Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật việt nam từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 169 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU PHƯƠNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM
DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 9380107

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS BÙI ANH THỦY

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án “Giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử của Tòa án Nhân dân tại
thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu khoa học thực sự của cá nhân tôi
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Bùi Anh Thủy. Các số
liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận án này là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận án



PHẠM THỊ THU PHƯƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI................................................................................................ 9
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................... 9
1.2 Cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài ........................................................................... 18
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐƠN PHƯƠNG
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐƠN
PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN .... 25
2.1 Những vấn đề lý luận về pháp luật đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ...... 25
2.2 Những vấn đề lý luận vềpháp luật giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động Tòa án nhân dân.................................................................................................. 39
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ................................................................................................................... 67
3.1 Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại
Tòa án Nhân dân .............................................................................................................. 67
3.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao độngcủa Tòa án nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh ...................... 84
CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN ............................................................................................................................ 119
4.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động ....................................................................................................... 119
4.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đơn phương chấm

dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân ................................................................ 121
4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành giải quyết tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân ......................................... 126
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾTTẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự 2015

BLLĐ 2012

Bộ luật Lao động 2012

BLLĐ Liên bang Nga 2001

Bộ luật Lao động Liên bang Nga 2001

BLLĐ Trung Quốc 1994


Bộ luật Lao động Trung Quốc 1994

BLTTDS 2004

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011)

BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015

BTTH

Bồi thường thiệt hại
Dự thảo 7 Bộ luật Lao động sửa đổi (Dự thảo trình

Dự thảo 7 BLLĐ

Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 37Dự thảo ngày 9/2019)

GQTC

Giải quyết tranh chấp

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

HTND


Hội thẩm nhân dân

Luật HĐLĐ Trung Quốc 2007

Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc 2007

LĐLNGVGĐ

Lao động là người giúp việc gia đình
Nghị định số 27/204/NĐ – CP ngày 07/4/2014 của

Nghị định 27/2014/NĐ-CP

Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật
Lao động về lao động là người giúp việc gia đình.
Nghị định số 05/2015/NĐ – CP ngày 12/01/2015 của

Nghị định 05/2015/NĐ-CP

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số nội dung của Bộ luật Lao động.
Nghị định 24/2018/NÐ-CP quy định về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực lao động, giáo dục

Nghị định 24/2018/NÐ-CP

nghề nghiệp, người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, việc làm, an toàn, vệ sinh
lao động.



Viết tắt

Viết đầy đủ

NGVGĐ

Người giúp việc gia đình

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

QHLĐ

Quan hệ lao động

TAND

Tòa án nhân dân

TCLĐ

Tranh chấp lao động

TULĐTT


Thỏa ước lao động tập thể


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân phát triển kinh tế của vùng Ðông Nam
Bộ, là trung tâm dịch vụ của khu vực Ðông Nam Á với số lượng doanh nghiệp và
người lao động nhiều nhất Việt Nam. Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và
Thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh, dự kiến năm 2020, thành
phố Hồ Chí Minh có nhu cầu 320.000 chỗ làm việc, trong đó có 130.000 chỗ làm
việc mới [3]. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển trên thì các vụ án lao động tại thành
phố Hồ Chí Minh cũng vì vậy mà luôn lớn về số lượng và phức tạp về nội dung.
Theo Báo cáo Tổng kết công tác năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ hoạt
động năm 2019 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh (từ ngày
01/10/2017 đến ngày 30/11/2018) thì tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động luôn chiếm khoảng 70% trên tổng số các tranh chấp lao động [115]. Do
đó, việc giải quyết các tranh chấp này một cách nhanh chóng, phù hợp với quy định
của pháp luật giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các
bên tham gia quan hệ lao động, góp phần xây dựng thị trường lao động ổn định và
phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy Tòa án nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn gặp
không ít khó khăn và vướng mắc trong thực tiễn xét xử loại án này nên hiệu quả xét
xử vẫn chưa được như mong muốn. Một trong những nguyên nhân của thực trạng
trên là do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là loại tranh chấp phức tạp. Các
quy định của Bộ luật Lao động 2012 (có hiệu lực từ 01/5/2013) đã góp phần rất lớn
trong việc điều chỉnh quan hệ lao động nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập trong
khi tính phức tạp của tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động lại có xu
hướng gia tăng. Sự không thống nhất về phương án giải quyết tranh chấp giữa
những người tiến hành tố tụng trong quan điểm giải quyết, đánh giá chứng cứ đã

dẫn đến kết quả giải quyết tranh chấp khác nhau, bản án bị huỷ, sửa do vi phạm tố
tụng vẫn còn tồn tại [95].

