Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.67 KB, 126 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TRUNG HIU

CáC BIệN PHáP Xử Lý Nợ XấU CủA NGÂN HàNG
THƯƠNG MạI
TạI AMC THEO PHáP LUậT VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TRUNG HIU

CáC BIệN PHáP Xử Lý Nợ XấU CủA NGÂN HàNG
THƯƠNG MạI
TạI AMC THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 8380101.05

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Lấ TH THU THY


HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Trung Hiếu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT VỀ
CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TẠI AMC..............................................................................................9
1.1.


Khái niệm, đặc điểm nợ xấu của ngân hàng thương mại..........................9

1.1.1. Khái niệm nợ xấu của ngân hàng thương mại................................................9
1.1.2. Đặc điểm nợ xấu của ngân hàng thương mại...............................................11
1.2.

Sự cần thiết xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại bởi AMC............13

1.3.

Khái niệm, đặc điểm các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại tại AMC..................................................................................16

1.4.

Khái niệm, nội dung pháp luật về các biện pháp xử lý nợ xấu của
ngân hàng thương mại tại AMC...............................................................23

1.4.1. Khái niệm pháp luật về các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại tại AMC....................................................................................23
1.4.2. Nội dung pháp luật về các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại tại AMC....................................................................................23
Kết luận chương 1..................................................................................................25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI AMC Ở VIỆT NAM......................................26
2.1.

Các quy định của pháp luật về nợ xấu và các biện pháp xử lý nợ
xấu của ngân hàng thương mại tại AMC ở Việt Nam.............................26


2.1.1. Khái quát lịch sử phát triển pháp luật về nợ xấu và các biện pháp xử lý
nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam............................................26


2.1.2. Vị trí pháp lý, quyền và nghĩa vụ của AMC khi áp dụng các biện pháp
xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại......................................................30
2.1.3. Nguyên tắc xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC.....................33
2.1.4. Trình tự, thủ tục xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC.............35
2.1.5. Các biện pháp xử lý nợ xấu..........................................................................35
2.2.

Thực tiễn thực thi pháp luật về các biện pháp xử lý nợ xấu của
ngân hàng thương mại tại AMC ở Việt Nam...........................................47

2.2.1. Thực tiễn thực thi pháp luật về chủ thể AMC ở Việt Nam...........................47
2.2.2. Nguyên tắc xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC.....................49
2.2.3. Trình tự, thủ tục xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC.............50
2.2.4. Các biện pháp xử lý nợ xấu..........................................................................54
2.2.5. Đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại tại AMC ở Việt Nam..............................................................................65
Kết luận chương 2..................................................................................................83
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC
BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TẠI AMC Ở VIỆT NAM..................................................................84
3.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại

AMC ở Việt Nam........................................................................................84

3.1.1. Phù hợp với chủ trương, đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước
về phát triển và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng..........................................84
3.1.2. Phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng..............88
3.1.3. Khắc phục những bất cập của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp
luật về các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại
AMC ở Việt Nam........................................................................................89
3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nợ xấu và các biện pháp xử lý
nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC ở Việt Nam........................91

3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân loại nợ xấu, dự phòng rủi
ro tín dụng....................................................................................................91


3.2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chủ thể AMC...................................92
3.2.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục xử lý nợ xấu của
ngân hàng thương mại tại AMC...................................................................93
3.2.4. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý nợ xấu của
ngân hàng thương mại tại AMC...................................................................93
3.3.

Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp xử
lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC ở Việt Nam..................101

3.3.1. Các giải pháp về nhân sự...........................................................................101
3.3.2. Các giải pháp về quy trình.........................................................................101
3.3.3. Các giải pháp về công nghệ.......................................................................102

3.3.4. Các giải pháp tổ chức thực hiện quy định pháp luật trong thực tiễn...........104
3.3.5. Các giải pháp khác.....................................................................................106
Kết luận chương 3................................................................................................108
KẾT LUẬN..........................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................110


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐS:

Bất động sản

BLDS:

Bộ luật dân sự

BPXLNX:

Biện pháp xử lý nợ xấu

CBXLN:

Cán bộ xử lý nợ

CQTHA:

Cơ quan thi hành án

GDBĐ:


Giao dịch bảo đảm

HĐBĐ:

Hợp đồng bảo đảm

MBN:

Mua bán nợ

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại

QSDĐ:

Quyền sử dụng đất

TAND:

Tòa án nhân dân

TCTD:

Tổ chức tín dụng


THA:

Thi hành án

TSBĐ:

Tài sản bảo đảm

TSTC:

Tài sản thế chấp

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XLN:

Xử lý nợ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ xấu đang là điểm nghẽn làm tắc các dòng chảy của hệ thống tín dụng,
nếu không được xử lý kịp thời và đúng cách thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng
đến toàn bộ hệ thống an ninh tài chính - tiền tệ quốc gia và nền kinh tế. Có rất nhiều
giải pháp với ưu, nhược điểm khác nhau cho bài toán này. Trong khi các mô hình
XLN xấu tập trung như DATC (Công ty TNHH MTV MBN Việt Nam) và VAMC
(Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam) chưa phát huy được hiệu quả
XLN và gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn (như: mâu thuẫn giữa các

