc,
các bộ trƣởng cho đến tất cả các công chức, viên chức phải là ngƣời phục vụ
dân, chịu sự kiểm tra, giám sát, đánh giá, bãi miễn của dân theo luật định.”
“Hồ Chí Minh yêu cầu, cần lựa chọn nội dung và phƣơng thức truyền tải
phù hợp với từng đối tƣợng ngƣời dân ở từng địa bàn dân cƣ để nhân dân phát
huy quyền là chủ và làm chủ. Bên cạnh đó, cần làm cho ngƣời dân hiểu rằng,
cán bộ đƣợc trả lƣơng là để phục vụ ngƣời dân, phụng sự đất nƣớc, đó là
quyền đƣợc hƣởng, đồng thời cũng là nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên. Vì vậy,
khi phát hiện thấy cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức, lối sống cần báo ngay
cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Nếu mỗi ngƣời dân không nhận thức
đƣợc điều này thì chẳng những họ không thực hiện đƣợc quyền giám sát của
mình mà còn góp phần làm hƣ hỏng cán bộ. Cũng theo Ngƣời, cần phải có cơ
chế khen thƣởng, động viên kịp thời để khuyến khích ngƣời dân giám sát
những việc làm sai trái trong đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, cũng là
để nhân lên những hành động đẹp, những tấm gƣơng đẹp.”
1.2.3. Phương pháp thực hành dân chủ
“Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi.”
“Ngay từ năm 1941, trong Chƣơng trình của tổ chức Mặt trận Việt Nam độc

lập đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ
cộng hòa cho nƣớc ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện giành
đƣợc thắng lợi.“Đó là chƣơng trình thực hiện các mục tiêu dân chủ, xác định
rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân Việt Nam trƣớc vận mệnh của nƣớc
nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng ngƣời dân.””
“Ngay sau khi nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã chủ
trƣơng thiết kế, xây dựng và ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm
1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
Điều đó thể hiện rõ ở Chƣơng II Hiến pháp năm 1946 gồm 18 điều quy định
15


về nghĩa vụ và quyền lợi công dân.”Điều 6 ghi rõ: "Tất cả các cơ quan nhà
nƣớc đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà
nƣớc đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp
và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
“Thứ hai, xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội.”
“Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng tới
việc xây dựng Đảng với tƣ cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà
nƣớc, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân. Xây
dựng mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ
chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nƣớc; xây dựng
các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân dân.”
“Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân chủ ở
trong Đảng thì mới bảo đảm đƣợc dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo
của Đảng đƣợc xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc
và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố
tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở

thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.”
Thứ ba, vận động, tuyên truyền quần chúng thực hành dân chủ.
Ngƣời đi vận động, tuyên truyền phải“xác định rõ mục đích và đối tƣợng
tuyên truyền, giáo dục; mục đích của công tác vận động, tuyên truyền là nhằm
biến những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nƣớc, những tri thức khoa học thành niềm tin, thành hành động cụ thể, xây
dựng, bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc, làm cho cuộc sống mỗi ngƣời dân ngày
càng tiến bộ, ấm no, hạnh phúc.”
Hồ Chí Minh nói rằng: “Tuyên truyền cũng thế, huấn luyện cũng thế, phải
làm sao cho dễ hiểu, nói sao để ngƣời ta hiểu đƣợc, hiểu để làm”. Để đạt đƣợc
mục tiêu đó theo Hồ Chí Minh thì trong tuyên truyền phải “nói thiết thực, nói
đúng lúc”.

16


“Vì điều kiện dân tộc, vùng miền mỗi nơi mỗi khác nên Hồ Chí Minh đòi hỏi
việc vận động tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện đƣờng lối, chính
sách cũng phải có những nội dung, hình thức và bƣớc đi phù hợp.”

17


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
là một nội dung có ý nghĩa quan trọng về lí luận và thực tiễn. Đó là hệ thống
tƣ tƣởng về nội dung thực hành dân chủ, hình thức thực hành dân chủ và biện
pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hành dân chủ. Cho đến nay, hệ thống tƣ
tƣởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.


18


CHƢƠNG 2. VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC
HÀNH DÂN CHỦ VÀO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH
DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN Ở NÔNG THÔN ỨNG HÕA – HÀ NỘI
HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động đến thực hành dân chủ của nhân dân ở nông
thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư
- Điều kiện tự nhiên:
“Ứng Hòa là huyện đồng bằng nằm ở đông nam tỉnh Hà Tây cũ (nay
thuộc Hà Nội) có diện tích tự nhiên là 183,72 km2.”
“Địa giới hành chính huyện Ứng Hòa gồm 29 đơn vị hành chính: 1 thị
trấn và 28 xã.”Dân số năm 2005 là 195.941 ngƣời, trong đó: Đô thị là 13.568
ngƣời (chiếm 6,92%), nông thôn: 182.373 ngƣời (chiếm 93,08%). Mật độ dân
số trung bình là 1.066 ngƣời/km2.
“ Ứng Hòa là huyện đồng bằng nằm trong vùng thuộc miền văn minh lúa
nƣớc sông Hồng. Huyện nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, có điều kiện
khí hậu đất đai đa dạng, phù hợp với khả năng phát triển một nền nông nghiệp
sinh thái toàn diện, mang đặc trƣng của nền sản xuất nông nghiệp truyền
thống. Nhân dân có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, đoàn kết, yêu quê
hƣơng xóm làng.”
“Hệ thống kết cấu hạ tầng từng bƣớc đƣợc xây dựng và cải thiện là một
khâu đột phá tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Các tuyến
trục giao thông quan trọng kết nối huyện Ứng Hòa với thành phố Hà Đông;
các trung tâm kinh tế của thành phố Hà Nội; vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
và các tỉnh đồng bằng sông Hồng đã và đang hình thành mở rộng.”
- Điều kiện dân cư:
Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới đất ƣớc, tình hình

kinh tế - xã hội của Ứng Hòa có nhiều biến chuyển, đạt đƣợc nhiều thành tựu.
Bối cảnh này tạo ra môi trƣờng sống ổn định, phát triển cho cƣ dân trên địa
bàn. Dân số Ứng Hòa tăng thêm khoảng 30.000 ngƣời. Đặc biệt, trong khoảng
19


×