1


Theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 tại Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về “Thực hiện có
hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” thì
hội nhập kinh tế quốc tế giữ vai trò trọng tâm. Đặc biệt là việc Việt Nam tham gia
ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),
chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/01/2019, đòi hỏi Việt Nam phải
nhanh chóng thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế bởi lao động là yếu tố quan
trọng của phát triển bền vững.
Làm thế nào để có sự áp dụng thống nhất pháp luật lao động điều chỉnh tranh
chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động? Giải quyết tranh chấp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế,
đến thị trường lao động và sự ổn định của xã hội? Pháp luật về lao động Việt Nam
hiện nay có đủ sức điều chỉnh các quan hệ lao động trong điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập? Dự thảo Bộ luật Lao động đã sửa đổi, bổ
sung một số quy định liên quan đến vấn đề này nhưng vẫn còn tồn tại các vướng
mắc chưa được tháo gỡ.
Từ những lý do trên cho thấy việc nghiên cứu, đánh giá những quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành và tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ của pháp
luật quốc tế và các nước trên thế giới để đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về vấn đề này là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Giải
quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại thành phố Hồ Chí Minh” làm đề
tài luận án tiến sĩ luật học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về
đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

2


nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện nền kinh tế thị
trường và xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay của Việt Nam để từ đó nâng cao hiệu
quả điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án này có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận về đơn phương và giải quyết tranh
chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như một số khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa và nội dung điều chỉnh pháp luật về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động cũng như yêu cầu hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về vấn đề này.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về đơn phương và giải
quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động để đánh giá tính hợp lý
của các quy định này.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam trong
giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động từ thực tiễn xét xử
của Tòa án Nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ tư, đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
hiện hành về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
Thứ nhất, quy định pháp luật lao động của Việt Nam về nội dung (căn cứ, thủ
tục và hậu quả pháp lý) của đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và thủ tục tố
tụng dân sự để giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
Tòa án nhân dân.
Thứ hai, thực tiễn giải quyết các tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động của Tòa án nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về nội dung, tác giả chỉ nghiên cứu pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động (căn cứ, thủ tục và hậu quả pháp lý của đơn phương chấm dứt hợp

3


đồng lao động) và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
tại Tòa án nhân dân. Việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp này được thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (từ thực tiễn xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh (cấp
huyện và cấp tỉnh) theo thủ tục tố tụng dân sự). Luận án không nghiên cứu về thủ
tục giám đốc thẩm và tái thẩm của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa
án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, bởi tính chất của thủ tục giám đốc
thẩm và tái thẩm là xem xét lại bản án của Tòa án nhằm đảm bảo sự giải quyết của
Tòa án đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi chính đáng của, hợp pháp của đương sự.
Bên cạnh đó, luận án chỉ xem xét đối với quy định về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động là cá nhân, pháp nhân Việt Nam
(không nghiên cứu trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân hoặc pháp nhân
nước ngoài giao kết hợp đồng lao động theo pháp luật nước ngoài nhưng làm việc
trên lãnh thổ Việt Nam).
Về không gian, luận án chỉ tập trung nghiên cứu đề tài này trong bối cảnh kinh
tế – xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, luận án cũng so sánh với pháp luật quốc tế và

pháp luật một số nước như Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Malaysia... để rút ra kinh
nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Về thời gian, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quy định về vấn đề này từ ngày
01/5/2013 (ngày Bộ luật Lao động 2012 có hiệu lực pháp luật) đến nay. Tuy nhiên,
do pháp luật có tính kế thừa và để có cái nhìn toàn diện hơn, luận án tất yếu đặt vấn
đề đang nghiên cứu trong mối tương quan với quy định pháp luật của Việt Nam
trước ngày Bộ luật Lao động 2012 có hiệu lực.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Phương pháp luận của luận án
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là Chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được vận dụng để làm kim chỉ nam cho
phương pháp luận nghiên cứu của đề tài.

4


4.2 Phương pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện luận án, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
gồm: phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa,
phương pháp diễn giải và phương pháp so sánh. Cụ thể:
Phương pháp phân tích được sử dụng tại Chương 2 và Chương 3 của luận án.
Cụ thể, tác giả sử dụng phương pháp này khi tìm hiểu về các khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa, nội dung của pháp luật đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động; thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh (cấp huyện và cấp tỉnh) theo thủ tục tố
tụng dân sự về loại tranh chấp này.
Phương pháp thống kê được sử dụng dụng tại Chương 3 nhằm khái quát một
cách về tình hình tranh chấp và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự... Trên cơ sở sự

thống kê này sẽ kết hợp với phương pháp phân tích để đưa ra những đánh giá thực
trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này.
Phương pháp tổng hợp là phương pháp liên kết, sắp xếp các tài liệu, thông tin
đã thu thập và đánh giá những tư liệu này để tạo ra một hệ thống lý thuyết đầy đủ,
sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt công
trình để tổng kết những nội dung thuộc về bản chất của việc giải quyết tranh chấp
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng
dân sự. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam mà công trình đề cập đến cũng
được xây dựng dựa trên cơ sở tổng hợp các kinh nghiệm thực tiễn áp dụng pháp luật
Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật các nước trên thế giới; và là sự tổng hợp
các giải pháp từ việc hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam đến việc đưa ra
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về giải quyết tranh chấp
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo thủ tục tố tụng dân sự.
Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng xuyên suốt luận án nhằm trình bày
các vấn đề, các nội dung trong luận án theo trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự
gắn kết, kế thừa và phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu
cầu đã được xác định của luận án.