mục tiêu hoạt động, hạn chế về quyền áp dụng các BPXLNX, thiếu khuyến khích
thị trường MBN, thiếu động lực XLN xấu hoặc không được phép và cũng không
đủ nguồn lực “mua đứt” các khoản nợ xấu...) thì một trong những giải pháp hiệu
quả, nâng cao tính chủ động trong XLN cho một trong những hệ thống quan trọng
nhất đang có vấn đề (hệ thống NHTM) chính là mô hình XLN xấu phi tập trung ở
Việt Nam hiện nay tại công ty quản lý tài sản (tiếng Anh là “Asset Management
Company”, gọi tắt là “AMC”). Tuy mô hình AMC với nhiều biện pháp khác nhau
cũng không phải là “thần dược trị bách bệnh” và cần phải được sử dụng kết hợp
đồng bộ với nhiều giải pháp khác nhưng cả lý luận và thực tiễn đã chứng minh vai
trò hết sức quan trọng cũng như tính hiệu quả của các AMC.
Tuy nhiên, về cơ sở pháp lý, nước ta vẫn chưa xây dựng được một đạo luật
riêng về XLN xấu tại các mô hình XLN và tái cơ cấu TCTD. Liên quan đến mô
hình XLN xấu bởi AMC, hiện hành cũng mới chỉ có các văn bản ở cấp độ pháp lý
rất thấp (nay không còn là văn bản quy phạm pháp luật như tại thời điểm ban hành)
do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành gồm: Quyết định số 1389/2001/QĐNHNN ngày 07/11/2001 quy định về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản trực thuộc NHTM và Quyết định số 1390/2001/QĐ-NHNN ngày 07/11/2001
ban hành điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản trực thuộc NHTM. Về chế độ tài chính của AMC, mới có Thông tư 27/2002/TT-

1


BTC ngày 22/03/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn. Tại Việt Nam, suốt từ năm 2001
đến năm 2014, các quy định về AMC không được thay thế, sửa đổi, bổ sung dù
nhiều nội dung không còn phù hợp với tình hình mới. Đối với biện pháp xử lý là
AMC mua bán nợ xấu, mãi gần đây Chính phủ mới ban hành Nghị định
69/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 điều chỉnh điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán
nợ của các doanh nghiệp có đăng ký ngành nghề kinh doanh dịch vụ mua bán nợ
(bao gồm cả AMC - Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng
thương mại). Đối với các BPXLNX khác của AMC, pháp luật không có quy định

đặc thù. Chỉ có những quy định áp dụng chung cho mọi cá nhân, pháp nhân, tổ chức
nằm rải rác, mâu thuẫn ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, điển hình
như: Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/06/2017 về thí điểm XLN xấu của các
TCTD, Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật thi hành án
dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 64/2014/QH13), Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (được sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012)…
Với thực trạng cơ sở pháp lý, lý luận vừa thiếu, vừa chồng chéo như trên thì
những bất cập, hạn chế trong thực tiễn thực thi các BPXLNX của AMC như: không
có mô hình AMC chuẩn, quy trình thiếu hoặc kém hiệu quả, năng lực XLN xấu của
nhiều AMC chưa tương xứng với vai trò, áp dụng pháp luật và các BPXLNX rất tùy
tiện hoặc tự phát… là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, để phát huy vai trò quan trọng
của mô hình AMC trong XLN xấu của NHTM thời gian tới, điều rất cần thiết là
luận văn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu thực trạng nhằm đề ra những phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các BPXLNX
của NHTM thông qua mô hình AMC tại Việt Nam. Từ lý do đó, tôi đã chọn đề tài
“Các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại tại AMC theo pháp luật
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, các vấn đề xoay quanh nợ xấu và XLN xấu của
NHTM ở Việt Nam đã được nhiều công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý và cả

2


dưới góc độ nghiệp vụ. Ví dụ như: cuốn kỷ yếu Hội thảo khoa học của tập thể tác
giả Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, “Giải pháp XLN xấu trong tiến trình tái
cơ cấu các NHTM Việt Nam”, NXB. Thống kê đã tập hợp các bài phát biểu tại cuộc
Hội thảo do Viện và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam tổ chức từ tháng 1/2003;
sách của Nguyễn Hồng Thu (Chủ biên), XLN xấu của các NHTM - Kinh nghiệm

của Indonesia, NXB. Hà Nội, 2015; sách chuyên khảo của PGS. TS. Lê Thị Thu
Thủy (Chủ biên) cùng nhóm tác giả, Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro
trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016... Ngoài ra, cũng có nhiều bài viết ngắn và
khá cập nhật trong các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn Hoài Phương, Nợ xấu và
mô hình XLN xấu của NHTM ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, số 32016; TS. LS. Bùi Đức Giang, Xử lý TSBĐ theo BLDS 2015, Tạp chí Ngân hàng, số
1+2, tháng 1/2017… Tại các cơ sở đào tạo, cũng có hàng loạt nghiên cứu ở cấp
Luận văn Thạc sĩ như: Nguyễn Hoàng Đức, Pháp luật về XLN xấu của các TCTD ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học
viện Khoa học xã hội, 2014; Nguyễn Thị Ngọc Linh, Pháp luật về hoạt động MBN
của các TCTD ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Học viện Khoa học xã hội, 2015… Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên
cứu trên thường chỉ là những đề xuất hoàn thiện khung pháp lý nói chung về XLN
xấu của NHTM ở Việt Nam hoặc chủ yếu viết về hoạt động XLN xấu của ngân
hàng thông qua mô hình VAMC (Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam)
hoặc mới là những nhận định chung về góc độ kinh tế chứ chưa đi sâu làm rõ về
pháp luật.
Một vài tạp chí cũng có một số bài viết chuyên sâu về từng biện pháp nghiệp
vụ XLN đơn lẻ của NHTM. Điển hình như: ThS. Nguyễn Bích Ngân, Luận bàn về
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh nghiệp vụ MBN của các TCTD Việt
Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 20, tháng 10/2016; TS. Bùi Đức Giang, Đấu giá tài
sản để thu hồi nợ theo quy định mới, Tạp chí Ngân hàng, số 11, tháng 06/2017…
Mới có một vài công trình so sánh với hoạt động XLN xấu của NHTM trên

3


thế giới. Ví dụ như như: TS. Vũ Văn Long, Một số vấn đề tái cấu trúc và XLN xấu
của TCTD tại Nhật Bản – Hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 10, tháng
5/2017 viết về mô hình Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản (DICJ); PGS. TS.

