Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao tính chủ động của học sinh trong việc học môn giáo dục công dân ,tăng cường cho kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia bằng phương pháp dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.94 KB, 29 trang )

SỞ GD & ĐT QUẢNG BÌNH
TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“Một số biện pháp nhằm nâng cao tính chủ động của học sinh trong việc học môn
Giáo dục công dân ,tăng cường cho kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia
bằng phương pháp dạy học tích cực.”

GIÁO VIÊN:ĐOÀN THỊ KIM LIÊN
ĐƠN VỊ:Trường THPT Lê Hồng Phong.

1


A.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề tài:
Giáo dục công dân (GDCD ) là một môn học có vai trò quan trọng trong giáo dục
đạo đức, nhân cách, phẩm chất, lối sống cho học sinh . Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay,
khi ngành giáo dục đang triển khai thực hiện Nghị quyết Quốc hội về đổi mới Căn bản,
toàn diện về giáo dục và đào tạo, môn Giáo dục công dân có nhiệm vụ quan trọng trong
việc giáo dục công dân toàn cầu. Do vậy, xây dựng và phát triển môn học ngày càng vững
mạnh là mong muốn của toàn ngành giáo dục, trong đó chúng ta- những giáo viên dạy bộ
môn GDCD là lực lượng nòng cốt. Nếu các giáo viên giảng daỵ môn GDCD đồng lòng,
đồng sức, tôi tin chúng ta sẽ xây dựng và phát triển môn học vững mạnh. Với niềm tin đó,
tôi mong muốn góp một chút công sức thông qua sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện
pháp nhằm nâng cao tính chủ động của học sinh trong việc học môn Giáo dục công dân
,tăng cường cho kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia (TNTHPTQG) bằng
phương pháp dạy học tích cực.” Tôi mong rằng với sáng kiến kinh nghiệm(SKKN) này
bản thân tôi đã góp một viên gạch vào việc xây dựng ngôi nhà của môn Giáo dục công dân
ngày càng vững mạnh.
Với nội dung và cách thức thi mới : Khó khăn lớn nhất là thái độ của học sinh đối


với môn học (vì từ trước nay môn GDCD dường như bị xem nhẹ, như môn phụ) và mọi
thứ đều rất mới mẻ. Các thầy cô thực sự vừa dạy, vừa ôn, vừa rút kinh nghiệm. Tài liệu
phục vụ cho bộ môn còn ít, sách luyện theo dạng trắc nghiệm còn ít, một số sách mới phát
hành “nóng vội” nên kiến thức còn nhiều câu sai, chưa sát chương trình.
Chương trình thi gồm cả kiến thức lớp 11 và lớp 12 rất rộng .Môn giáo dục công dân là
môn trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng quát về nhận thức, tư tưởng chính trị,
đạo đức, hiểu biết và thực hiện pháp luật trong đời sống. Nhiệm vụ của chúng ta là dạy
học. Nhiệm vụ của học sinh là học những gì chúng ta dạy vì lợi ích thực tiễn của việc học
mang lại cho mỗi con người mà ai cũng biết nhưng do tâm lý coi môn học là phụ, là môn
học “khó, khô, khổ” vì thế tính chủ động của học sinh khi học môn GDCD còn chưa thật
sự tích cực.
Thi trắc nghiệm nghĩa là chấm dứt việc học tủ. Điều mấu chốt quan trọng nhất trong
việc thi trắc nghiệm hay thi tự luận không phải là hình thức thi mà là kiến thức. Điều kiện
cần đầu tiên để học sinh có thể tham gia kỳ thi THPT quốc gia là học sinh cần nắm chắc tất
cả kiến thức trong sách giáo khoa. Tự luận và trắc nghiệm là hai hình thức thi hoàn toàn
khác nhau, đòi hỏi kỹ năng làm bài, giải bài khác nhau. Nếu tự luận chú trọng vào từng
2


bước giải chi tiết thì nay, trắc nghiệm đòi hỏi tư duy nhanh, kiến thức bao quát.
Việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giờ dạy học, các phương pháp dạy học để kéo
người học ra khỏi trạng thái thụ động, tích cực tham gia làm cho việc học, giờ học trở nên
thích thú và hiệu quả hơn, là một mong muốn không riêng bất kỳ người giáo viên nào.
Việc thực hành phương pháp dạy tích cực đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ tốt
giữa người học và giáo viên - thông qua các phương pháp dạy tích cực người giáo viên
phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, kỹ năng và văn hóa giao tiếp tốt. Chưa kể
là việc dạy và học phải có liên hệ với thực tế … Cách dạy này thực sự là một áp lực nhưng
là một áp lực tích cực nhằm khuyến khích, nâng cao chất lượng dạy và học chuẩn bị cho
các em học sinh hành trang thật tốt chuẩn bị cho kì thi TNTHPTQG.
1.2.Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này bản thân tôi nhằm mục đích tìm ra một số biện pháp cụ thể
để đổi mới cách dạy ,cách học môn GDCD tạo nên hứng thú cho học sinh và làm cho môn
học bớt khô khan và gần gũi với thực tế cuộc sống hơn.
Qua đó tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để tìm ra những biện pháp hiệu quả
nhất trong giảng dạy môn GDCD ở trường phổ thông.
1.3.Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng :Học sinh THPT nói chung và học sinh khối 12 nói riêng.
-Phạm vi: Môn GDCD bậc THPT.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
-Phân tích tổng hợp.
-Quan sát ,thực nghiệm.
-Đối chiếu ,so sánh.
B.PHẦN NỘI DUNG
1.Cơ sở lý luận của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong môn giáo
dục công dân .
a. Giải thích các khái niệm
* Phương pháp và phương pháp dạy học
+ Phương pháp là thuật ngữ từ tiếng Hy Lạp “methodos”, có nghĩa là con đường,
cách thức vận động của sự vật hiện tượng nhằm đạt được mục đích. Nghĩa chung nhất của
phương pháp thường được hiểu là cách thức, phương tiện, giải pháp được chủ thể sử dụng
để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương pháp là hệ thống những
nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động, nhận
3


thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định. Như vậy có thể hiểu
phương pháp là sự đúc kết kinh nghiệm, là khoa học và còn là nghệ thuật sáng tạo mang
đậm dấu ấn của chủ thể trong việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp trong từng trường
hợp cụ thể.
+ Phương pháp dạy học: Dạy học là hoạt động được đặc trưng bởi quá trình giảng