5


Phương pháp o ánh được vận dụng trong việc tham khảo các lý thuyết về
hợp đồng lao động, về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về phương thức
giải quyết tranh chấp để rút ra những đặc điểm của loại hợp đồng này cũng như đặc
điểm của phương thức giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phương
pháp này để so sánh và đề ra các kiến nghị, giải pháp để Tòa án nhân dân giải quyết
tốt hơn, hiệu quả hơn các tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trong hiện tại và tương lai.
Phương pháp phân tích bản án là phương pháp nghiên cứu các bản án của Tòa
án đã giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo thủ tục tố

tụng dân sự được sử dụng tại chủ yếu tại Chương 3 của luận án. Cụ thể, tác giả tiến
hành phân tích về nội dung và các vấn đề liên quan đến tố tụng dân sự để giải quyết
tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Phương pháp o ánh luật học được tác giả sử dụng tại Chương 2, Chương 3
và Chương 4 của luận án để so sánh các quy định của Bộ luật Lao động 2012 với
Bộ luật Lao động 1994 (đã sửa đổi, bổ sung), Dự thảo 7 Bộ luật Lao động sửa đổi
(Dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 37- Dự thảo ngày
9/2019), đánh giá những ưu – nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành để
định hướng phát triển hành lang pháp lý về giải quyết tranh chấp đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động theo thủ tục tố tụng dân sự trong tương lai được vững chắc
hơn. Bên cạnh đó, tác giả cũng đặt các quy định của pháp luật Việt Nam trong mối
liên hệ với pháp luật quốc tế và pháp luật các nước trên thế giới để kết quả nghiên
cứu toàn diện và phù hợp hơn. Dựa trên nền tảng so sánh với pháp luật quốc tế và
pháp luật các nước nêu trên, công trình sẽ rút ra kinh nghiệm và đưa ra những đề
xuất phù hợp hơn với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý luận và các
vấn đề pháp lý về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, cụ thể là:
Thứ nhất, luận án tiếp tục hoàn thiện và phát triển cơ sở lý luận của pháp luật
về giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân

6


dân. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu về giải
quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ở nước ngoài và trong
nước, luận án tiếp tục làm rõ các khái niệm, đặc điểm của đơn phương và giải quyết
tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động để trên cơ sở này nghiên cứu,
khát quát những đặc thù cũng như nội dung pháp luật giải quyết tranh chấp đơn

phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân.
Thứ hai, luận án đánh giá một cách toàn diện và hệ thống về thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam hiện hành về đơn phương và giải
quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân để
từ đó chỉ ra những vấn đề còn vướng mắc và bất cập của pháp luật Việt Nam hiện
hành. Các công trình nghiên cứu trước cũng có những đánh giá nhưng do hướng
đến mục đích nghiên cứu khác nên các công trình này chỉ đánh giá một khía cạnh
nhất định của vấn đề trên.
Thứ ba, luận án đưa ra phương hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể để hoàn
thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân từ kinh nghiệm xét xử của
tòa án nhân dân hai cấp tại thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận
về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
theo pháp luật Việt Nam để các nhà hoạch định chính sách, pháp luật cũng như các
cơ quan nhà nước hữu quan có thể tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu này còn là nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học luật
chuyên ngành ở Việt Nam cũng như vận dụng vào việc giải quyết tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân.
Về phương diện thực tiễn, luận án góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả thực
hiện hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của các bên trong quan hệ
lao động cũng như hiệu quả giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng

7


lao động và quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Người lao động và

người sử dụng lao động cũng có thể tham khảo để nhận biết và có cách thức bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
7. Kết cấu của của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án
gồm 4 Chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2. Những vấn đề lý luận về pháp luật đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Tòa
án nhân dân
Chương 3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Tòa án nhân dân tại thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 4. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động tại Tòa án nhân dân

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp (“GQTC”) đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động (“HĐLĐ”) không phải là một đề tài mới và từ lâu đã thu hút sự
nghiên cứu của nhiều tác giả với quy mô và mức độ khác nhau. Trong đó, có thể kể
đến các công trình nổi bật sau:
Về khái niệm đơn phương chấm dứt HĐLĐ, Bộ luật Lao động 2012 (“BLLĐ
2012”) đã quy định các căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ của người lao động
(“NLĐ”) và người sử dụng lao động (NSDLĐ), và xác định đơn phương không

đúng các căn cứ này là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật, nhưng không định
nghĩa cụ thể về đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Khái niệm đơn phương chấm dứt
HĐLĐ trên thực tế vẫn còn chưa thống nhất. Trong các giáo trình Luật Lao động
dành cho việc giảng dạy bậc đại học của một số cơ sở đào tạo luật, như “Giáo trình
Luật Lao động Việt Nam” của Trường đại học Luật Hà Nội (2009); “Giáo trình
Luật Lao động” của Trường đại học Lao động - Xã hội (2009); “Giáo trình Luật
Lao động” của Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013)... đã đưa ra khái
niệm chung nhất về đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Theo đó, đơn phương chấm dứt
HĐLĐ là hành vi pháp lý trong đó một bên chủ thể tham gia quan hệ lao động
(“QHLĐ”) tự mình chấm dứt HĐLĐ mà không cần sự đồng ý của chủ thể còn lại.
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm đơn phương chấm dứt
HĐLĐ, nhưng các tác giả đều thống nhất ở hai đặc điểm sau:
Thứ nhất, đơn phương chấm dứt HĐLĐ là ý chí của một bên trong QHLĐ tự
mình chủ động không tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, đơn phương chấm dứt HĐLĐ dù đúng hay trái pháp luật cũng đều
làm chấm dứt trước thời hạn HĐLĐ.

