Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Lý luận cơ bản về nợ xấu của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.02 KB, 30 trang )

Chương 1: Lý luận cơ bản về nợ xấu của Ngân hàng thương mại.
1.1. Tổng quan về nợ xấu
1.1.1. Định nghĩa nợ xấu:
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt – “tiền tệ”.
Trong đó ngân hàng đóng vai trò là thành phần trung gian trong nhận tiền gửi từ dân
cư đồng thời là người cho vay đối với nền kinh tế. Cho tới nay, hoạt động chủ yếu
trong ngân hàng vẫn là hoạt động tín dụng. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất
song cũng đem lại rủi ro cao nhất cho Ngân hàng thương mại, rủi ro này có thể xảy ra
do luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của Ngân hàng có thể
không được hoàn trả đầy đủ xét về cả số lượng hay thời hạn. Vì vậy để có thể phát
huy được vai trò của tín dụng, ngân hàng cần có biện pháp quản lý nợ tốt nhằm hạn
chế rủi ro có thể xảy ra hay nói cách khác là hạn chế các khoản nợ xấu phát sinh.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa nợ xấu của các tổ chức được đưa ra. Một cách
chung nhất nợ xấu được hiểu là các khoản nợ mà Ngân hàng cho vay ra mà không thu
hồi được gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Một số định
nghĩa về nợ xấu được đưa ra hiện nay:
1.1.1.1 Theo định nghĩa của phòng thống kê – Liên hợp quốc:
Một khoản nợ được coi là nợ xấu:
• Khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày.
• Các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc; tái cấp vốn hoặc
chậm trả theo thoả thuận.
• Các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn
để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
1.1.1.2 Theo định nghĩa của ngân hàng liên minh châu Âu:
Theo định nghĩa của ngân hàng liên minh châu Âu thì nợ xấu tại các NHTM
gồm:
 Là khoản nợ không thể thu hồi được:
•Khoản nợ hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ
nợ.
•Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc
không thể tìm được người mắc nợ


•Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
•Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản,
hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
 Khoản nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng:
Là những khoản nợ không có tài sản đảm bảo hoặc có nhưng tài sản này không
đủ để trả nợ. Điều đó có nghĩa là khách nợ không thu hồi đầy đủ món nợ do khách
hàng kinh doanh thua lỗ và không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc đúng thời
hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi được đầy đủ
như:
•Khoản nợ mà khách hàng đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng phần còn lại
không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh toán
nhưng giá trị còn lại không đủ bù đắp cho khoản nợ.
•Khoản nợ mà khách nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nợ nhưng không thực
hiện được trong thời gian thỏa thuận.
•Khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hay tài sản thế chấp ở ngân hàng
không được chấp thuận về mặt pháp lý, dẫn đến khách nợ không trả nợ Ngân hàng đầy đủ.
1.1.1.3 Theo định nghĩa của Việt Nam:
Theo công bố về số liệu nợ xấu hàng năm của hệ thống ngân hàng Việt Nam
hiện nay vẫn có sự khác biệt khá xa so với báo cáo kiểm toán của một số tổ chức nước
ngoài. Có điều này một phần là do định nghĩa về nợ xấu của Việt Nam và các tổ chức
quốc tế khác nhau. Tuy nhiên định nghĩa về nợ xấu của Việt Nam đang tiến dần tới
theo chuẩn mực của thế giới.
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành ngày
22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, và quyết định số 18/2007 của Ngân
hàng nhà nước ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định 493 thì nợ xấu
được định nghĩa như sau:
Là các khoản nợ thuộc các nhóm 3( nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi
ngờ), nhóm 5 ( nợ có khả năng mất vốn). Về cơ bản định nghĩa nợ xấu của Việt
Nam cũng dựa trên 2 yếu tố là,(1) đã quá hạn trên 90 ngày và (2) khả năng trả nợ