dạy của giáo viên và quá trình học tập của học sinh thông qua một phương pháp đặc thù
gọi là phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là việc sử dụng hệ thống phương pháp
giảng dạy và việc sử dụng phương pháp học tập nhằm thực hiện mục đích, yêu cầu học tập
đề ra phù hợp với cấp học, người học chương trình học cụ thể đã được xác định.
Phương pháp dạy học không vì mục đích tự thân của nó, cũng không được rút ra từ
ý muốn chủ quan của người dạy, mà phương pháp dạy học được quy định bởi nội dung,
đặc điểm kiến thức của từng bộ môn, từng bài học, người học … Việc sử dụng phương
pháp dạy học nào phải được người giáo viên lựa chọn để tổ hợp thành cách thức hoạt động
của thầy và trò trong quá trình dạy học, lĩnh hội kiến thức dưới sự chỉ đạo của người thầy
nhằm thực hiện nhiệm vụ học.
Phương pháp dạy học quyết định đến sự thành công của quá trình dạy học: Mục
tiêu bài học có đạt được hay không, các yêu cầu về kiến thức, về kỹ năng, tư tưởng và năng
lực nhận thức. Phương pháp dạy học kết hợp với nghiệp vụ chuyên môn cao, kỹ năng giao
tiếp … làm cho học sinh yêu thích giờ học, môn học và vận dụng những điều đã học vào
cuộc sống. Phương pháp dạy học tạo nên giá trị, dấu ấn về người thầy trong lòng học sinh
… rất khó phai mờ.
* Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực, hay phương pháp giáo dục chủ động, phương pháp
sư phạm hiện đại … là những cách gọi để chỉ những phương pháp, cách thức, kỹ thuật đề
cao chủ thể nhận thức, chủ yếu phát huy tính tự giác, nhiệt tình chủ động của người học,
làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, người học được tham gia làm việc, được sáng
tạo … giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình, đề xuất ý kiến, tự
nguyện trình bày hay tham gia tranh luận trước tập thể và người dạy.
Thực chất phương pháp dạy học tích cực là hướng tới khả năng chủ động, sáng tạo
của người học chứ không phải hướng tới việc phát huy tính tích cực của người dạy. Người
thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học độc lập
suy nghĩ thông qua việc thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thâm nhập thực tế theo mục tiêu,
nội dung của bài học, người thầy là người tổng hợp hoạt động, ý kiến của người học để xây
dựng nội dung bài học.
4



Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực giờ giảng của một giáo viên trở
nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò uy tín của
người thầy được đề cao hơn. Nhờ áp lực của phương pháp dạy học tích cực, khả năng
chuyên môn của người thầy sẽ phải tăng lên bởi kiến thức của từng nội dung bài học phải
được cập nhật liên tục để đáp ứng những tình huống, câu hỏi của người học trong thời đại
thông tin mở rộng và mới mẻ.
Mối quan hệ giữa thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp khi cùng làm việc với nhau,
cùng giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung và cuộc sống của người học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực người học sẽ thấy được học chứ không bị
học. Người học được làm việc, được nói, chia sẻ những kiến thức kinh nghiệm của mình song
song với bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ người dạy, bạn bè. Cách học này làm tăng khả
năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tế gấp nhiều lần so với cách học truyền thống. Từ đó người
học được tự tin khám phá năng lực của bản thân mình, có trách nhiệm, biết chia sẻ và tìm
thấy vị trí, giá trị của bản thân với cộng đồng.
Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh đã nói: “Để làm cho
tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của
chính mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”.
Chỉ khi người học tự mình khám phá kiến thức, tự học, tự làm, tự bổ sung cho nhau
thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thói quen hàng
ngày của họ.
Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực, quan hệ thầy trò trong việc dạy và học
cũng đổi khác. Người học trở nên chủ động trong việc học; chủ động tìm kiếm kiến thức,
có thể thu nhận kiến thức không phải chỉ từ người thầy mà còn từ nhiều nguồn khác nữa.
Người thầy trở nên quan trọng hơn vì giữa biển tri thức mênh mông, điều gì cần gạn lọc, sử
dụng và ứng dụng chúng vào cuộc sống, vào công việc, như thế nào … Tất cả những điều
ấy đều cần đến sự hướng dẫn của người thầy. Sự thay đổi quan hệ thầy trò trong việc dạy
và học này yêu cầu người học cần hiểu rõ mình là ai, mình muốn là người như thế nào sau
này và điều gì cần học và muốn học cái gì … Người dạy càng phải phấn đấu, tu dưỡng

nhiều hơn, tự học, tự sáng tạo để có thể đảm nhận và xứng đáng trong vai trò mới mà sự
phát triển của ngành giáo dục đòi hỏi.
b.Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là:
Thứ nhất: Dạy học lấy người học làm trung tâm
Vì lẽ cơ bản, học sinh là đối tượng của hoạt động giáo dục, của dạy học, nhà trường
tồn tại là vì học sinh . Bằng hoạt động học tập, người học tự hình thành và phát triển nhân
5


cách của mình, không ai có thể làm thay được. Vị trí trung tâm của học sinh trong quá trình
học tập cần phải đặt đúng vị trí của nó như đã vốn có. Việc phát huy tính chủ động, tích
cực, khơi dậy tài năng của mỗi một cá nhân học sinh có ý nghĩa không phải chỉ hôm nay
mà còn là hành trang cho các em bước vào cuộc sống sau này.
… Làm được điều này chỉ có thể là mọi hoạt động giáo dục - trong đó trọng tâm là việc
dạy học, phải được tiến hành có kế hoạch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của người giáo viên.
Thứ hai: Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh .
Kế hoạch học tập, bài giảng phải được thiết kế trước trong giáo án chứ không phải
thực hiện một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Người dạy phải thông báo cho học sinh vào cuối
buổi học những công việc cần chuẩn bị cho giờ học kế tiếp, phân công nhiệm vụ rõ ràng,
để người học phải có tâm thế chuẩn bị, tham gia và hợp tác. Trong khi tiến hành giờ học,
người dạy phải linh hoạt thay đổi các hoạt động cho phù hợp với thực tế giờ học và nội
dung bài học, nhằm kích thích người học hoạt động tích cực, tạo sự hưng phấn cho giờ
học. Có như thế, mục tiêu dạy học, bài học mới được đảm bảo thành công.
Thứ ba ,chú trọng rèn luyện phương pháp tự học trong dạy học
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”.
Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học, khả năng phát hiện và
giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Phương pháp tự học hướng đến việc khơi
dậy khả năng suy nghĩ, làm việc, nắm bắt kỷ cương và con đường đi đến kiến thức mới.
Muốn làm được điều này học sinh buộc lòng phải làm việc nhiều hơn với sách vở (giáo
khoa và sách tham khảo), làm bài tập, tự học ở ngoài trường và lớp… kết hợp với sự giúp

đỡ, hướng dẫn của giáo viên bộ môn. Bồi dưỡng khả năng tự học chính là sự chuẩn bị cần
thiết cho khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn trong việc làm, thực tế sau này của người
học, giúp họ có thể tự tin hòa nhập, tự vượt qua những áp lực, khó khăn, hướng đến tương
lai của bản thân và sự phát triển của tập thể mà họ là thành viên.
Thứ tư: Hoàn thiện học của cá nhân phối hợp với học tập hợp tác tập thể.
Những tri thức mà học sinh khám phá dễ mang tính chủ quan, phiến diện, do vậy
các em cần trao đổi, hợp tác tri thức cá nhân được kiểm nghiệm tăng tính khách quan và
khoa học. Đồng thời tạo thói quen giao tiếp, khả năng thuyết phục, lắng nghe, nói trước
đám đông … ý thức hợp tác, chia sẻ và tính kỷ luật …
Dạy học thông qua hợp tác tạo nên quan hệ bình đẳng giữa người học và môi trường
học tập an toàn là điều kiện để xây dựng tình bạn, tính cạnh tranh lành mạnh, thói quen
chia sẻ, tính trách nhiệm. Xây dựng quan hệ thầy - trò - bạn bè tốt đẹp không chỉ lúc còn đi
học mà cả trong cuộc sống và công việc sau này.
6