Trần Thị Thanh Tú và ThS. Trương Thị Hoài Thơ, XLN xấu - cách nhìn từ các nước
trong khu vực và hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 22, tháng 11/2016...
Ngoài ra, có một số bài viết liên quan đến nợ, XLN và tái cơ cấu ở tầm vĩ mô
hay tại địa phương hoặc chỉ của một ngân hàng cụ thể. Có thể nói đến như: bài viết
của PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn, PGS. TS. Trần Thị Thanh Tú và TS. Nguyễn Thị
Nhung nghiên cứu về Tái cơ cấu NHTM ở Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016 từ khía
cạnh xử lý các ngân hàng yếu kém, Tạp chí Ngân hàng, số 07, tháng 04/2017; hay
PGS. TS. Nguyễn Trọng Tài viết về Nợ công với sự ổn định thị trường tài chính,
Tạp chí Ngân hàng, số 04, tháng 02/2017. Bên cạnh đó, Trương Đông Lộc và
Nguyễn Thị Hồng Ngọc đàm luận về Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ
trong cho vay theo nhóm nông hộ ở tỉnh Hậu Giang, Tạp chí Ngân hàng, số 06,
tháng 03/2017; còn Phan Đức Tú nghiên cứu về Ngân hàng TMCP đầu tư và phát
triển Việt Nam tiếp tục nỗ lực triển khai tái cơ cấu trong năm 2016 và định hướng
giai đoạn tiếp theo, Tạp chí Ngân hàng, số 1+2, tháng 01/2017...
Cũng có một số tài liệu về các cơ chế nhằm ngăn ngừa nợ xấu như: bài viết
về cuộc phỏng vấn ông Đỗ Hoàng Phong (Tổng giám đốc Trung tâm Thông tin tín
dụng Quốc gia Việt Nam - CIC), Hoạt động thông tin tín dụng góp phần hạn chế
rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động trong hệ thống ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng,
số 18, tháng 9/2016; Ngô Quang Lương (Phó tổng giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam), Tăng cường năng lực cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong quá trình thực
hiện tái cơ cấu hệ thống TCTD và XLN xấu, Tạp chí Ngân hàng, số 17, tháng
09/2016; TS. Đào Minh Phúc và ThS. Vũ Xuân Thanh, Kinh nghiệm quốc tế về
truyền thông xử lý khủng hoảng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, Tạp chí Ngân
hàng, số 9, tháng 05/2016…
Về những vấn đề lý luận và pháp luật về nợ xấu và XLN xấu của NHTM thông
qua mô hình AMC ở Việt Nam, số lượng công trình nghiên cứu trong 5 năm trở lại đây

4



còn rất hạn chế. Cũng không có các sách chuyên khảo hoặc đề tài nghiên cứu độc lập
và hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn về mô hình AMC cũng như các BPXLNX của
NHTM tại AMC theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Chỉ có một vài nghiên cứu, thường
là những bài viết ngắn tích hợp với nghiên cứu pháp luật về XLN xấu nói chung, pháp
luật về VAMC trong các tạp chí khoa học chuyên ngành nói trên.
Về thực tiễn thực thi pháp luật về các BPXLNX của NHTM tại AMC ở Việt
Nam cũng không có một phân tích chuyên sâu nào nêu rõ thực trạng, ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thực thi pháp luật. Chỉ có rất ít bài
viết sơ lược về kinh nghiệm thành lập và hoạt động của AMC trên thế giới nhưng đã
từ rất lâu. Đó là bài viết của Trịnh Bá Tửu về AMC – Định chế đặc biệt XLN khó
đòi và nghiên cứu của Nguyễn Hải Hà về Công ty xử lý tài sản nợ (AMC) – Một
định chế đặc biệt, thuộc Bộ Tài chính, NHNN hay NHTM? đều trong Tạp chí tài
chính từ tháng 6 năm 2000…
Vì lẽ đó, các nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực tiễn các BPXLNX của NHTM tại AMC ở Việt Nam cũng chỉ có
một vài tác phẩm. Điển hình là bài viết của Nguyễn Hoài Phương về “Nợ xấu và mô
hình XLN xấu của NHTM ở Việt Nam” trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3 năm
2016. Tuy nhiên, bài viết cũng chưa đi sâu vào những trình tự, quy trình, cách thức,
các biện pháp XLN và giải pháp cụ thể giải quyết những bất cập, hạn chế, vướng
mắc của các AMC ở Việt Nam.
Mới có một ấn phẩm là Thông tin chuyên đề “Giải quyết nợ xấu – Vấn đề
mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng” trong Trung tâm thông tin tư liệu, số
1/2013, dầy 51 trang (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Quỹ
Friedrich Ebert Stiftung) là có tham khảo kinh nghiệm quốc tế về các mô hình,
phương thức hoạt động của AMC cũng như KAMCO, CDRC, TAMC… tương đối
toàn diện, tuy nhiên còn quá sơ lược cho một lĩnh vực nghiên cứu quá rộng lớn.
Cùng với sự phát triển của công nghệ trong thời đại 4.0, xuất hiện rất nhiều diễn đàn
trao đổi, tham luận chia sẻ về đề tài của luận văn trên internet. Độc giả có thể tham
khảo vài ví dụ: TS. Phan Minh Ngọc, Xã hội chung tay XLN xấu: Phải rạch ròi,


5


chuyện nào ra chuyện đó, 30-10-2016 - 16:50 PM, truy cập
11-07-2017 - 4:27 AM; Phan Minh Ngọc, Bán đấu giá nợ xấu, các AMC phải đứng
ngoài, Thứ Bảy, 26/11/2016, 11:12 (GMT+7), truy cập 11-07-2017 - 4:56 AM…
Tóm lại, qua nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố ở Việt
Nam trong thời gian qua, có thể thấy rằng, các đề tài nghiên cứu về AMC còn rất ít
và chỉ ở giai đoạn bắt đầu. Vì vậy, trong thực trạng ở Việt Nam xuất hiện ngày càng
nhiều nợ xấu và rủi ro như một hiện tượng khách quan của quá trình hội nhập toàn
cầu, phát triển kinh tế và tăng trưởng tín dụng; một công trình khoa học nghiên cứu
có hệ thống, toàn diện, sâu sắc, có kế thừa và mang tính thực tiễn cao về pháp luật
cũng như về mô hình, quy trình, biện pháp nghiệp vụ XLN xấu của NHTM tại
AMC ở Việt Nam là rất quan trọng và cấp thiết.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu của luận văn
Luận văn đặt mục tiêu là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận; những vướng
mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về các
BPXLNX của NHTM tại các AMC ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nghiên cứu
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả các BPXLNX của
NHTM tại AMC.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ được những vấn đề lý luận về nợ xấu và các
BPXLNX của NHTM tại AMC ở Việt Nam.
Thứ hai, nêu được các đặc điểm và nội dung của pháp luật về các BPXLNX
của NHTM tại AMC ở Việt Nam.
Thứ ba, phân tích thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn thực thi pháp luật
về các BPXLNX của NHTM tại AMC ở Việt Nam. Đặc biệt, nêu được trình tự, thủ
tục XLN xấu tại AMC và phân biệt với hoạt động XLN xấu của NHTM thông qua