nghi ngờ.
Như vậy nợ xấu cơ bản được xác định trên 2 yếu tố:
- Quá hạn trên 90 ngày
- Khả năng trả nợ nghi ngờ
Đây cũng được coi là định nghĩa của IAS đang được sử dụng trên thế giới.
1.2 Phân loại nợ xấu:
Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ không chỉ căn cứ vào thời gian quá
hạn mà còn căn cứ vào khả năng thu hồi món vay. Đối với một món vay đã quá thời
gian trả nợ nhưng nếu xét thấy khả năng trả nợ của khách hàng là có thể thì món vay
đó có thể chưa phải xếp vào nợ xấu. Ngược lại, một món vay dù chỉ mới quá hạn 1
ngày nhưng Ngân hàng thấy rõ và có cơ sở xác minh được khả năng thua lỗ và dấu
hiệu lừa đảo của khách hàng thì khoản nợ đó cũng được cho là nợ xấu.
Tại Việt Nam, theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ra ngày 22/4/2005 của
thống đốc Ngân hàng nhà nước và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ
sung quyết định 493 thì có 2 cách phân loại nợ xấu trên cơ sở cả về thời gian trả nợ và
khả năng trả nợ của khách hàng.
Phân loại định lượng như sau: Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo
5 nhóm như sau:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
• Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
• Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
• Các khoản nợ được phân loại lại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 điều 6
quyết định 18/2007-QĐ-NHNN ban hành ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi bổ sung quyết
định 493.
 Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
• Khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
• Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức tiín dụng thì phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ

nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 3 điều này.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
• Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày – 180 ngày.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này.
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều này.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
• Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần 2.
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này.
 Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
• Khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai.
• Các khoản nợ cơ cấulại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn.
• Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
• Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Cụ thể, khoản 2 và khoản 3 điều 6 được quy định như sau:
Khoản 2: Tổ chức tín dụng có thể phân loại lại các khoản nợ vào nhóm
nợ có rủi ro thấp hơn trong các trường hợp:
a) Đối với các khoản nợ quá hạn, tổ chức tín dụng phân loại lại vào
nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện
sau đây:
- Khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối

với nợ gốc quá hạn) và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo trong thời
gian tối thiểu 6 tháng đối với khoản nợ trung và dài hạn, 3 tháng đối với các
khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn.
- Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ bị quá
hạn đã được xử lý, khắc phục.
- Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) đánh giá là
khách hàng có khả năng trả đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
b) Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng phân
loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các
điều kiện sau:
- Khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu
lại trong thời gian tối thiểu 6 tháng đối với các khoản nợ trung và dài hạn, 3
tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và
lãi theo thời hạn được cơ cấu lại.
- Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ phải cơ
cấu lại thời hạn trả nợ đã được xử lý, khắc phục.
- Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) để đánh giá
là khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã được cơ
cấu lại còn lại.
Khoản 3: Tổ chức tín dụng phải chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro
cao hơn trong các trường hợp sau:
a) Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải được
phân loại vào cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ 2 khoản nợ trở lên
tại tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào bị phân loại theo quy định
tại khoản 1 điều này vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn các khoản nợ khác, tổ chức
tín dụng phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có
rủi ro cao nhất đó.
b) Đối với khoản cho vay hợp vốn, tổ chức tín dụng làm đầu mối phải
thực hiện phân loại nợ đối với khoản cho vay hợp vốn theo các quy định tại
điều này và phải thông báo kết quả phân lọa nợ cho các tổ chức tham gia cho

vay hợp vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc một số các
khoản nợ khác tại tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn đã phân loại vào
nhóm nợ không cùng nhóm nợ của khoản nợ vay hợp vốn do tổ chức tín dụng
làm đầu mối đã phân loại, tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn phân loại
lại toàn bộ dư nợ (kể cả phần dư nợ cho vay hợp vốn) của khách hàng vay hợp
vốn vào nhóm nợ do tổ chức tín dụng đầu mối phân loại hoặc do tổ chức tín
dụng tham gia cho vay hợp vốn phân loại tùy theo nhóm nợ nào có rủi ro cao
hơn.
c) Tổ chức tín dụng phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân
loại vào các nhóm theo quy định tại khoản 1 điều này vào nhóm nợ có rủi ro cao
hơn theo đánh giá của tổ chức tín dụng khi xảy ra một trong các trường hợp sau
đây:
- Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực tới môi trường, lĩnh vực
kinh doanh của khách hàng.
- Các khoản nợ của khách hàng bị các tổ chức tín dụng khác phân loại
vào nhóm nợ có mức rủi ro cao hơn (nếu có thông tin).
- Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng về (khả năng sinh lời, khả năng
thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng
bị suy giảm liên tục, hoặc có biến động lớn theo chiều hướng bị suy giảm).
- Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông
tin tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng để đánh giá khả năng trả nợ của
khách hàng.
Phân loại định tính như sau:
Áp dụng đối với tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân
loại nợ theo phương pháp định tính thì xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro như sau:
 Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn):
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả
nợ gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý):

Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả
nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn):
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ
gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ):
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn):
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi,
mất vốn.
Như vậy, một khoản nợ được coi là nợ xấu không chỉ căn cứ vào thời gian quá
hạn mà tổ chức tín dụng còn cần phải xem xét khả năng trả nợ của khách hàng, hay nói
cách khác là khả năng thu hồi được khoản vay của tổ chức tín dụng. Có thể nói quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN đã tiếp cận gần hơn với chuẩn quốc tế và đánh giá chính xác
hơn về bản chất món vay của Ngân hàng.
1.3Nguyên nhân phát sinh nợ xấu
Nợ xấu luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ, vì vậy tiền tệ
cũng chính là hàng hóa chủ yếu, là đầu vào nhưng cũng chính là đầu ra của Ngân
hàng. Bất cứ một biến động nào trong quá trình lưu thông tiền tệ đều ảnh hưởng
không tốt tới hoạt động của Ngân hàng. Chính vì vậy, các khoản nợ quá hạn, nợ xấu là
vấn đề đáng lo ngại và cần được xử lý kịp thời. Nhưng nguyên nhân chính nào dẫn tới
tình trạng nợ xấu trong ngân hàng? Không chỉ có yếu tố chủ quan từ phía Ngân hàng
mà còn có các nhân tố khách quan như môi trường và chính sách kinh tế vĩ mô, rủi ro
từ quá trình tự do hóa tài chính hay thậm chí ảnh hưởng từ biến cố bất thường của
thiên nhiên…Cụ thể:
Nguyên nhân chủ quan:
Sự quản lý yếu kém của Ngân hàng:
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đứng ra cung cấp vốn cho các

doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế. Lượng vốn đó phần lớn do huy động từ trong
dân cư mà ra. Vì vậy bất cứ sự bất cẩn nào trong hoạt động quản lý của Ngân hàng
đều gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cả nền kinh tế. Một sự sai sót, yếu kém
trong khâu phân tích tín dụng, thẩm định, chấp nhận những khách hàng có độ rủi ro
cao đồng nghĩa với việc Ngân hàng phải chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu cao trong tương
lai. Hay việc tập trung quá mức vào một khu vực khách hàng, hay một khu vực ngành
nghề mà không có sự đa dạng hóa danh mục khách hàng sẽ dẫn tới những rủi ro khó
lường khi có những biến cố kinh tế vĩ mô bất lợi. Bên cạnh đó là những rủi ro đạo đức
tiềm năng cũng là nguyên nhân đẩy ngân hàng vào tình trạng nợ quá hạn và nợ xấu
tăng cao.
Nguyên nhân khách quan:
 Môi trường kinh tế vĩ mô và các chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp:
Môi trường kinh tế và chính sách vĩ mô không ổn định sẽ ảnh hưởng lớn tới
hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bất kỳ chính sách vĩ mô nào cũng đều có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới nền kinh tế. Chẳng hạn, khi lãi suất cơ bản tăng, lãi
suất huy động và lãi suất cho vay ra của Ngân hàng cũng tăng dẫn đến tình trạng
nguồn cung vốn dồi dào nhưng nguồn vốn cho vay ra có thể bị hạn chế do các doanh
nghiệp khó tiếp cận được với nguồn vốn có lãi suất cao, đồng thời cũng là nguyên
nhân khiến cho doanh nghiệp khó khăn trong việc trả nợ và nợ xấu gia tăng là điều
khó tránh khỏi.
Như vậy, khi các chính sách vĩ mô có những thay đổi bất thường, không đồng
bộ sẽ tạo ra một môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh bất ổn, không thể dự
đoán được thì Ngân hàng cũng như người đi vay sẽ gặp những rủi ro tất yếu và có thể
dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngược lại khi chính sách vĩ mô phù hợp
sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tín dụng và người đi vay tiếp cận được với
nguồn vốn thích hợp góp phần tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
 Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Tự do hóa tài chính là xu hướng tất yếu mà mỗi nền kinh tế phát triển cần đạt
đến. Quá trình này tạo điều kiện cho việc trao đổi giao lưu giữa các quốc gia trở nên
thuận lợi hơn, tuy nhiên nó cũng đặt ra một thách thức đối nền kinh tế nói chung cũng