Thứ năm: Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò
Trong quá trình dạy học, đánh giá học sinh là rất quan trọng để giáo viên nắm bắt
được thực trạng học tập của học sinh và điều chỉnh việc dạy sao cho phù hợp hơn, đạt kết
quả cao hơn. Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết tự
đánh giá khả năng, sự hiểu biết của mình để điều chỉnh việc học; giáo viên phải tạo điều
kiện thuận lợi để người học được tham gia, và biết cách đánh giá bản thân. Thông qua việc
đánh giá khích lệ nhau, nhận ra được ưu điểm và hạn chế của từng cá nhân để khắc phục,
đánh giá việc học tập phải dựa trên tiêu chuẩn văn hóa đánh giá tức là tìm ra được ưu điểm
và đề nghị được giải pháp sửa chữa khuyết điểm… Có làm được điều này thì phương pháp
dạy học tích cực với đặc trưng thứ năm là đánh giá việc học - người học mới thực sự có ý
nghĩa!
Tuy nhiên khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực chúng ta cũng gặp một số
trở ngại như: Lớp học đông không áp dụng được phương pháp mới, người học lười phát
biểu, thụ động, sợ không đủ thời gian, cháy giáo án. Người học thì e dè, ngại làm việc, chỉ

thích nghe ghi, ngại đứng dậy phát biểu trước lớp, sợ thầy,cô áp dụng phương pháp mới,
kiến thức không được cô đọng lại rõ ràng mà thi lại tiến hành theo kiểu học cũ … Để khắc
phục những trở ngại này phải có thời gian để người dạy thực hành và rút kinh nghiệm …
Trước mắt có thể thực hiện những điều sau để có giờ giảng thành công như:
Tìm hiểu kỹ về người học, đặc biệt là nhu cầu, mong đợi của họ đối với môn học
của mình phụ trách để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Chuẩn bị kỹ bài giảng: Chọn thông điệp ý nghĩa nhất để chuyển tải nội dung. Tốt
nhất bài giảng nên tuân theo quy tắc số 3: Chia bài giảng thành 3 phần, mỗi phần 3 ý …
cùng với các ví dụ, tư liệu minh họa cụ thể, sinh động.
Giao tiếp với người học: Tôn trọng và là người bạn cùng với thái độ thân thiện, lịch
sự, nhẹ nhàng, sự khuyến khích sẽ cho người thầy rất nhiều cơ hội để mở rộng tâm hồn và
trí tuệ của người học …
Rút kinh nghiệm sau từng giờ giảng. Về nội dung bài giảng, phong cách, ứng xử của
giáo viên … Bằng cách xin nhận xét của học trò qua phiếu không ghi tên …Điều cuối
cùng, chúng ta cần nhớ là học phương pháp nhưng không phụ thuộc vào phương pháp. Tất
cả sự thành công của giờ học và nhiều giờ học tiếp nối sẽ được quyết định bởi bản lĩnh, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tấm ḷòng của người giáo viên có duyên với nghề dạy học.
2. Phương pháp dạy học tích cực kết hợp với phương tiện được vận dụng trong
chương trình Giáo dục công dân .
Hiện nay có rất nhiều biện pháp để thực hiện phương pháp dạy học tích cực, có thể sử
7


dụng vào tất cả các bài dạy trong chương trình giáo dục công dân ở cấp trung học như:
-

Biện pháp kích thích động não.

-


Biện pháp xử lý tạo tình huống.

-

Biện pháp thảo luận nhóm.

-

Biện pháp đóng vai.

-

Biện pháp vấn đáp (đàm thoại)

-

Biện pháp nêu vấn đề.

Không biện pháp nào được coi là tối ưu cho cả một bài học, tiết học. Do đó việc lựa
chọn, kết hợp và sử dụng biện pháp nào là phụ thuộc rất lớn vào vai trò Người thầy – Mục
đích là trao kiến thức, tránh nhàm chán và tạo nên sự yêu thích. “ Dạy học là phải chạm
được vào tâm hồn và trái tim người học”.
Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong
môn giáo dục công dân .
- Cơ sở triết học: Theo quan điểm triết học Mác Lênin, bản chất con người là tổng
hòa mối quan hệ xã hội. Trong các yếu tố hình thành nên bản chất con người, giáo dục có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực cần
tạo ra hoàn cảnh môi trường tự nhiên và môi trường xã hội có thể tác động đến con người,
giúp con người được giáo dục theo nhiều phương diện khác nhau, từ hoạt động nhận thức
thực tiễn đến quan hệ ứng xử, điều chỉnh hành vi … Tóm lại là các khả năng hướng đến sự

phát triển toàn diện của người công dân mới theo yêu cầu của xã hội.
Giáo dục công dân là môn học có đặc điểm tri thức mang tính khái quát hóa và trừu
tượng cao. Chương trình giáo dục công dân tập trung khá nhiều nội dung liên quan đến các
phân môn khác, chứa đựng kiến thức các môn khoa học khác nhau. Ở trường trung học phổ
thông môn giáo dục công dân trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng quát về nhận
thức tư tưởng chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật. Mục tiêu này hình thành nội dung cơ
bản của sách giáo khoa các cấp học; là môn học được xem là “khó, khô, khổ” đối với cả
người dạy lẫn người học, do đó việc giáo viên biết sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực để đưa những nội dung rất khái quát ấy vào thực tiễn đời sống giúp học sinh tiếp cận,
nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản của môn giáo dục công dân để dần dần hình thành
cho bản thân thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa học, giúp học sinh nâng
cao hiệu quả quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn của bản thân.
- Cơ sở tâm lý giáo dục học:
Đối với môn giáo dục công dân “mục tiêu dạy người” luôn được xác định là quan

8


trọng nhất, luôn ở vị trí hàng đầu trong việc định hướng, phát triển nhân cách, tâm hồn của
học sinh . Mỗi học sinh là một chủ thể của sự phát triển nhân cách, phát triển xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay vì nguyên nhân khác nhau, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ học sinh , học sinh đã đặt ra cho xã hội và ngành giáo dục (đặc biệt
là ở bộ môn giáo dục công dân) phải có những biện pháp, giải pháp để góp phần điều chỉnh
những suy nghĩ, nhận thức, hành vi lệch chuẩn đó.
Với những kết quả nghiên cứu tâm sinh lý và điều tra xã hội học gần đây cho thấy ở
lứa tuổi trung học, học sinh không thỏa mãn với vai trò người tiếp thu thụ động, chấp nhận
giải pháp có sẵn mà các em có ham muốn, một yêu cầu là được lĩnh hội độc lập các tri thức
và được phát triển kỹ năng cá nhân. Đó là một yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục nói chung
và môn giáo dục công dân nói riêng. Chỉ có thay đổi phương pháp dạy học tích cực mới có
thể phát huy những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu về đặc điểm tâm sinh lý của

học sinh bậc trung học, mang lại hiệu quả dạy học cao hơn, tạo sự yêu thích, thoải mái cho
cả người dạy lẫn người học.
Luật giáo dục, điều 28, khoản 2, 2005 chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh ; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh ”.
Do vậy, cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới tạo thói quen chủ động học tập,
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo. Người học sinh được rèn luyện, tu
dưỡng có thể tự tin, nhạy bén trước những thay đổi của cuộc sống, cuộc đời, giúp ích, giúp
sức cho bản thân học sinh là sự phát triển của xã hội.
Chương trình giáo dục công dân với tên gọi “Công dân với pháp luật”, đây là sự phát
triển tiếp nối phần pháp luật ở môn GDCD cấp trung học cơ sở, cung cấp những hiểu biết
cơ bản về bản chất, vai trò, vị trí của pháp luật nhằm giúp học sinh chủ động,tự giác điều
chỉnh hành vi của mình, đánh giá được hành vi của người khác theo quyền và nghĩa vụ của
người công dân trong xã hội dân chủ và công bằng.
Nhiệm vụ môn GDCD là nhận biết được thế giới quan,nhân sinh quan,vấn đề dạo
đức,kinh tế -xã hội –chính trị ,vai trò và giá trị cơ bản của pháp luật đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi công dân xã hội và nhà nước. Hiểu được một số nội dung của pháp luật
liên quan đến việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng - tự do - dân chủ và phát triển của
công dân trong đời sống.
Nội dung học phần lớn đã gắn kết thực sự với thực tế đời sống xã hội. Mục đích của
9