6


mô hình VAMC cũng như mô hình DATC ở Việt Nam. Đồng thời, làm rõ được sự
khác biệt giữa pháp luật về XLN xấu của NHTM tại AMC ở Việt Nam với pháp luật
tương tự ở một số nước trên thế giới. Một số bài học kinh nghiệm từ pháp luật nước
ngoài về XLN xấu của NHTM cần tiếp nhận trong pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở
đó, nghiên cứu rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
những hạn chế, vướng mắc trong thực thi pháp luật.
Thứ tư, đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về các BPXLNX của NHTM tại AMC ở
Việt Nam hiện nay.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đề cập một cách toàn diện những vấn
đề lý luận và đặc biệt nhấn mạnh về pháp luật cũng như thực tiễn thực thi pháp luật
về các BPXLNX của NHTM thông qua mô hình AMC ở Việt Nam.
Luận văn đề xuất các giải pháp, biện pháp về việc phát triển hoạt động XLN
xấu cũng như thị trường MBN xấu. Trong đó, AMC đóng vai trò quan trọng trong
việc XLN xấu của NHTM. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về XLN xấu của NHTM tại AMC ở Việt Nam hiện nay.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi các
BPXLNX của NHTM tại AMC ở Việt Nam.
Luận văn đặt trọng tâm nghiên cứu về các BPXLNX của NHTM cổ phần tại
AMC ở Hà Nội trong giai đoạn từ khi ban hành Luật các TCTD năm 2010 (có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2011) đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc vận dụng phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho hoạt
động nghiên cứu khoa học là triết học Mác - Lê nin (phép biện chứng duy vật),

luận văn sử dụng các phương pháp chung và phương pháp nghiên cứu ngành luật
khác như: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn giải (trong đó diễn giải từ bản
chất, từ nguyên tắc là quan trọng), phương pháp lịch sử, phương pháp logic, hệ

7


thống – cấu trúc, so sánh, quan sát, thử nghiệm, điều tra thực tế và phỏng vấn
chuyên gia, thống kê… nhằm làm rõ những nội dung nghiên cứu của đề tài nhằm
đảm bảo tính khoa học.
Cụ thể, tại chương 1, học viên sử dụng các phương pháp chính như: phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn giải, phương pháp logic, hệ thống – cấu trúc.
Trong chương 2, các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là: so sánh, phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn giải, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, hệ
thống – cấu trúc, quan sát, thử nghiệm, điều tra thực tế và phỏng vấn chuyên gia.
Dựa trên nền tảng phương pháp luận của triết học Mác - Lê nin cũng như đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, các phương pháp chính được sử dụng
tại chương 3 là: biện chứng duy vật, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn giải,
phương pháp logic, hệ thống – cấu trúc, so sánh và thống kê.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nợ xấu và pháp luật về các biện pháp
XLN xấu của ngân hàng thương mại tại AMC.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về các biện
pháp XLN xấu của ngân hàng thương mại tại AMC ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện các biện pháp XLN xấu của ngân hàng thương mại tại AMC ở
Việt Nam.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN
PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI AMC
1.1. Khái niệm, đặc điểm nợ xấu của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm nợ xấu của ngân hàng thương mại
NHTM là loại hình TCTD được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các TCTD năm 2010 nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
Theo lý thuyết tài chính - tiền tệ cũng như trong thực tiễn trên thế giới và ở
Việt Nam; có nhiều nhận thức, cách hiểu và diễn đạt khác nhau về khái niệm nợ xấu
của NHTM. Chẳng hạn như theo báo cáo của BIS (Ngân hàng thanh toán quốc tế) ở
Nhật Bản, cùng thời điểm 2003, theo cách đánh giá của Luật tái cơ cấu tài chính thì
nợ xấu chỉ là 35,3 nghìn tỷ Yên nhưng theo định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc
tế (IAS) 39 thì nợ xấu lên đến 90,1 nghìn tỷ Yên [57, tr.10].
Nợ xấu thường được nhắc đến với các thuật ngữ như: “non-performing
loan”, “bad debt” hay “doubtful debt” [80, tr.413]. Định nghĩa của IAS, Phòng
Thống kê của Liên hợp quốc ghi nhận:
Về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi
và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên
đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các
khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc
chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
Tuy nhiên, IAS sử dụng thuật ngữ “các khoản nợ bị giảm giá trị” (impaired)
[11, tr.15], chứ không sử dụng từ “non-performing loan”. Như vậy, nợ xấu được xác
định dựa trên một trong hai yếu tố: “quá hạn trên 90 ngày” hoặc “khả năng trả nợ
nghi ngờ”. Thế nhưng, vào đầu năm 2005, IFRS (Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc
tế) và IAS 39 lại chỉ chú trọng đến “khả năng hoàn trả của khách hàng”, bất luận