như lĩnh vực tài chính nói riêng. Tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế là điều kiện để
các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện gia nhập và hưởng những ưu
đãi như nhà đầu tư trong nước, đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ gia
tăng sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp trong nước, khiến các doanh
nghiệp – những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Một khi doanh nghiệp kinh
doanh thua lỗ thì tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu của Ngân hàng sẽ gia tăng.
Bên cạnh đó, nợ xấu không chỉ gây ra từ phía doanh nghiệp, trong điều kiện tự
do hóa tài chính và hội nhập toàn cầu, việc ngày càng nhiều ngân hàng nước ngoài
được thành lập ở Việt Nam cũng khiến cho các ngân hàng trong nước đối mặt với
những đối thủ cạnh tranh lớn, và các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu
kém, thiếu chặt chẽ sẽ phải đối mặt với rủi ro nợ quá hạn tăng cao bởi hầu hết các
khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút hết.
 Rủi ro khách quan từ thiên nhiên: thiên tai địch họa
Một môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, một hệ thống quản lý chặt chẽ là điều
cần thiết trong hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro
khi thiên nhiên có những biến động bất thường: hạn hán, lũ lụt, sóng thần, động
đất….tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động của ngân hàng.
Thiên tai địch họa khiến cho hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, và phần lớn các
khoản vay bất đắc dĩ trở thành nợ quá hạn.
 Trong điều kiện Việt Nam nói chung và cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu hiện nay nói riêng, ngoài những nguyên nhân đã nêu ra ở trên còn một số nguyên
nhân khác như:
- Một số ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chịu ảnh hưởng từ chính phủ khi
can thiệp vào các quyết định cho vay của ngân hàng nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng. Các
ngân hàng thương mại bị ràng buộc tài chính mềm, khiến Ngân hàng không quan tâm tới
việc đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay gây ra tích đọng nợ xấu.
(Thuật ngữ “ràng buộc tài chính mềm” là thuật ngữ chuyên môn chỉ tình trạng một
doanh nghiệp không quan tâm nghiêm túc tới việc thua lỗ tài chính, và luôn kỳ vọng rằng

chính phủ hay một bên thứ ba sẽ đứng ra cứu giúp khi phải đối mặt với phá sản)
Chính phủ vẫn có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích một cách công khai hoặc
ngầm định các ngân hàng cấp tín dụng vượt mức an toàn thương mại cho phép để đạt được
mục tiêu tăng trưởng đề ra. Sự can thiệp này có thể diễn ra trước khi quyết định cho vay
được đưa ra hoặc sau khi giao dịch đã hoàn tất. Chính sự bao cấp của chính phủ đối với
các doanh nghiệp nhà nước là cơ sở cho sự trì trệ của một số doanh nghiệp nhà nước. Với
sự can thiệp diễn ra trước khi ra quyết định cho vay hay còn gọi là các khoản vay chính
sách, cho tới một vài năm gần đây các ngân hàng vẫn có nghĩa vụ phải thực hiện cho vay
theo các chương trình phát triển của chính phủ hoặc vì lý do chính trị. Trong khi đó, các
ngân hàng thường không trích dự phòng cho các khoản vay chính sách này, nhưng trên
thực tế thì không có một cam kết nào đảm bảo rằng các khoản vay này sẽ chi trả đầy đủ và
đúng hạn. Đó cũng chính là lí do gây ra nợ xấu gia tăng tại các ngân hàng, đặc biệt là ngân
hàng thương mại quốc doanh.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: Việt Nam tuy là quốc gia chưa có sự tham
gia sâu rộng vào nền tài chính toàn cầu nhưng cũng là một trong những quốc gia chịu ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng này. Điều này thể hiện trên nhiều tiêu chí khác nhau:
Thứ nhất, lạm phát tăng: Tỷ lệ lạm phát năm 2008 là 25%, tăng gần gấp đôi so với
tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 12,63% . Một trong những nguyên nhân được đưa ra là do có sự
gia tăng ồ ạt của lượng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
cùng với một lượng kiều hối đổ về khá nhiều đã tạo áp lực tăng giá đồng nội tệ. Nhằm duy
trì sức cạnh tranh về tỷ giá của đồng nội tệ, Ngân hàng nhà nước đã phải mua tiền vào làm
tăng dự trữ ngoại tệ, dẫn đến thay đổi về cung cầu ngoại tệ, gây áp lực lạm phát. Lạm phát
cao làm cho lãi suất huy động tại các ngân hàng trở thành lãi suất thực âm, đó là nguyên
nhân làm cho lượng tiền gửi vào các ngân hàng giảm xuống. Đứng trước tình trạng đó,
cộng thêm hàng loạt các biện pháp thắt chặt tiền tệ của chính phủ như : mua 20300 tỷ tín
phiếu bắt buộc, nâng lãi suất cơ bản… các Ngân hàng thương mại bắt đầu bước vào cuộc
chay đua lãi suất. Có thời điểm lãi suất huy động gần bằng lãi suất cho vay ra, lãi suất quá
cao đã cản trở phần lớn các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng, ngược
lại những doanh nghiệp có thể tiếp cận thì lại có vấn đề tài chính đáng lo ngại, và như vậy,
vấn đề nợ xấu gia tăng là điều dễ hiểu.