dạy học là nhằm tạo ra sự nhất quán giữa nhận thức và hành động, lời nói và hành vi.
Do vậy, việc người giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực chính là những
thực hành bước đầu để gắn lý thuyết về những chuẩn mực người công dân cần đạt tới với
đời sống sinh động được kiểm chứng và khẳng định. Có thế nội dung bài học không còn
là những tri thức xa xôi, khô khan mà là những kiến thức, tình huống, bài học từ cuộc

sống sinh động gắn bó mà các em có thể nhìn thấy trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra trong quá trình dạy học bản thân tôi đã cung cấp cho các em những
phương pháp học tập tích cực từ những phương pháp tích cực học tập từ nước ngoài, chẳng
hạn như:áp dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình học:
Sơ đồ tư duy ra đời dựa trên tốc độ tư duy của não bộ và quá trình tâm lý của trí nhớ
nên rõ ràng nó là phương pháp tối ưu nhất giúp cho học sinh học tập tốt hơn, tích cực hơn
đối với môn GDCD . Sơ đồ tư duy là phương tiện tốt nhất để nắm bắt, phân tích và phổ
biến thông tin khi đó học sinh sẽ không còn vấp phải những khó khăn trong việc học hành,
tư duy, sáng tạo và sử dụng trí nhớ. Vì vậy sẽ nắm được những kiến thức căn bản của môn
học GDCD từ đó trong mỗi học sinh sẽ tự tin hơn, hứng thú hơn ; năng lực tập trung, tư
duy, trí nhớ sẽ đạt đến trình độ cao nhất gặt hái đươc những thành công trong học tập
chuẩn bị thật tốt cho kì thi TNTHPTQG 2019.
Vận dụng Sơ đồ tư duy nâng cao chất lượng môn học, giải quyết triệt để những khó
khăn vướng mắc mà học sinh gặp phải khi học tập và nghiên cứu môn GDCD thì trước hết ta
cần hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến những thực trạng tiêu cực của học sinh nhiều năm qua như:
Ghi chép thụ động
Môn GDCD 12 là một môn học với hệ thống kiến thức môn GDCD có 4 chủ đề
chính: Pháp luật cơ bản, quyền bình đẳng, quyền tự do dân chủ, pháp luật với sự phát triển
của đất nước. Môn GDCD lớp 11 với hệ thống kiến thức là Các vấn đề kinh tế-chính trị-xã
hội.Khối lượng kiến thức cho 1 tiết học là vô cùng lớn đòi hỏi học sinh phải hoạt động một
cách tích cực, phải có kế hoạch chuẩn bị bài một cách cẩn thận trước khi đến lớp mới có
thể tiếp nhận tất cả các thông tin mà giáo viên truyền đạt. Nhưng sau khi điều tra thực tế tôi
nhận thấy rằng có đến hơn 70% học sinh nhận định rằng nếu có đọc bài trước vào lớp cũng
sẽ rất khó để có thể hiểu một cách tường tận, nắm bắt thông tin một cách chính xác những
gì mà giáo viên nói, điều bất cập ở đây chính là học sinh còn giữ cách học tập của những
năm học THCS, việc chuẩn bị bài của học sinh chỉ là việc “làm cho có”, thậm chí chưa
được xem trọng, học sinh thường có tâm lý ngại đọc sách, tìm hiểu thông tin trước khi lên
lớp, học sinh đọc nhưng không neo giữ lại thông tin một cách chủ động mà chỉ giới hạn ở
việc tóm tắt sách giáo khoa, bài giảng, những ý tưởng không phải là của mình, chính học
10



sinh đã tự đẩy bản thân mình rơi vào thế bị động. Trong quá trình giảng dạy học sinh lớp
12 , tôi đưa ra yêu cầu trong vòng 30 phút các em học sinh phải chuẩn bị một bài trước khi
lên lớp, với những câu hỏi được đưa ra sau khi đọc và tóm tắt sách giáo khoa, học sinh
tham gia được dùng nhiều loại giấy, bút màu để đưa ra những kiến thức mà mình chuẩn bị
được, yêu cầu là bản ghi chú có thể giúp học sinh tìm ra nhanh những thông tin cần thiết đã
đọc để có thể trả lới nhanh những câu hỏi mà tôi đã sắp đặt, những câu hỏi mà tôi đặt ra chỉ
là những định nghĩa có sẵn trong sách giáo khoa nhưng khi trả lời học sinh thường mất rất
nhiều thời gian cho việc tìm kiếm những thông tin mà mình đã đọc qua, điều đó gây mất
hứng thú và giảm động cơ học tập cho học sinh, đa số đều rất lúng túng khi tôi đưa ra
những câu hỏi mang tính chất lý thuyết. Ở đây chúng ta thấy rằng học sinh thật sự chưa có
kỹ năng ghi chú một cách hiệu quả những gì mình đã chuẩn bị, lối ghi chú thụ động này
làm hạn chế khả năng học hỏi và tiếp nhận thông tin của học sinh rất nhiều.
Việc ghi chú không chỉ dừng lại ở việc ghi chép, tóm tắt những gì mình đã đọc mà khi
lên lớp học sinh cũng không quan tâm đến việc mình phải ghi chép bài như thế nào để có
thể dễ dàng tìm lại, xem lại, đó thật sự làm hạn chế kiến thức mà mỗi học sinh cần đạt khi
lên lớp, có hơn 90% học sinh cố gắng ghi chép tất cả những gì khi giáo viên soạn giảng và
ghi bảng, ngay cả khâu tiếp nhận thông tin học sinh cũng không chủ động thì việc xử lý
thông tin là một điều rất khó khăn, học sinh cố gắng ghi chép nhưng đa số đều không đọc
lại mà nếu có đọc lại thì cũng không nhớ hết được những gì mà giáo viên đã giảng, tựu
chung lại cách ghi chép hay ghi chú của học sinh thật sự có vấn đề, qua tiếp xúc và điều tra
bằng bảng hỏi tôi nhận thấy rằng ngay từ lối ghi chú học sinh đã không tổ chức được các ý
tưởng của riêng bản thân học sinh, không có gì sáng tạo ngoài bài giảng trên slide chiếu và
bài giảng của giáo viên; tổng hợp lại có 3 lối ghi chú được 95% học sinh áp dụng đó chính
là:
Lối dùng câu hoặc tường thuật, đơn giản là ghi chú nội dung cần lĩnh hội ở dạng
tường thuật, ghi chép tất cả những gì thấy được, nghe được từ giáo viên, có những ý có sẵn
trong sách giáo khoa vẫn ghi chép lại làm mất rất nhiều thời gian.
Lối liệt kê, là ghi lại các ý tưởng theo tuần tự xuất hiện của bài giảng hay sách giáo

khoa có sẵn
Lối dàn ý đánh thứ tự bằng số hay alphabet, là ghi chú theo kiểu xâu chuỗi, phân cấp
nhóm chính và nhóm con.
Các lối ghi chú này thật sự không tận dụng hết các công cụ của lớp vỏ não- khả năng
tư duy thật sự của con người, vì nó bỏ qua các thành phần thiết yếu trong hoạt động tư duy
toàn diện nhằm đưa kiến thức của bộ môn GDCD thấm nhuần vào tư duy của học sinh giúp
11