“chưa quá hạn” hoặc “quá hạn chưa tới 90 ngày”, dựa vào các phương pháp được
9


coi là chính xác về mặt lý thuyết như phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng
khách hàng (khoản vay). Tuy nhiên, việc áp dụng trên thực tế còn nhiều khó khăn
và cần chỉnh sửa lại [57, tr.10]. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) không
đưa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu mà chỉ xác định khoản nợ bị coi là không có khả
năng hoàn trả khi cả hai hoặc một trong hai điều kiện sau xảy ra: ngân hàng thấy
bên vay không có khả năng trả nợ đầy đủ “khi tổ chức chưa thực hiện hành động gì
để cố gắng thu hồi”; đã quá hạn trả nợ 90 ngày. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng định
nghĩa nợ xấu tương tự IAS [11, tr.14].
Theo thông lệ, các khoản nợ của TCTD được phân thành năm nhóm: nợ đủ
tiêu chuẩn (current), nợ cần chú ý (special mention), nợ dưới tiêu chuẩn
(substandard), nợ nghi ngờ (doubtful) và nợ có khả năng mất vốn (loss). IFRS đưa
ra Ma trận phân loại nợ như bảng sau:
Tình hình tài
chính của
người vay

Khả năng trả nợ của người vay
Tốt

Trung bình

Xấu

Tốt

Nợ đủ tiêu chuẩn


Nợ cần chú ý

Nợ dưới tiêu chuẩn

Tương đối tốt

Nợ cần chú ý

Nợ dưới tiêu chuẩn

Nợ dưới tiêu chuẩn

Trung bình

Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ dưới tiêu chuẩn

Nợ dưới tiêu chuẩn

Dưới trung
bình

Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ

Tồi

Nợ có khả năng

Nợ có khả năng


Nợ có khả năng

mất vốn

mất vốn

mất vốn

Nợ có khả năng
mất vốn

Danh sách các yếu tố gây tổn thất khi cho vay gồm:
- Khách hàng vi phạm hợp đồng như chậm hoặc không trả lãi hoặc nợ gốc;
- Khách hàng khó khăn đáng kể về tài chính;
- Bên cho vay, vì các lí do kinh tế hoặc pháp luật liên quan đến khó khăn tài
chính dành cho người vay những ưu đãi hơn so với thông thường;
- Có khả năng bên vay nộp đơn xin phá sản; hoặc
- Những dữ liệu thông tin quan sát được cho thấy giá trị khoản vay đã bị suy
giảm kể từ khi ghi nhận ban đầu như: các điều kiện kinh tế của ngành, ở địa phương
hay quốc gia bị ảnh hưởng tiêu cực; những thay đổi tiêu cực về khả năng thanh toán

10


của khách… [80, tr.389-390].
Như vậy, không có một khái niệm chung thống nhất về nợ xấu của ngân hàng
thương mại trên thế giới. Nợ xấu có thể được chia thành nhiều nhóm/cấp độ khác
nhau và được xác định dựa trên một trong hai yếu tố: “định lượng” (quá hạn trên 90
ngày) hoặc “định tính” (không có hoặc bị nghi ngờ về khả năng trả nợ).
1.1.2. Đặc điểm nợ xấu của ngân hàng thương mại

Hầu hết các quan niệm về nợ xấu của NHTM đều thừa nhận đó là những
khoản nợ khó hoặc mất khả năng thu hồi và mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, khác với các khoản nợ phát sinh trong giao dịch dân sự; nợ xấu
của NHTM chỉ phát sinh trong hoạt động cho vay giữa một bên là NHTM với một
bên là các cá nhân, tổ chức khác (thậm chí là các TCTD khác).
Thứ hai, thông thường là những khoản vay có giá trị lớn; được đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản và việc XLN xấu không đơn thuần như
trong giao dịch dân sự là trả lại cả gốc và lãi bằng tiền mà phải sử dụng rất nhiều
phương thức đặc thù như: cơ cấu lại nợ, MBN, chứng khoán hóa khoản nợ hoặc
các BPXLNX khác để thu hồi.
Thứ ba, nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn thường được
coi là nợ xấu. Như vậy, những khoản nợ quá hạn đến 90 ngày và bên nợ không có
dấu hiệu nghi ngờ về khả năng trả nợ thì vẫn chưa được coi là nợ xấu của NHTM.
Nợ xấu cũng là những khoản nợ có bằng chứng nghi ngờ về khả năng trả nợ như:
con nợ tẩu tán tài sản, bên vay bị thua lỗ trong quá trình kinh doanh dẫn đến nguy
cơ phá sản, con nợ bất thường chậm trễ và không có lý do trong việc cung cấp các
báo cáo tài chính và trả nợ theo lịch đã thỏa thuận [80, tr.414-415].
Thứ tư, mặc dù tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng
tín dụng của TCTD nhưng để xác định, đánh giá chính xác tỷ lệ này là không hề
đơn giản. Một phần do quan điểm pháp luật từng quốc gia trong từng thời kỳ khác
nhau, do cách hiểu và vận dụng pháp luật khác nhau, do các ngân hàng che dấu hay
sử dụng các “thủ thuật” để phản ánh không sát tỷ lệ nợ xấu trên báo cáo tài chính
mà tổ chức kiểm toán độc lập không phát hiện ra hoặc đồng thuận với cách giải
thích của ngân hàng… Thậm chí tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng có thể thay đổi mỗi khi
thực hiện quy định pháp luật mới có hiệu lực. Một phần khác cũng do việc phân loại