9


Về căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, hầu hết các tác giả thống nhất với
các căn cứ đơn phương được quy định trong BLLĐ 2012, nhưng cũng có ý kiến
cho rằng NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn khi đơn phương
chấm dứt HĐLĐ cũng phải có căn cứ như HĐLĐ có thời hạn. Đây là quan điểm
của các tác giả Nguyễn Thanh Hiệp (2007), Quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của NLĐ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường đại học Luật TP. HCM;
Lê Thị Kim Nga (2009), GQTC về đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại tòa án thực
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Luật TP. HCM; Nguyễn Thị
Hoa Tâm (2013), Pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật, Trường đại học Luật TP. HCM; Nguyễn

Thị Bích (2017), Một ố đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định về HĐLĐ trong
BLLĐ 2012, TAND, số 9, trang 27-30; Bùi Thị Huyền (2018), Hoàn thiện pháp
luật về giao kết HĐLĐ ở Việt Nam, Dân chủ & Pháp luật, số 8 (317), trang 43-47.
Các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ từ
nhiều góc độ khác nhau, đồng thời chưa đánh giá toàn diện các căn cứ này từ thực
tiễn xét xử tại TAND để đưa ra các kiến nghị phù hợp hơn nhằm tiếp tục hoàn
thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về căn cứ đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Tuy
nhiên, các công trình này là nguồn tài liệu quý giá để tác giả tham khảo, đúc rút
trong quá trình thực hiện luận án.
Về trình tự, thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ, hầu hết các tác giả nhất trí
với trình tự, thủ tục quy định của BLLĐ 2012, nhưng vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng
quy định của BLLĐ 2012 về vấn đề này chưa thực sự phù hợp:
Quan điểm 1: NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn khi đơn phương chấm
dứt HĐLĐ thì phải có lý do, nhưng làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn
thì lại không cần có lý do, vì vậy cần quy định chung là cả hai trường hợp này đều
phải có lý do mới phù hợp thực tế khách quan, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
giữa các chủ thể tham gia QHLĐ và tương thích với luật lao động quốc tế.
Quan điểm 2: Tác giả Vũ Thị Thu Hiền (2010) trong bài viết Quyền đơn
phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ - từ quy định của pháp luật đến thực tiễn áp
dụng, Nghề luật, số 02/2010 cho rằng cần quy định nghỉ hưu là căn cứ chấm dứt

10


HĐLĐ [53, tr. 23].
Quan điểm 3: Một số vấn đề cần quy định rõ trong thủ tục đơn phương chấm
dứt HĐLĐ là: thời gian báo trước khi một bên đơn phương chấm dứt HĐLĐ là ngày
dương lịch hay ngày làm việc? Hoặc một nội dung khác cần làm rõ như: thế nào là
quấy rối tình dục? Quy định NSDLĐ phải nhận lại NLĐ trong mọi trường hợp đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái luật là không khả thi,... là những bất cập liên quan đến

quy định về thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Đây cũng là ý kiến của các tác
giả Nguyễn Hữu Chí, Bùi Thị Kim Ngân (2003), Pháp luật HĐLĐ Việt Nam - Thực
trạng và phát triển, NXB Lao động -Xã hội; Nguyễn Thị Hoa Tâm - Trần Hoàng
Hải (2012), Một ố ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định về chấm dứt HĐLĐ, Khoa
học pháp lý, Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số 02/2012, trang 43-48;
Nguyễn Quốc Nam (2015), Một ố bất cập trong pháp luật hiện hành về chấm dứt
HĐLĐ, Kinh tế và Dự báo, số 6/2015, trang 7-9.
Về hậu quả pháp lý của đơn phương chấm dứt HĐLĐ, hầu hết các tác giả
đều cho rằng các quy định của pháp luật lao động về quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NSDLĐ còn bất cập, nhiều quy định thiếu tính hợp lý nên NSDLĐ rất
khó vận dụng trong thực tiễn và phải gánh chịu hậu quả pháp lý nặng hơn so với
NLĐ nếu đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật; quy định luật lao động trong
trường hợp này chưa tương thích với luật lao động quốc tế và còn có sự bất bình
đẳng trong QHLĐ; rất nhiều trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với
NLĐ đưa ra những lý do chấm dứt HĐLĐ không đúng quy định tại Điều 38 BLLĐ
2012 và vẫn tồn tại việc không tuân thủ thời gian báo trước theo luật định... là
những nhận xét, ý kiến của tác giả Nguyễn Quốc Nam (2015), Một ố bất cập trong
pháp luật hiện hành về chấm dứt HĐLĐ, Kinh tế và Dự báo, số 6/2015, trang 7-9;
Nguyễn Thị Phương Thúy (2016), HĐLĐ giúp việc gia đình - từ quy định đến thực
tiễn, Lao động và Xã hội, số 530, trang 21- 25; Lê Thị Hoài Thu (2015), Những yếu
tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật về HĐLĐ trong các doanh nghiệp, Nghiên
cứu Lập pháp, số 8 (288), trang 51- 58; Lữ Bình Huy (2017), Ký kết HĐLĐ với lao
động giúp việc gia đình, Dân chủ & pháp luật, số 5 (302), trang 44- 49; Trần
Bình (2016), “Giao kết HĐLĐ trong doanh nghiệp: Thẩm quyền thuộc về ai?”,