học sinh có thể lĩnh hội được kiến thức để đánh những câu trắc nghiệm thật tốt , những
thành phần thiết yếu ấy như: nhịp điệu thị giác, màu sắc, hình ảnh, hình dung, kích thước,
đặc biệt là liên kết… ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tư duy môn học cho học sinh vì thế
tất nhiên cũng không ngoại lệ những học sinh tham gia cộng tác đều cảm thấy rất khó khăn
tất cả đều cảm thấy “ngán ngẩm”, “cực hình”, “đau đầu”, “phí thời gian”, “gò bó”,
“chán”… Với những tư tưởng như thế này thì thật khó có thể học tốt môn học GDCD.
Chúng ta thấy rằng việc học chỉ bằng lối ghi chép một cách thụ động để xử lý thông
tin là ta đã đang và chỉ sử dụng một phần của não bộ. Nguyên nhân là các khả năng chuyên
dụng của bán cầu não không thể tương tác với nhau để tạo ra những vòng xoáy hoạt động
của tư duy, chỉ có ghi chép mà không tư duy tức là chúng ta đang đẩy tình trạng não đến
nguy cơ khước từ và bỏ quên vì những bất lợi mà lối ghi chép thụ động mang lại như:
Lãng phí thời gian
Một điều đáng lo ngại của học sinh khi học môn GDCD là ghi chép dẫn đến lãng phí thời
gian rất nhiều; khi ghi chú như vậy buộc học sinh phải đọc đi đọc lại những ghi chú không
thật sự cần thiết; có khi không trả lời được vào chủ đề mà các câu hỏi trắc nghiệm đã đưa
ra.
Không kích thích sự sáng tạo trong môn học
Bản chất của lối trình bày tuần tự trong bản ghi chép hay ghi chú thông thường làm cản trở
não tìm các mối liên kết, chống lại hoạt động sáng tạo và ký ức. Hơn nữa đối diện với các
bản ghi chú theo lối liệt kê, đa số học sinh đều không thể tư duy những câu trắc nghiệm
mang tính bao quát.

Như vậy ngay từ lối ghi chép của học sinh khi học môn GDCD đã khá thụ động trước việc
tiếp thu môn học, càng ghi chép nhiều nhưng càng không hiệu quả và dẫn đến tình trạng là
càng ngày học sinh càng mất tự tin vào năng lực bản thân, đánh mất sự ham học hỏi hiển
nhiên vốn có của học sinh, nỗ lực nhưng không có kết quả khiến học sinh dễ rơi vào tình
trạng buồn chán, thất vọng. Bằng chứng là các em học sinh rất lười học bài thậm chí là
không thèm học bài và không hoàn thành hết tất cả các câu hỏi trắc nghiệm mà giáo viên đưa
ra.
Nhưng khi ghi chép hay ghi chú bằng sơ đồ tư duy ghi chú sẽ trở nên chủ động và thuận lợi
hơn cho người học. Nó có thể khắc phục bất lợi trong kiểu ghi chú thông dụng hiện nay,
chúng ta sẽ thấy những ưu điểm của sơ đồ tư duy như tiết kiệm thời gian hơn vì chỉ ghi chú
các từ liên quan, chỉ đọc các từ liên quan, thời gian ôn bài khi ghi chép bằng sơ đồ tư duy tiết
kiệm đến 90% lối ghi chú thụ động thông thường; nhanh chóng đáp ứng nhu cầu tương tác
trong dạy học cho giáo viên nhờ nhanh chóng tìm ra các từ khoá trong một rừng chữ dông
12


dài. Hơn nữa lối ghi chép bằng sơ đồ tư duy là một lối ghi chép chủ động là vì cải thiện sức
sáng tạo và trí nhớ, nhờ khả năng tập trung tức thời những từ khoá thiết yếu,nhờ những mối
liên kết mạch lạc, tối ưu giữa các từ khoá. Không giống như với các bản ghi chú tuần tự đơn
điệu, tẻ nhạt, não dễ dàng tiếp thu và ghi nhớ với những sơ đồ tư duy kích thích thị giác, đa
sắc và đa chiều hơn. Trong quá trình thực hiện sơ đồ tư duy, chúng ta luôn bắt gặp các cơ hội
khám phá tìm hiểu, tạo điều kiện cho dòng chảy tư duy liên tục bất tận.
Sơ đồ tư duy là một kỹ thuật họa hình đóng vai trò là chiếc chìa khóa vạn năng để
khai phá tiềm năng của bộ não. Vì vậy việc áp dụng sơ đồ tư duy để cải thiện tình hình học
tập, tăng khả năng tư duy môn GDCD là một vấn đề tất yếu nhằm nâng cao chất lượng học
tập, tăng cường tinh thần tự học cho các em học sinh, chuẩn bị những hành trang thật tốt
cho các em bước vào kỳ thi thật nghiêm túc và hiệu quả.
Lập sơ đồ tư duy (hoặc sơ đồ ý tưởng) là việc bắt đầu từ một ý tưởng trung tâm và
viết ra những ý khác liên quan tỏa ra từ trung tâm. Bằng cách tập trung vào những ý tưởng
chủ chốt được viết bằng từ ngữ của học sinh, sau đó tìm ra những ý tưởng liên quan và kết

nối giữa những ý tưởng lại với nhau hình thành nên một sơ đồ tư duy. Tương tự, nếu học
sinh lập một sơ đồ kiến thức cho từng chương của môn GDCD , nó sẽ giúp học sinh hiểu
và nhớ những thông tin mới và nắm kiến thức sâu hơn.
Ý tưởng của sơ đồ tư duy là suy nghĩ sáng tạo và liên kết bằng một cách thức phi
tuyến tính. Có rất nhiều thời gian để chỉnh sửa thông tin sau này nhưng ở bước đầu tiên,
việc đưa mọi khả năng vào sơ đồ là rất quan trọng. Đôi khi một trong những khả năng
tưởng như là không thể ấy lại trở thành ý tưởng chủ chốt đưa học sinh đến kiến thức đó, cụ
thể:
Vài học sinh phát hiện rằng sử dụng những kí tự viết hoa sẽ thu hút các em hơn chỉ
chú ý vào những điểm chính. Chữ viết hoa cũng dễ đọc hơn trong một sơ đồ. Tuy nhiên,
học sinh có thể viết vài ghi chú, giải thích bằng chữ viết thường. Một số học sinh làm thế
để khi cần xem lại bản đồ tư duy một thời gian sau, trong lúc số khác lại dùng để ghi lại
những đánh giá, phê bình.
Hầu hết học sinh sau khi tôi đưa ra những sơ đồ tư duy mẫu của từng chương đều
thấy tiện dụng khi lật ngang trang giấy và vẽ sơ đồ tư duy của họ theo chiều ngang. Đặt ý
tưởng hoặc chủ đề chính vào chính giữa trang giấy, ta sẽ có có không gian tối đa cho những
ý khác tỏa ra từ trung tâm; sau khi đã tạo dựng ảnh trung tâm và các nhánh chính sơ đồ tư
duy cho phép học sinh đưa ra bất kỳ ý tưởng nào có trong đầu và những ý mà giáo viên
nêu, các dòng ý tưởng đều tuôn trào một cách tự nhiên và điều tất nhiên học sinh sẽ dễ
dàng nắm bắt; ví dụ như khi nói đến Pháp luật sẽ có các từ khóa như “quy tắc xử sự
13


chung”- “Nhà nước ban hành”-“đảm bảo”- “Quyền lực Nhà nước” nhờ những liên kết
có trong sơ đồ tư duy mà học sinh có thể dễ dàng nhớ được “Định nghĩa Pháp luật”.
Ví dụ: Nhìn vào Sơ đồ tư duy bên dưới các em có thể dễ dàng đánh chính xác được
một số câu hỏi trắc nghiệm như:

14



15


Câu 1. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và được đảm bảo
thực hiện bằng:
A. Ý chí của Nhà nước .