11


nợ cũng cần phải được thực hiện thường xuyên do các yếu tố tác động đến hoạt

động kinh doanh của bên vay thường xuyên thay đổi, nhóm nợ tương ứng với mức
độ rủi ro của NHTM cũng thay đổi hàng ngày, hàng loạt khoản vay mới được giải
ngân mà có khi không phát sinh khoản nợ xấu nào trong tháng khiến tỷ lệ nợ xấu
cuối tháng giảm xuống [31, tr.67-68]… Nếu phân loại khoản nợ vào các nhóm nợ
xấu trong khi mức rủi ro thực tế của bên vay thấp hơn thì NHTM sẽ phải trích lập
Dự phòng rủi ro tín dụng (credit loss provision) cao hơn, tăng chi phí, thiếu nguồn
vốn hoạt động, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng; còn khách hàng thì bị giảm
uy tín và cũng bị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ. Ngược lại, nếu
khoản nợ đã là nợ xấu trên thực tế mà lại phân loại vào nhóm có mức rủi ro thấp
hơn thì sẽ không an toàn cho NHTM; nếu rủi ro xảy ra, số dự phòng của ngân hàng
sẽ không đủ để bù đắp các tổn thất do rủi ro gây ra [80, tr.382].
Thứ năm, nợ xấu có tác động tiêu cực tới cả nền kinh tế (do ách tắc dòng
chu chuyển vốn dẫn đến trì trệ và suy giảm tăng trưởng), hệ thống ngân hàng (do
không thể mở rộng tăng trưởng tín dụng khiến hệ thống ngân hàng tiếp tục khó
khăn về thanh khoản, đe dọa sự bền vững của hệ thống tài chính), doanh nghiệp
(do không đủ điều kiện để được ngân hàng cho vay tiếp nên thiếu vốn, phải tạm
ngừng hoạt động hoặc phá sản, giải thể) [39, tr.23], việc làm và thu nhập cho số
đông người lao động [31, tr.65].
Thứ sáu, sự tồn tại của nợ xấu trong hoạt động của toàn hệ thống NHTM là
một trong những đặc trưng cơ bản, tất yếu [28, tr.15], không thể tránh khỏi; dù rằng
mức độ rủi ro của từng khoản vay, từng khách hàng cụ thể là có thể dự đoán được.
Thực trạng nợ xấu vẫn diễn ra ngoài mong muốn, từ các nền kinh tế có hệ thống
quản lý tài chính hoàn hảo và bộ máy giám sát tài chính hùng mạnh như Hoa Kỳ,
các nước Tây Âu, Nhật Bản… đến các nước đang phát triển như Malaysia, Hàn
Quốc… Cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp nhà ở từ cuối năm 2008 tại Mỹ đã gây
ra những vấn đề về nợ xấu bột phát của hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng lớn cả đến
các công ty tài chính, công ty bảo hiểm. Năm 2009, có 140 ngân hàng và chi nhánh
ngân hàng với tổng tài sản là 170,8 tỷ USD bị đóng cửa tại Mỹ [31, tr.66]. Các
TCTD và NHNN Việt Nam đang sử dụng tỷ lệ khuyến cáo của Ngân hàng thế giới


12


là quản lý nợ xấu ở mức không quá 3% [80, tr.396].
1.2. Sự cần thiết xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại bởi AMC
Trước khi đề cập tới sự cần thiết của mô hình XLN xấu phi tập trung AMC,
chúng ta cùng nhìn lại các mô hình XLN xấu của NHTM trước đây. Tới nay, mô
hình XLN xấu tập trung mà nhà nước đóng vai trò chính như DATC, VAMC tuy
cũng đem lại những kết quả đáng khích lệ nhưng còn chưa hiệu quả và còn tồn tại
khá nhiều hạn chế, vướng mắc. Do có quá ít công ty mua nợ trên thị trường, giá
chào mua “độc quyền” của DATC chỉ từ 30 – 40% giá trị nợ gốc. Điều này tác động
xấu đến nhu cầu muốn bán nợ cho DATC của NHTM. Tính đến năm 2014, DATC
chỉ xử lý được trung bình mỗi năm một con số quá nhỏ là gần 1.000 tỷ đồng nợ xấu
[59, tr.11]. Các trường hợp nợ xấu DATC mua lại và xử lý đều chưa phải là phức tạp
và có giá trị không lớn, chủ yếu mới chỉ xử lý về tài chính, biện pháp tái cơ cấu còn
hạn chế. Ngoài ra, DATC còn có những hạn chế cơ bản như: mâu thuẫn giữa các mục
tiêu hoạt động (vừa phải xử lý nhanh lại vừa phải đảm bảo lợi nhuận), thiếu động lực
và sức ép để XLN xấu, hạn chế về quyền áp dụng các BPXLNX, hạn chế trong quy
định sử dụng vốn đầu tư của DATC, thiếu khuyến khích với nhà đầu tư chiến lược, hạn
chế trong tiếp cận thông tin, thiếu hướng dẫn chi tiết về vai trò của DATC trong tái cơ
cấu hoạt động doanh nghiệp nhà nước [39, tr.25]. Do vốn ít và vướng mắc về cơ chế,
mặc dù DATC muốn mở rộng hoạt động, mua bán các khoản nợ thương mại ngoài
khu vực nhà nước nhưng thực tế mới chỉ chủ yếu XLN ở khu vực doanh nghiệp [58,
tr.16]. Còn mô hình VAMC với số vốn điều lệ chỉ 2.000 tỷ đồng thì chưa được phép
và cũng không đủ khả năng “mua đứt” các khoản nợ thường là đã rất xấu, mà chỉ
được mua và giữ hộ NHTM. Ngân hàng mẹ vẫn phải gánh chịu trách nhiệm trích
lập dự phòng rủi ro; tự mình hoặc cùng AMC trực thuộc mình thu hồi nợ, bán nợ,
bán TSBĐ, thậm chí gánh chịu hậu quả nếu xảy ra thất thoát TSBĐ. Ngân hàng vẫn
xác định quyền chủ nợ của họ với khoản nợ xấu sau 5 năm cho nên hợp tác với
VAMC không chặt chẽ, nhiều khi không cần VAMC xử lý nợ xấu đã bán. Khi ngân

hàng chưa đồng ý thì VAMC cũng không được chủ động tiến hành miễn giảm lãi,
cơ cấu nợ cho bên vay [40, tr.28]. Đặc biệt, các chuyên gia quốc tế cũng khuyến
cáo: cần có quy định cụ thể “vòng đời”, thời hạn hoạt động của DATC, VAMC để