11


Doanh nhân & Pháp luật, số 29 (198), trang 20-21…
Có ý kiến cho rằng, vì NLĐ đóng vai trò ở thế yếu hơn NSDLĐ nên pháp luật

lao động Việt Nam thường quan tâm bảo vệ nhiều hơn cho NLĐ. Do đó, các quy
định bồi thường của NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật nhẹ hơn
nhiều so với NSDLĐ; quy định của pháp luật lao động Việt Nam khi đơn phương
chấm dứt HĐLĐ ở khía cạnh lý luận và thực trạng áp dụng, so với luật lao động ở
một số nước cho thấy ở Việt Nam quy định về vấn đề này chưa có sự tương đồng và
nhận định pháp luật đơn phương chấm dứt lao động nước ta cần quy định cụ thể
hơn, chặt chẽ hơn đối với việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ, để tạo thế
cân bằng, bình đẳng giữa hai chủ thể tham gia QHLĐ [54 tr. 34].
Về thủ tục GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ, trong số các công trình
nghiên cứu về đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định của BLLĐ 1994, có một
công trình đã nghiên cứu về GQTC lao động bằng phương thức khởi kiện tại
TAND, đó là Luận văn “GQTC về đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại tòa án, thực
trạng và giải pháp”của tác giả Lê Thị Kim Nga (2009), Trường đại học Luật TP.
HCM. Luận văn này đã phân loại các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ, nêu
ra khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, thủ tục, số liệu GQTC đơn phương chấm dứt
HĐLĐ tại TAND và phân tích thực trạng đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại các
doanh nghiệp. Công trình này đã nghiên cứu cơ bản về các quy định, thủ tục GQTC
lao động tại TAND theo pháp luật hiện hành. Phần thực trạng GQTC đơn phương
chấm dứt HĐLĐ tại TAND đã nêu được số liệu GQTC và mang đến một góc nhìn
mới về công tác GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ của TAND, các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật lao động mà công trình nêu ra vẫn có thể tham khảo khi sửa
đổi, bổ sung BLLĐ 2012 [67, tr. 34].
Luận án tiến sĩ “Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam”,
của Lưu Bình Nhưỡng (Trường đại học Luật Hà Nội, 2002), đã đi sâu và phân tích
khái niệm, bản chất và vai trò của “tài phán lao động” và xem đây như là phương
thức giải quyết tranh chấp lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp, của nhà nước và xã hội [66, tr. 22]. Luận án nghiên cứu chủ yếu về
hai phương thức là giải quyết tranh chấp lao động bằng Tòa án và trọng tài. Đây là

12



tài liệu quý khi nghiên cứu về các vấn đề lý luận liên quan đến giải quyết tranh chấp
đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Luận án tiến sĩ luật “Thẩm quyền xét xử của Tòa án Nhân dân đối với các vụ
việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân ự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Văn Tiến (Trường đại học Luật TP. HCM, 2009), trong đó phần nội dung
Chương 1 “Cơ sở lý luận của việc quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
đối với các vụ việc kinh doanh thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”
có giá trị tham khảo quan trọng đối với tác giả khi thực hiện luận án này, về khía
cạnh giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục Tố tụng dân sự.
Luận án tiến sĩ “Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
tại Tòa án ở Việt Nam” của tác giả Phạm Công Bảy (Học viện Khoa học xã hội,
2011), đã làm rõ bản chất, đặc điểm và những đặc thù của TCLĐ cá nhân và thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật thủ tục giải quyết TCLĐ cá nhân tại
tòa án và đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Trong công
trình này, tác giả cũng đã chỉ rõ những vấn đề còn tồn tại, bất hợp lý trong cơ chế
tài phán về lao động và những hạn chế về năng lực áp dụng pháp luật của đội ngũ
những người làm công tác xét xử và đặt nó trong mối quan hệ với các yếu tố khách
quan là cơ chế áp dụng pháp luật. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu toàn diện
và khách quan về thủ tục giải quyết TCLĐ cá nhân tại tòa án ở Việt Nam. Do công
trình này được hoàn thành vào năm 2011 (trước khi BLLĐ 2012 có hiệu lực) nên
một số vấn đề đã có sự thay đổi. Tuy nhiên, những kiến thức và quan điểm được
nêu trong công trình trên là nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi thực
hiện luận án này.
Luận án tiến sĩ “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp lao động theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” của Đào Xuân Hội (Học viện Khoa học xã hội, 2017), đã làm
rõ những vấn đề lý luận về hòa giải trong TCLĐ (nguyên tắc, chủ thể, quy trình, nội
dung hòa giải…), đánh giá thực trạng pháp luật và đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hòa giải trong TCLĐ ở Việt Nam hiện nay. Những quan điểm,

đánh giá được tác giả đưa ra trong công trình này đã giúp tác giả có được cái nhìn
toàn diện về pháp luật giải quyết TCLĐ của Việt Nam hiện nay.