B.Sức mạnh vũ lực của Nhà nước.

C.Sức mạnh quyền lực của Nhà nước.

D.Quy định của Nhà nước.

Câu 2. Sức mạnh đặc trưng của pháp luật là
A. Tính thuyết phục.

B. Hình phạt.

C.Quyền lực.

D.Tính công bằng.

Câu 3. Mỗi quy tắc xử sự được thể hiện thành
A.một quy phạm pháp luật.

B. một số quy định pháp luật.

C.nhiều quy định pháp luật.


D.nhiều quy phạm pháp luật.

Câu 4. Đặc trưng nào của pháp luật đòi hỏi ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp
luật phải chính xác ,phổ thông và cách diễn đạt phải rõ ràng,dễ hiểu?
A. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức.
B. Tính quyền lực, bắt buộc chung.
C. Tính quy phạm phổ biến.
D. Tính nhân văn ,cao cả.
Câu 5. Đặc trưng nào sau đây phân biệt sự khác nhau giữa đạo đức và pháp luật?
A. Tính quy phạm phổ biến.
B. Tính quyền lực, bắt buộc chung.
C. Tính xác định chặt chẽ về hình thức.
D. Tính thực tiễn xã hội.
Câu 6. Pháp luật vừa mang bản chất của giai cấp vừa mang bản chất của
A. xã hội.

B. kinh tế.

C.văn hóa.

D.chính trị.

Câu 7. Pháp luật nước ta mang bản chất của giai cấp nào?
A. công nhân.

B.nông dân.

C.tầng lớp trí thức.

D.cầm quyền.


Câu 8. Pháp luật mang bản chất xã hội vì pháp luật bắt nguồn từ
A. xã hội.

B.chính trị.

C.kinh tế.

D.đạo đức.

Câu 9. Các quy phạm pháp luật bắt nguồn từ thực tiễn
A.đời sống xã hội
C.phát triển kinh tế .

B.đời sống của nhân dân
D.phát triển của xã hội.

Câu 10:Pháp luật do Nhà nước ta xây dựng và ban hành thể hiện ý chí,nhu cầu và lợi ích
của:
A.Đa số nhân dân. B.Tất cả mọi người. C.Đảng Cộng sản. D.Giai cấp công nhân.

16


*Mối quan hệ của pháp luật với đạo đức
Câu 11. Trong hàng loạt các quy phạm pháp luật luôn thể hiện các quan niệm về
A. kinh tế.

B.dân sự.


C.đạo đức.

D.chính trị.

Câu 12. Phương tiện đặc thù để thể hiện và bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội là
A. kinh tế.

B.chính trị.

C.pháp luật.

D.văn hóa.

Câu 13. Điều 185 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông
bà ,cha mẹ ,vợ chồng ,con ,cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình” là biểu hiện mối
quan hệ giữa pháp luật và
A.kinh tế.

B.chính trị.

C.đạo đức

D.văn hóa.

*Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
Câu 14. Công cụ quản lí xã hội hiệu quả nhất của Nhà nước là
A. thể chế chính trị.

B.phong tục tập quán.


C.chuẩn mực xã hội.

D.Hiến pháp và pháp luật.

Câu 15. Đối với nhà nước, pháp luật có vai trò
A. là phương tiện để quản lý xã hội.
B. là công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền.
C. là biện pháp duy nhất để quản lý xã hội.
D. là cách để thể hiện quyền lực của giai cấp cầm quyền.
Câu 16. Đối với xã hội, pháp luật có vai trò
A. giúp xã hội ổn định, trật tự và phát triển.
B. giúp cho xã hội không còn tội phạm.
C. giúp cho xã hội không có tệ nạn xã hội.
D. giúp cho xã hội tiến bộ.
Câu 17. Đề cập vai trò của pháp luật, không có pháp luật xã hội sẽ không có
A. dân chủ và hạnh phúc.

B.hòa bình và dân chủ.

C.trật tự và ổn định.

D.sức mạnh và quyền lực.

Câu 18. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn được pháp luật quy định và
A. ghi nhận.

B.bảo vệ.

C.thừa nhận.


D.tôn trọng.

Như vậy trong Sơ đồ tư duy chỉ vỏn vẹn trong 1 mặt giấy A4 học sinh có thể dễ dàng nhớ
và đánh được một loạt câu trắc nghiệm như trên. Điều đó một lần nữa khẳng định chúng ta
có thể bổ dọc theo các chuyên đề cho các em và bổ ngang với nội dung của từng đề mục.
Học sinh sẽ rất tích cực trong việc tiếp cận kiến thức cũng như khả năng, kỹ năng với các
17


câu hỏi trắc nghiệm.
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ nhất để chuyển tải
thông tin vào bộ não của học sinh rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một phương tiện
ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó là “Sắp xếp” ý nghĩ của học
sinh .
Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, sơ đồ tư duy sẽ
giúp học sinh :
• Sáng tạo hơn
• Tiết kiệm thời gian
• Ghi nhớ tốt hơn
• Nhìn thấy bức tranh tổng thể
• Tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh
Và hơn thế nữa sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh nhanh chóng tiếp cận bài giảng của giáo viên
bắt gặp được những ý đã có trong sách giáo khoa, nhanh chóng tìm ra những gì giáo viên
truyền đạt nhờ những từ khóa hoặc hình ảnh một cách nhanh chóng. Vì thế học sinh sẽ xây
dựng bài học một cách tích cực, nhanh chóng trả lời được những câu hỏi mà giáo viên đặt
ra ngay trong quá trình diễn giải, học sinh sẽ không bỏ sót bất cứ một lưu ý nào của giáo
viên nhờ đã bỏ trống trên sơ đồ tư duy những ý mà học sinh chưa thật sự nắm bắt.. Rõ ràng
Sơ đồ tư duy của học sinh là tài sản riêng của học sinh : một khi học sinh hiểu cách tạo ra
những ghi chú trong sơ đồ tư duy, học sinh có thể phát huy các quy tắc của riêng mình để
làm cho nó tốt hơn. Và sơ đồ tư duy tốt hơn đồng nghĩa với việc các kiến thức của môn