13


không trở thành kho lưu giữ nợ xấu của hệ thống tài chính, tạo tiền lệ xấu cho các
ngân hàng. Đồng thời, các quy định khuyến khích, ưu đãi trong quá trình XLN xấu
cũng không nên kéo dài mà cần có một lộ trình nhất định [10, tr.44].
Vì vậy, trước yêu cầu phải xử lý nhanh chóng điểm nghẽn nợ xấu để khơi thông
dòng vốn tín dụng, hỗ trợ cho doanh nghiệp, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định; một
số giải pháp XLN xấu khác đã được đề xuất. Nhà nước cần xác định chính xác nguyên
nhân, tính chất và phạm vi của nợ xấu để áp dụng giải pháp xử lý phù hợp. Kinh nghiệm
quốc tế cho thấy: nếu đánh giá nợ xấu đang ở mức độ vừa phải thì nên để các NHTM
hoặc AMC trực thuộc ngân hàng tự giải quyết; chỉ khi nợ xấu ở quy mô lớn, vượt khỏi
tầm kiểm soát của một số định chế tài chính, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế
hoặc đe dọa đến an toàn hệ thống tài chính như giai đoạn trước đây thì mới cần phải có
vai trò của Nhà nước để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng hơn [28, tr.13].
Do đó, hiện nay, khi quy mô nợ xấu “trở về” mức độ “vừa phải” thì xét theo
nguyên lý, nên để các AMC của các NHTM tự XLN xấu một cách đều đặn, thường
xuyên và dài hạn, theo cơ chế thị trường bởi các công ty này có điều kiện thuận lợi
nhất định vì hiểu rõ thông tin của cả chủ nợ lẫn con nợ [28, tr.13-14] (đặc biệt là các
đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), khách hàng cá nhân, tiểu thương…).
Hơn nữa, nợ xấu phát sinh của mỗi NHTM lại có những nguyên nhân và đặc thù
riêng nên cần phải được xử lý riêng rẽ [40, tr.26]. Chẳng hạn, VPBank đã thành
công khi “liều lĩnh” lựa chọn, tập trung chính ở những phân khúc được đánh giá rủi
ro hơn thông thường (đồng nghĩa với sắc xuất nợ xấu cao) như: SME siêu nhỏ
(micro SME), hộ kinh doanh, tiểu thương và tín dụng tiêu dùng (FE CREDIT) nên
đương nhiên các biện pháp XLN của VPBank AMC cũng có những đặc thù [95].

Ngoài ra, các AMC sẽ chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý, XLN của toàn
hệ thống ngân hàng mẹ. Đặc biệt khi quy mô của AMC tăng trưởng mạnh (ví dụ do
chính sách phát triển sản phẩm, quy mô của VPBank AMC vào năm 2018 lên tới
khoảng 1000 nhân sự) thì tổ chức theo các mô hình “Phòng XLN Hội sở” hoặc cán
bộ tín dụng chi nhánh kiêm nhiệm XLN là không thể được và không chủ động đảm
bảo được mục tiêu XLN đề ra. Hơn nữa, AMC là công ty trực thuộc của ngân hàng,
nhân sự cốt cán do ngân hàng bổ nhiệm nên sẽ đảm bảo tối ưu nhất lợi ích của ngân

14


hàng trong quá trình mua bán, giá mua bán và chi phí xử lý nợ. Mức lương và chế
độ ưu đãi tại AMC cũng khác với ngân hàng mẹ nên nếu là công ty con độc lập thì
không gây tác động tâm lý xấu trong nội bộ nhân viên ngân hàng. Để đẩy nhanh quá
trình XLN xấu, AMC thường xuyên có các chương trình thưởng để khuyến khích
CBXLN trực tiếp như: thưởng incentive hàng tháng, thưởng thu nợ lớn hàng tháng,
thu nhiều thưởng lớn hàng quý, thưởng thu nợ khó đòi hàng quý, thưởng thi đua thu
nợ tháng đặc thù, thưởng tiến độ XLN… Ngoài các chế độ phúc lợi, quyền lợi công
đoàn, thăm hỏi hiếu hỉ… thì đây là những chính sách rất quan trọng góp phần giữ
chân nhân tài và tạo lên văn hóa đặc trưng của từng AMC. AMC có thể XLN xấu
nhanh chóng, hiệu quả thông qua chủ động tiến hành một số biện pháp tái cơ cấu nợ
như giãn thời gian trả nợ, xóa nợ lãi (hoặc thậm chí một phần nợ gốc) cho doanh
nghiệp hay chuyển đổi nợ thành cổ phần, phát triển các hoạt động MBN; tập trung
xử lý các khoản nợ phức tạp, có giá trị lớn (có thể lên tới hàng nghìn tỉ đồng) của
ngân hàng mẹ; quản lý, kinh doanh tài sản; bảo toàn và phát triển vốn [28, tr.14].
Mục tiêu duy nhất của mô hình XLN xấu theo hướng phân quyền (hay còn gọi là
các “ngân hàng xấu”, “bad banks”) này là tập trung vào xử lý tài sản và tối đa hóa
tỷ lệ thu hồi thông qua việc tái cấu trúc chủ động, các khoản nợ xấu của ngân hàng
mẹ được chuyển sang các AMC. Các công ty này được giao những quyền hạn đặc
biệt để hoàn thành sứ mệnh của mình trong một thời gian “ngắn” [40, tr.26] cũng

như thường xuyên, lâu dài. Hơn nữa, nếu ngân hàng mẹ tự xử lý nợ xấu thì có thể đối
mặt với những đòi hỏi cao về nhân sự, nguồn lực để xử lý và cơ sở hạ tầng (ví dụ điển
hình là thị trường nợ xấu của nước Áo) hoặc rủi ro đánh mất thương hiệu, danh tiếng
trong quá trình XLN [90, tr.38] nên buộc phải “outsource” ra các nhà cung cấp dịch vụ
nội bộ (AMC) hoặc bên ngoài. Do đó, các ngân hàng mẹ cần tự tái cơ cấu, củng cố sức
mạnh; nhận thức rõ và xem trọng mô hình XLN qua AMC cũng như cơ chế phối hợp
của AMC với VAMC; cần phải tập trung đầu tư các nguồn lực cho AMC để XLN
được hiệu quả hơn.
Cuối cùng, các chuyên gia cũng cho rằng, XLN xấu cần những biện pháp tổng
hợp bởi sẽ không có một biện pháp xử lý đơn nhất nào thực sự hiệu quả trong mọi tình