13


Nghiên cứu về vấn đề này còn có nhiều công trình khác. Tác giả Lê Thị Hải
Yến (2014), Pháp luật về GQTC lao động cá nhân nhìn từ thực tiễn tỉnh Long An,
Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình bày những ưu
điểm và hạn chế khi GQTC lao động tại tòa án, có so sánh pháp luật Việt Nam với
pháp luật Malaysia, Singapore về GQTC lao động, đề xuất bổ sung tổ chức đại diện
cho NSDLĐ. Tác giả Huỳnh Hữu Tốt (2013), TCLĐ và GQTC lao động ở Bình
Dương, thực trạng và kiến nghị, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội; Phạm Thị Thu Phương (2015), GQTC lao động từ thực tiễn xét xử của
TAND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Khoa học
xã hội… thì cho rằng để hoàn thiện pháp luật lao động cần thiết có cơ chế ba bên
trong QHLĐ... Thế nhưng, các tác giả đều không phân tích, đi sâu nghiên cứu về
vấn đề đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong thực tiễn. Tuy vậy, từ số liệu nêu ra
trong công trình đã cho thấy số lượng vụ án đơn phương chấm dứt HĐLĐ ở địa bàn
Long An, Bình Dương và TP.HCM ngày càng gia tăng.
Về giải pháp hoàn thiện pháp luật GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ,
một số công trình nghiên cứu về đơn phương chấm dứt HĐLĐ cho rằng pháp luật
lao động Việt Nam có nhiều bất cập và từ đó đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp
luật xoay quanh các nội dung: hoàn thiện định hướng chung về pháp luật lao động,
hoàn thiện các quy định cụ thể về tố tụng lao động và hoàn thiện về các quy định cụ
thể trong BLLĐ. Theo tác giả Nguyễn Hữu Chí (2002), Một ố vấn đề về HĐLĐ
theo quy định của BLLĐ và Luật ửa đổi, Bổ ung một ố điều của BLLĐ, Tạp chí
TAND, số 8/2002, trang 16-22, cần quy định về quyền điều chuyển công việc đối
với NLĐ, quyền thỏa thuận và đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ.
Quan điểm không nên buộc NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc trong mọi

trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật được nhiều tác giả đồng
thuận, như tác giả Nguyễn Hữu Chí, Bùi Thị Kim Ngân (2013), Thực hiện, chấm
dứt HĐLĐ theo BLLĐ 2012 từ quy định đến nhận thức và thực hiện, Tạp chí Luật
học, số 8/2013, trang 3-11… Theo ý kiến của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiếu (2015),
Hoàn trả chi phí đào tạo trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo
khoản 3 Điều 37 BLLĐ 2012, Tạp chí TAND, số18/2015, trang 41-43; Đỗ Ngân

14


Bình (2017), Hoàn thiện chế định HĐLĐ - Từ thực tiễn hoạt động của doanh
nghiệp, Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, Số 6, trang 3-10; Nguyễn Quốc
Nam (2015), Một ố bất cập trong pháp luật hiện hành về chấm dứt HĐLĐ, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 6, trang 7 - 9... trường hợp NLĐ cam kết với NSDLĐ về thời
gian làm việc sau khi đào tạo, dù HĐLĐ không thỏa thuận thì khi vi phạm thời hạn
làm việc không đủ như cam kết vẫn phải bồi thường chi phí đào tạo cho NSDLĐ.
Mỗi tác giả có những lập luận khác nhau để luận giải cho việc cần thiết phải hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Thế nhưng, điều
kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế đã có sự thay đổi và
tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với QHLĐ. Do đó, các giải pháp được
đưa ra cần xem xét cụ thể để phù hợp với thực tế. Tuy vậy, đây đều là nguồn tài liệu
tham khảo quan trọng của tác giả khi thực hiện luận án này.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở một số quốc gia khác, vấn đề GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng
được nghiên cứu ở các khía cạnh và cấp độ khác nhau trong những công trình
nghiên cứu tổng hợp. Trong đó, có thể kể đến các công trình sau đây:
Năm 2003, tác giả A.C.L. Davies đã xuất bản sách “Perspectives on Labour
law”. Công trình này nghiên cứu về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ được quy
định trong Hiến chương châu Âu.
Năm 2004, tác giả Catherine Barnard, Simon Deakin and Gillians Morris,

Oxford and Portland Oregon xuất bản sách The Future of Labour law”. Công trình
đã đưa ra khái niệm về chấm dứt HĐLĐ, luật chung về đơn phương chấm dứt
HĐLĐ cũng như một số quan điểm thay đổi về chấm dứt HĐLĐ ở nước Anh.
Đặc biệt, năm 2006, tác giả John D. R. Craig và S. Michael Lynk đã xuất bản
sách “Globalization and the future of labour law”. Trong công trình này, các tác giả
đã phân tích sâu sắc các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi lao động nữ
mang thai hoặc khi NLĐ lao động lập gia đình.
Năm 2006, tác giả Chang - Hee Lee (chuyên gia của ILO) đã thực hiện công
trình nghiên cứu “Quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp lao động tại Việt
Nam”. Theo nghiên cứu này thì đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hiện tượng khó

15


tránh khỏi khi nền kinh tế ngày một phát triển hơn và tùy thuộc vào đặc điểm kinh
tế, văn hóa, chính trị, xã hội và pháp luật của quốc gia khác nhau thì sự chuyển đổi
của QHLĐ tại quốc gia đó sẽ có các đặc điểm khác nhau.
Bên cạnh đó, năm 2007, tác giả Eladio Daya (chuyên gia của ILO) cũng đã
thực hiện nghiên cứu về “Thủ tục hòa giải và trọng tài các TCLĐ”. Theo đó, hòa
giải và trọng tài là nhân tố quan trọng cần quan tâm sâu sắc để hoàn thiện cơ chế ba
bên trong QHLĐ, các quy định về giải quyết TCLĐ được đề cập hạn chế trong công
trình này. Các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết nếu các TCLĐ đã hòa giải
hoặc trọng tài nhưng không có kết quả. Các công trình phần nào giúp giải quyết một
câu hỏi quan trọng được đặt ra trong giai đoạn hiện nay là làm sao để xây dựng một
cơ chế hiệu quả để giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Tháng 12/2009, ILO và Chính phủ Đan Mạch đã phối hợp để xuất bản sách
“Cân đối hài hòa giữa an ninh và linh hoạt ở các nước mới nổi”. Theo công trình
này, đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi thực hiện các quyền được pháp luật
quy định và các nước phát triển đều quy định phải thông báo trước cho NLĐ…
Có thể nói, ở các mức độ khác nhau thì các công trình trên đã cung cấp kinh