GDCD sẽ nắm chắc hơn. Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa
hay cả bài giảng đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được khái
niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên cũng giúp các em nhớ
được phần trọng tâm của bài giảng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của
từng học sinh không chỉ về trí tuệ, vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức
chọn lọc những phần nào trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ
viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay tỷ lệ nhất định mà
là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy màu sắc và thực sự hiệu quả.
Học tập theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học
sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, học sinh sẽ trở nên hào
hứng và hăng say hơn trong học tập. Vì lẽ đó, việc tạo lập sơ đồ tư duy rõ ràng, rành mạch
khi áp dụng vào môn học GDCD cần được quan tâm hơn. Đây là những thành phần cấu tạo
18


nên một sơ đồ tư duy, mặc dù chúng có thể được chỉnh sửa tự do theo ý muốn cá nhân:
Sơ đồ tư duy đơn giản chỉ có 2 nhánh chính toả ra từ trung tâm, thì sơ đồ tư duy phức tạp
hoặc đa chủng loại có thể có bao nhiêu nhánh chính cũng được. Trong thực tế, số nhánh
chính hoặc ý chủ đạo trong sơ đồ tư duy đa chủng loại trung bình từ ba đến bảy nhánh. Sở
dĩ như vậy là vì, bộ não bình thường không giữ được hơn 7 thông tin chính trong trí nhớ
ngắn hạn của nó. Do đó học sinh khi học môn GDCD nên chọn tối thiểu số ý chủ đạo thật
sự có liên quan đến bài học và dùng chúng để liên kết bó thông tin cho dễ xử lý, giống như
tiêu đề một chương của một cuốn sách do chính bản thân học sinh soạn ra.
Cuối cùng giáo viên phải giúp học sinh củng cố sơ đồ tư duy:
Sau khi tạo lập được một sơ đồ tư duy một cách khoa học nhất mỗi học sinh cần có thời
gian ôn luyện và củng cố vì kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy trí nhớ sau khi ôn tập
biến thiên theo một đường cong xác định đối với thời gian.
Bảng đo phần trăm thông tin nhớ lại sau khi học, chúng ta thấy rằng nếu có củng cố thì
hầu như đường biên không thay đổi nhưng nếu không có quá trình củng cố thì hầu như

thông tin được lưu giữ lại giảm rất rõ rệt.
Vì vậy, khi học sinh bước vào quá trình củng cố bài học, học sinh cần phải nhớ bài học
một cách chủ động để có thể uyển chuyển phân tích những câu hỏi trắc nghiệm của giáo
viên, nếu ghi nhớ thụ động thì sẽ rất dễ quên lại không thể trả lời cho các câu hỏi ứng dụng.
Để ghi nhớ chủ động chuẩn bị cho kỳ thi TNTHPTQG 2109 học sinh phải lên một kế
hoạch ôn tập vào thời điểm nhất định. Bằng cách này học sinh có thể hoàn thiện sơ đồ tư
duy, sửa chữa và bổ sung những sai sót, hay củng cố các liên kết đặc biệt quan trọng. Vì
trên thực tế là khi điều tra học sinh các em đều cho rằng ôn bài sớm trước kỳ thi chỉ là vô
ích vì họ sẽ quên trước khi thi và họ phải học lại từ đầu như vậy nếu giáo viên cho làm bài
kiểm tra họ thường phải bỏ một khoảng thời gian rất lớn để học lại những gì đã học, vì học
sinh không thể nào nhớ được kiến thức cách đây 5 tháng, học sinh trường tôi cho rằng chỉ
nên ôn bài khoảng 4-5 ngày trước ngày thi môn GDCD. Chính vì thế học sinh không thể
nào ôn được hết bài hoặc chỉ ôn được một lần trước khi thi. Kết quả là học sinh không thể
nào đạt được điểm cao vì không hiểu rõ bài và phạm những lỗi bất cẩn đáng tiếc do quá
căng thẳng; việc ôn bài vào phút cuối “nước đến chân mới nhảy” không chỉ ở học sinh
trường tôi mà hầu như nó cũng đươc lặp lại tương tự đối với học sinh các trường khác.
Việc ôn bài đó cần một khoảng thời gian học dài liên tục không được nghỉ ngơi, do đó khả
năng ghi nhớ cũng như hiệu quả học tập cũng giảm sút, mệt mỏi, không còn hứng thú với
môn học. Sơ đồ tư duy sẽ giúp cho học sinh củng cố bài học một cách ngắn gọn nhất, ít tốn
19


thời gian nhất, logic nhất và đươc sắp xếp theo một hệ thống bài học rất khoa học từ giáo
viên không còn tình trạng loạn kiến thức trong kỳ thi. Nếu học sinh có một kế hoạch ôn bài
hợp lý cùng với sơ đồ tư duy, sẽ rất tiết kiệm thời gian so với cách ôn bài môn GDCD cách
thông thường. Không những thế khi ôn bài nhiều lần học sinh sẽ hiểu bài hơn ghi nhớ
thông tin nhiều hơn và tăng kỹ năng áp dụng kiến thức trong các câu hỏi trắc nghiệm.
Thông thường học sinh có thể hiểu khái niệm và cách giải quyết một vấn đề, nhưng trong
kỳ thi học sinh lại đâm ra lúng túng và phạm lỗi.
Tốt nhất là sau mỗi giờ học, học sinh có thể ôn lại sơ đồ tư duy theo trình tự .

Sau khi ghi chú và ghi chép theo sơ đồ tư duy trong suốt quá trình học môn GDCD
học sinh đã ôn lại chúng ở những thời điểm được đề nghị, học sinh đã thật sự chuẩn bị chu
đáo cho kì thi, tất cả những gì học sinh cần là chuyển kiến thức của bản thân trên sơ đồ tư
duy đáp ứng yêu cầu mà đề thi đưa ra. Hiện nay ở trường tôi giáo viên đã áp dụng tối đa
các hình thức thi trắc nghiệm để có thể kiểm tra toàn diện kiến thức và kỹ năng của học
sinh vì kỹ năng đánh trắc nghiệm là khâu quan trọng, chủ yếu để xác định năng lực nhận
thức của học sinh, từ đó có cơ sở để điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi
mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng học sinh trong nhà
trường. Như vậy đối với bản thân học sinh sơ đồ tư duy gợi hứng thú cho người học một
cách tự nhiên, nhờ đó giúp học sinh tiếp thu nhiều hơn và tích cực hơn trong lớp. Sơ đồ tư
duy làm cho bài học ngẫu hứng, sáng tạo và lý thú hơn đối với giáo viên lẫn học sinh. Nhờ
sơ đồ tư duy ghi chép của học sinh trở nên linh hoạt hơn ,trong thời đại mà mọi thứ đều
thay đổi và phát triển nhanh chóng học sinh cần có khả năng đổi mới trong phương pháp
học tập đồng thời bổ sung ghi chú bài giảng một cách dễ dàng, nhanh chóng. Bản thân sơ
đồ tư duy biểu thị nội dung thích hợp dưới hình thức rõ ràng và dễ nhớ nên học sinh có
khuynh hướng đánh các câu trắc nghiệm một cách nhanh chóng và đạt điểm tuyệt đối trong
kỳ thi THPTQG 2019. Ngoài ra ứng dụng sơ đồ tư duy vào học tập và nghiên cứu môn
GDCD đã mang lại cho việc học rất nhiều điều hay: vui nhộn, độc đáo, sáng tạo, dễ nhớ,
kết cấu hợp lý làm giảm bớt những giờ học buồn chán theo kiểu nhồi nhét và ôn tập của thế
hệ học sinh hôm nay từ đó việc đổi mới hình thức thi tốt nghiệp không còn là áp lực với
các em và thành tích các em đạt được cũng tăng lên đáng kể. Trường tôi đã và đang áp
dụng hình thức học và ghi chép bằng Sơ đồ tư duy và được các em ủng hộ rất nhiệt tình,
dưới đây là một số Sơ đồ tư duy của học sinh đã và đang áp dụng:

20


21



22


Song song với việc hướng dẫn cho các em sử dụng Sơ đồ tư duy bản thân tôi còn áp dụng
một số phương pháp dạy học tích cực như sau:
* Phương pháp động não: là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian
ngắn nảy sinh được những ý tưởng hay giả định về một vấn đề nào đó.
Trong môn giáo dục công dân, phương pháp này được dùng để giới thiệu chủ đề
của bài học trên cơ sở so sánh và lựa chọn kết quả trả lời của học sinh hoặc dùng để thu
thập vác phương án giải quyết vấn đề có liên quan đến nội dung bài học đã được nêu ra
trước đó.
Phương pháp động não, hướng đến mục đích phát triển người học những phẩm
chất hoạt động độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Mặt khác kết quả của hoạt động
động não là những ý tưởng, giải pháp mới mẻ của người học.
Phương pháp động não có thể được tiến hành theo trình tự sau:
-

Giáo viên nêu chủ đề hoặc câu hỏi trước lớp hoặc nhóm

-

Đề nghị người học đặt câu hỏi.