15


huống [10, tr.44]. Còn nếu tỷ lệ nợ xấu vượt quá ngưỡng 5% tổng dư nợ thì cần có
BPXLNX từ nhiều phía, bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước [39, tr.25].
1.3. Khái niệm, đặc điểm các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại tại AMC
- Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “biện pháp là cách thức xử lý công việc
hoặc giải quyết vấn đề” và “xử lý là xem xét và giải quyết về mặt tổ chức một vụ
phạm lỗi nào đó; hoặc áp dụng những thao tác nhất định để nghiên cứu, sử dụng;
hay làm cho chịu những tác động vật lý, hóa học nhất định để biến đổi hợp mục
đích” [82, tr.89, 1482].
Như vậy, các biện pháp xử lý nợ xấu của NHTM tại AMC có thể được hiểu là tất
cả những cách thức mà AMC thu hồi, đối phó và giải quyết vấn đề nợ xấu của NHTM.
Mặc dù về nguyên tắc, các BPXLNX cần được áp dụng bởi nhiều chủ thể,
trong đó có cơ quan nhà nước (ví dụ như Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD với
những biện pháp xử lý đặc biệt với các TCTD có rủi ro cao), nhưng trách nhiệm
chính trong việc thu hồi nợ xấu thuộc về NHTM (chủ nợ) hoặc AMC trực thuộc
ngân hàng và tổ chức, cá nhân vay vốn (con nợ). Những con nợ có “đạo đức” sẽ

chủ động tìm mọi nguồn có thể để giải quyết nghĩa vụ hiển nhiên này, thương
lượng với chủ nợ để cơ cấu lại nợ; rà soát lại các dự án để điều chỉnh kế hoạch sản
xuất kinh doanh, tăng khả năng quản trị rủi ro, tự đổi mới, giảm thiểu chi phí và
tập trung vào các hoạt động có hiệu quả nhất kết hợp với sự hỗ trợ từ cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên, khi đã là nợ xấu thì thường là các NHTM phải trích lập, sử dụng
dự phòng rủi ro để XLN xấu; ngăn ngừa nợ xấu gia tăng; tự xử lý nợ xấu hoặc ủy
thác cho AMC trực thuộc chủ động áp dụng (vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu
dài) các BPXLNX [80, tr.417, 419-422].
- Về lý luận, các BPXLNX thường do NHTM tự tiến hành, bao gồm:
+ Thứ nhất là biện pháp ngân hàng bán nợ xấu. Đối tượng mua bán là các
khoản nợ, bên bán nợ là các NHTM, bên mua nợ là các tổ chức MBN chuyên
nghiệp (gồm cả các AMC). AMC có thể được ngân hàng ủy thác giữ vai trò phối
hợp giữa các bên để triển khai thực hiện việc mua bán “đứt” khoản nợ theo giá thị
trường. Đây là một hoạt động còn mới ở Việt Nam những năm gần đây và được
xem là biện pháp XLN nhanh nhất giúp ngân hàng thu hồi một phần vốn đưa ngay

16


vào các cơ hội kinh doanh mới nhằm cải thiện tình hình tài chính. Tuy nhiên, nhiều
trường hợp ngân hàng không bán “đứt” khoản nợ mà chỉ bán có thời hạn cho
VAMC, sau đó VAMC có thể ủy quyền AMC trực thuộc ngân hàng đó (tức là thông
qua trung gian) tiếp tục áp dụng các BPXLNX.
+ Thứ hai là các biện pháp ngân hàng cơ cấu lại khoản nợ xấu. Khi khách
hàng đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của ngân hàng với từng biện pháp
cụ thể, ngân hàng có thể thực hiện “tái cấu trúc nợ” bằng các biện pháp sau: cơ cấu
lại thời hạn trả nợ, cho vay duy trì hoạt động, ngân hàng chuyển nợ vay thành vốn
góp cổ phần vào doanh nghiệp, “khoanh nợ”, xóa nợ, giảm hoặc miễn lãi…
Trường hợp ngân hàng hoặc AMC (khi được ủy quyền) đánh giá khách hàng
khó có khả năng trả nợ đúng lịch do có khó khăn tài chính tạm thời nhưng khách có

lịch sử tín dụng tốt, vẫn có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực và
nếu được ngân hàng gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ thì khách hoàn toàn có
khả năng trả nợ đúng hạn thì cán bộ ngân hàng hoặc AMC sẽ trình Hội đồng cấu
trúc nợ của ngân hàng phê duyệt và sẽ chủ động phối hợp với khách để giãn nợ,
miễn hoặc giảm lãi suất một cách hợp lý.
Nguyên tắc là CBXLN của ngân hàng (hoặc của AMC khi được ủy quyền)
chỉ trình miễn giảm lãi, phạt chậm trả lãi và các khoản phí, phạt khác đối với phần
lãi mà ngân hàng chưa thu được; không trình miễn, giảm, hoàn trả số tiền lãi đã thu
(trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu hoàn trả tiền
lãi đã thu theo quy định của pháp luật) cũng như không trình miễn, giảm lãi suất ưu
đãi mà khách hàng phải hoàn trả ngân hàng và các khoản phí, phạt mà ngân hàng đã
tạm ứng, thanh toán hộ khách hàng.
Khi cơ cấu lại nợ không có hiệu quả; cần xóa bỏ các khoản nợ có vấn đề,
không còn khả năng trả nợ gặp nguyên nhân bất khả kháng, nợ tồn đọng ra khỏi
bảng cân đối dự toán thì ngân hàng có thể thực hiện việc xóa nợ.
- Các BPXLNX thường thông qua trung gian (theo mô hình XLN AMC hoặc
mô hình XLN tập trung thông qua DATC, VAMC), bao gồm:
+ Thứ nhất là biện pháp AMC đôn đốc thu hồi nợ. Đây là biện pháp hiệu quả
nhất, rất quan trọng trong thực tiễn, được áp dụng độc lập hoặc phối hợp với các
biện pháp khác từ khi cho vay đến khi tất toán khoản vay. Xuyên suốt quá trình xử

17


×