nghiệm nước ngoài quý báu về đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
1.1.3 Đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu cả trong nước và nước ngoài liên quan đến
đề tài của luận án, tác giả rút ra một số nhận xét, đánh giá chung như sau:
Thứ nhất, đối với nghiên cứu về vấn đề lý luận, ưu điểm của các công trình
nghiên cứu trên là đã làm rõ được một số vấn đề cơ bản liên quan đến lý luận về
khái niệm và đặc điểm của pháp luật đơn phương và GQTC đơn phương chấm dứt
HĐLĐ. Tuy nhiên, các công trình trên vẫn còn bỏ ngỏ phần lý luận về nội dung
pháp luật điều chỉnh về vấn đề này. Bên cạnh đó, khi đề cập đến vấn đề lý luận, việc
tham chiếu pháp luật nước ngoài để thấy được quan điểm lập pháp của các quốc gia
trên thế giới về vấn đề trên còn hạn chế. Do đó, tác giả sẽ nghiên cứu và tiếp thu các
quan điểm này một cách có chọn lọc để phân tích một cách có hệ thống về lý luận
(khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nội dung pháp luật) về đơn phương và GQTC đơn
phương chấm dứt HĐLĐ.

16


Thứ hai, một số nghiên cứu về thực trạng pháp luật đơn phương chấm dứt
HĐLĐ (căn cứ, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý), thực trạng pháp luật GQTC đơn
phương chấm dứt HĐLĐ (thẩm quyền, thời hiệu, trình tự, thủ tục) cũng đã được đề
cập trong các công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau và tập trung chủ yếu
vào việc phân tích các quy định của BLLĐ 2012và BLTTDS 2004(đã sửa đổi, bổ
sung 2011) và chủ yếu tập trung vào pháp luật nội dung. Ưu điểm của các công
trình nghiên cứu về nội dung này là đã phân tích được thực trạng pháp luật trên cơ
sở các vụ việc xảy ra trong thực tiễn. Tuy nhiên, việc so sánh với quy định của pháp
luật nước ngoài để thấy được hiệu quả của việc xây dựng pháp luật Việt Nam về
vấn đề này chưa được các tác giả trên quan tâm. Việc phân tích để làm rõ sự tác
động giữa việc GQTC về đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với sự phát triển của
kinh tế, sự ổn định của xã hội trong xu hướng hội nhập nền kinh tế quốc tế của Việt

Nam trong các công trình trên còn mang tính hạn chế. Mặt khác, các công trình trên
nghiên cứu về vấn đề này trong các bài viết, quan điểm, khóa luận tốt nghiệp… nên
vấn đề về đơn phương và giải quyết tranh chấp đơn phương chấm dứt HĐLĐ chưa
thật sự được nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn diện.
Thứ ba, các nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật đơn phương chấm dứt
HĐLĐ (áp dụng căn cứ, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý) được quan tâm rất nhiều
nhưng phần thực tiễn áp dụng pháp luật GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại
TAND (thẩm quyền, thời hiệu, trình tự, thủ tục) còn rất hạn chế. Các công trình
nghiên cứu được thực hiện đã lâu nên vềthực tế đã mất tính cập nhật khi thực tiễn
Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới.
Thứ tư, về hoàn thiện pháp luật đơn phương và GQTC đơn phương chấm dứt
HĐLĐ, một số công trình đã đưa ra các kiến nghị cụ thể trên cơ sở phân tích thực
trạng pháp luật cũng như thực tế áp dụng. Thế nhưng, các hầu hết các tác giả theo
hướng đưa ra các kiến nghị mang tính sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật
mà chưa nghiên cứu một cách có hệ thống, xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp
lý này cũng như từ khả năng thực thi và hiệu quả áp dụng các quy định trong trong
để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặt khác, việc so sánh giữa các quy định của

17


pháp luật về đơn phương và GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ của Việt Nam với
các nước trên thế giới để đưa ra kiến nghị của các công trình trên còn hạn chế.
1.1.4 Những vấn đề được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Với thực tại nêu trên, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu về các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận về GQTC đơn phương chấm
dứt HĐLĐ như một số khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nội dung điều chỉnh pháp
luật về đơn phương và GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Thứ hai, luận án lấy thực tiễn GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại TP.