-

Thu thập câu hỏi, câu trả lời.

-

Khuyến khích học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.


-

Liệt kê tất cả các ý kiến lên bảng hoặc giấy khổ lớn, không bỏ sót ý kiến nào,

trừ trường hợp trùng lặp.
-

Phân loại các ý kiến, làm rõ những ý kiến chưa rõ ràng.

-

Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.

+ Ưu điểm của phương pháp động não là:
Giáo viên dễ dàng soạn câu hỏi, dễ thực hiện không tốn kém, đồng thời huy động
được tối đa trí tuệ của tập thể trong quá trình tìm kiếm thông tin của câu trả lời. Tạo được
không khí sôi nổi, vui vẻ nhờ thái độ tham gia phản hồi một cách tích cực của người học,
sự di chuyển của giáo viên trong lúc hỗ trợ các nhóm, cá nhân làm việc.
+ Nhươc điểm của phương pháp động não là:
Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông, học sinh thụ động, ít quan tâm, các
ý kiến trả lời có thể nhiều trùng lặp, tản mạn hoặc lạc đề. Hiệu quả của phương pháp động
não chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp ý tưởng chứ chưa bồi dưỡng được năng lực tư duy
phân tích, chứng minh hay tổng hợp của học sinh .
23


+ Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp động não là:
-Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và quản lý được thời gian theo phân phối nội dung:
-Câu hỏi phải ngắn, gọn rõ ràng, không quá rộng hay quá hẹp không nhằm mục đích cung cấp

kiến thức cơ bản mà hướng đế mở mang và đào sâu kiến thức.
-Giáo viên phải chủ động điều khiển buổi học, là người tổng kết câu hỏi và câu trả lời, ghi
tóm tắt kiến thức chuẩn lên bảng hoặc giấy khổ lớn để học sinh theo dõi tiến trình bài học.
---Tiếp tục chuyển ý vào nội dung tiếp theo của bài học.
*

Phương pháp thảo luận nhóm:

Đây là phương pháp hữu hiệu nhất để khuyến khích sự sáng tạo và tích cực tham
gia của mọi thành viên. Học sinh sẽ chủ động chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải
quyết vấn đề được đặt ra, qua đó đạt mục đích dạy học. Học sinh sẽ hưởng ứng, nhiệt tình,
hợp tác, thu được kết quả kích thích tư duy sáng tạo và tạo điều kiện để các em thể hiện
mình.
Phương pháp thảo luận nhóm có thể tiến hành theo trình tự sau:
-

Giáo viên nêu chủ đề, yêu cầu, quy định thời gian thực hiện

-

Chia nhóm từ 4 đến 10 người theo cách ngẫu nhiên hay thuận tiện theo điều

kiện lớp học. Gọi tên nhóm (để tạo bầu không khí nhóm tự đặt hay giáo viên chỉ định)
-

Cử trưởng nhóm, thư ký và thực hiện công việc của nhóm. Ghi chép (giấy

khổ lớn hay cử người trình bày trước tập thể)
-


Giáo viên tổng kết, bổ sung.

Ưu điểm của phương pháp làm việc nhóm:
Chủ đề được xác định rõ, định hướng nhiệm vụ của nhóm. Đưa ra được giải pháp,
lời kêu gọi hành động từ kết quả hoạt động của nhóm.
Mọi thành viên của nhóm đều phải hoạt động và nhận kết quả đánh giá chung của
giáo viên trên cơ sở kết quả đã đạt được và có sự so sánh với nhóm khác. Kiến thức trở nên
bền vững, bớt tính chủ quan, học sinh biết lắng nghe và phê phán để bảo vệ ý kiến của mình,
của nhóm.
Nhược điểm
Đòi hỏi tốn nhiều thời gian, người học phải rất tập trung và có tinh thần trách nhiệm
với tập thể cao. Thời gian 45 phút của một tiết học là một khó khăn lớn cho sự thành công
của phương pháp làm việc nhóm.
24


Nếu tổ chức kém (nhất là cộng thêm lớp học yếu, mất trật tự, học sinh quá hiếu động thì thảo
luận nhóm chưa được tập luyện dễ gây hỗn loạn (ngay trong một nhóm hay giữa các nhóm
nhau) dẫn đến học sinh không quan tâm, làm việc riêng hay phát sinh sự mâu thuẫn, đối địch và
giận dữ.
Sự hăng hái hay thụ động quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự quản lý, điều khiển
của giáo viên.
Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp làm việc nhóm là:
- Giáo viên phải kết nối được ý kiến của các nhóm.
- Là người phân tích, nhận xét (chứ không phê phán) ý kiến của các nhóm. Cần
thiết sẽ là người dung hòa các ý kiến của các nhóm trái ngược, xây dựng khối đoàn kết, chỉ ra
định hướng yêu cầu của từng nhóm để không sa đà)
- Là người kiểm soát thời gian, không để nội dung bị lặp lại (nhóm thuyết trình,
nhóm khác lắng nghe, bổ sung, trưng bày áp phích, mô hình) …
- Là người tổng kết thảo luận nhóm, nhận xét và rút kinh nghiệm về kết quả

thảo luận, đáp ứng yêu cầu của bài học, thời gian … và nếu hoạt động nhóm chưa mang lại
kết quả như mong muốn thì phải giúp học sinh sữa các lỗi đã mắc phải để lần thảo luận sau
làm tốt hơn.
- Giáo viên cần trang bị kỹ năng giao tiếp (sự thân thiện, thái độ tôn trọng lịch
sự, sẵn sàng hỗ trợ chia sẻ với tất cả các nhóm).
- Kỹ năng tổ chức, phân công và điều hành.
Bất kỳ phương pháp dạy học tích cực nào cũng có điểm mạnh và mặt hạn chế không thể
tránh khỏi, do đó, thường trong một giờ học sẽ có nhiều phương pháp được lựa chọn. Tuy
nhiên, dù lựa chọn phương pháp nào thì người giáo viên vẫn là người chủ đạo bám theo hoạt
động của các nhóm, lựa chọn các phương án tiết kiệm thời gian, nội dung không trùng lặp,
lôi cuốn được sự tham gia của mọi thành viên trong tập thể học sinh .
Dù phương pháp thảo luận nhóm đôi khi không mang lại kết quả như mong muốn thì người
giáo viên cũng phải giúp học trò học bài học từ sự không thành công của mình, đó mới là
điều quan trọng nhất. Đó mới thực sự là vai trò và giá trị của người Thầy.
*Phương pháp đóng vai:
Là phương pháp dạy học tích cực và “đặc biệt” vì đây là phương pháp gây sự chú ý và thu
hút người học tham gia vào bài giảng, tạo bầu không khí sôi nổi, sinh động, người dạy và
25


×