HCM để đánh giá hiệu quả điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành khi
GQTC lao động và xác định việc có cần thiết phải ban hành luật riêng để điều chỉnh
về loại tranh chấp này không?
Thứ ba, luận án tổng kết các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử để từ đó
đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả giải quyết những vụ án này trong
thực tiễn hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam.
1.2 Cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết sau đây:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Nhà
nước, về mối quan hệ giữa quyền lực Nhà nước với việc bảo vệ quyền tự do dân
chủ của công dân (quyền của các bên), giữa pháp luật và kinh tế, giữa cái chung và
cái riêng, giữa ý thức xã hội và các tồn tại xã hội, về quyền tự do kinh doanh...
Thứ hai, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật đồng bộ, khách quan, dân
chủ, nghiêm minh để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của NSDLĐ và bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng của NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng như
GQTC chấp đơn phương chấm dứt HĐLĐ nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ ba, lý thuyết về quyền bình đẳng trước pháp luật.
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Thế nên,
theo lý thuyết này, trong QHLĐ, NLĐ và NSDLĐ có quyền bình đẳng trước pháp

18


luật. Họ không bị pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực
hiện các nghĩa vụ. Thế nên, khi pháp luật về đơn phương và GQTC đơn phương
chấm dứt HĐLĐ phải được xây dựng trên cở sở vận dụng lý thuyết về quyền bình
đẳng trước pháp luật của NLĐ và NSDLĐ [62, tr. 12].

Thứ tư, lý thuyết về quyền tiếp cận công lý của công dân và vai trò của tòa án
trong GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Quyền tiếp cận công lý là quyền của người dân được hưởng thụ (hoặc sử
dụng) những thiết chế trong hệ thống pháp luật để qua đó tìm kiếm sự công bằng
của các bên trong việc giải quyết các tranh chấp. Nội dung này được ghi nhận tại
Điều 10 Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người: “Mọi người đều bình đẳng về
quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan,
để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ ự buộc tội nào đối
với họ”. Đối với tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ, để thực hiện quyền
tiếp cận công lý này của công dân thì Tòa án phải thực hiện được vai trò của cơ
quan giải quyết tranh chấp để đem lại công lý cho các bên trong QHLĐ [2, tr. 27].
Thứ năm, lý thuyết về sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên trong
QHLĐ, từ khi giao kết HĐLĐ đến khi chấm dứt HĐLĐ và GQTC.
QHLĐ được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa
thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa NLĐ và NSDLĐ. Pháp luật tôn trọng
quyền tự định đoạt của họ từ khi họ giao kết HĐLĐ, thực hiện HĐLĐ, chấm dứt
HĐLĐ và cả khi GQTC một bên đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Lý thuyết này được
thể hiện cụ thể trong quy định tại khoản 1 và khoản 5 BLLĐS 2012. Theo đó, khi
GQTC lao động cần đảm bảo các nguyên tắc: (i) Tôn trọng, bảo đảm để các bên tự
thương lượng, quyết định trong GQTC lao động, và (ii) Việc GQTC lao động trước
hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai
bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Tuy
nhiên, sự tự định đoạt này của các bên không thể thực hiện “tùy tiện” mà phải trong
khuôn khổ do pháp luật quy định để đảm bảo tính hợp pháp và hợp hiến, tạo tiền để
cho quyền của các bên trong QHLĐ được đảm bảo.
Thứ áu, lý thuyết về giới hạn quyền tự do của các bên trong QHLĐ.

19



Tự do ý chí là nền tảng hình thành của hợp đồng. Không có tự do ý chí không
thể hình thành quan hệ hợp đồng và ngược lại [124]. HĐLĐ cũng được xác lập trên
cơ sở tự do ý chí này của cả NLĐ và NSDLĐ. Tuy đây là quyền cơ bản của con
người nhưng không phải là quyền tuyệt đối. Giới hạn quyền tự do của các bên trong
QHLĐ có ý nghĩa tích cực trong việc: (i) Cân bằng lợi ích giữa cá nhân và lợi ích
chung của toàn xã hội; (ii) Bảo vệ NLĐ (người yếu thế) trong QHLĐ; và, (iii) Đảm
bảo trật tự và có định hướng trong sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó,
pháp luật về đơn phương và GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ tất yếu phải được
nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở lý thuyết này để từ đó có thể xây dựng và phát
triển thị trường lao động một cách bền vững.
Trên cở của lý thuyết này, luận án đã xác định các câu hỏi nghiên cứu, giả
thuyết nghiên cứu, kết quả nghiên cứu và hướng tiếp cận của đề tài.
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và kết quả nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Đặc trưng của tranh chấp đơn phương chấm
dứt HĐLĐ và các yêu cầu đối với việc GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói
chung và GQTC tại TAND nói riêng?
Giả thuyết nghiên cứu: Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là quyền của chủ thể
trong QHLĐ. Hành vi này xuất phát từ ý chí của một bên chủ thể và có thể làm
HĐLĐ chấm dứt hiệu lực pháp lý trước thời hạn hoặc trước khi công việc theo
HĐLĐ được hoàn thành. Hành vi này dẫn đến những hệ quả pháp lý đa dạng. Do
đó, đây là sự kiện pháp lý “dễ” phát sinh tranh chấp. Chính vì vậy, các yêu cầu đối
với việc GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói chung và GQTC tại TAND nói
riêng là phải giải quyết thỏa đáng về mặt quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Do
đó, việc GQTC đơn phương chấm dứt HĐLĐphải dựa trên nguyên tắc chung của
giải quyết TCLĐ và đảm bảo sự tham gia của tổ chức đại diện của các bên trong
tranh chấp đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Kết quả nghiên cứu (dự định): Đưa ra nền tảng lý luận (bao gồm khái niệm,
đặc điểm, bản chất) của đơn phương chấm dứt HĐLĐ và GQTC đơn phương chấm
dứt HĐLĐ để từ đó định hướng nghiên cứu pháp luật về vấn đề này.


20


×