Thứ hai, tỷ giá biến động: Có thể nói năm 2008 vừa qua là năm có quá nhiều biến
động về tỷ giá, với những kỷ lục mới về đồng USD. Tháng 5 và 6/2008, thị trường chứng
kiến sự leo thang của giá đồng USD so với VND. Doanh nghiệp nhập khẩu phải mua vào
với giá phổ biến từ 18.000 – 19.000 VND/1 USD; có thời điểm lên đến gần 20.000 VND.
Từ đầu năm đến cuối tháng 3/2008, ngân hàng thừa cung ngoại tệ, hạn chế mua của các
doanh nghiệp xuất khẩu; tỷ giá thị trường thấp hơn tỷ giá công bố trên thị trường liên ngân
hàng nhưng doanh nghiệp lại không thể mua trực tiếp theo tỷ giá thấp đó. Và với
Petrolimex, mỗi lít xăng dầu bị tăng thêm từ 300 – 400 đồng khi mua theo tỷ giá của ngân
hàng.
Từ đầu tháng 4/2008, thị trường ngoại tệ bất ngờ đảo chiều và biến động quá mạnh,
doanh nghiệp xuất khẩu không bán, nguồn cung thiếu, ngân hàng không đủ nguồn lực để
gia tăng hạn mức tín dụng ngoại tệ mở L/C do giá xăng dầu tăng quá cao. Tỷ giá cộng hết
biên độ dẫn đến chênh lệch tỷ giá phát sinh thời điểm nhập khẩu đến thời điểm thanh toán
với nước ngoài tăng mạnh, từ 40 đồng/lít bình quân quý 1/2008 lên tới trên 500 đồng/lít ở
thời điểm tháng 7 và 8 vừa qua, làm giá thành xăng dầu tăng thêm từ 2% - 3%. Tuy cho tới
nay tỷ giá đã có phần ổn định, ít biến động hơn tuy nhiên vẫn duy trì ở mức tỷ giá khá cao
so với đầu năm 2008 và xoay quanh mức 17760VNĐ/USD trong thời gian gần đây.
Tỷ giá tăng và biến động mạnh gây ảnh hưởng không nhỏ tới các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, khiến các doanh nghiệp trở tay không kịp. Vì vậy, việc thua lỗ trong hoạt động
kinh doanh là điều khó có thể tránh khỏi. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mà còn tác động xấu tới hoạt động cung ứng tín dụng của các
ngân hàng thương mại cũng như khiến các ngân hàng đứng trước nguy cơ nợ xấu gia tăng.
Thứ ba, tình trạng nợ xấu bất động sản gia tăng: Thị trường bất động sản bắt đầu có
những dấu hiệu chững lại vào hồi cuối năm 2007 và mới có dấu hiệu ấm dần lên vào
những tháng đầu năm 2009 này. Khi mà thị trường bất động sản trở nên kém thanh khoản,
thêm vào đó là những khó khăn trong việc giải chấp tài sản thì vấn đề nợ quá hạn, nợ xấu
của ngân hàng dần trở nên bức thiết hơn. Các ngân hàng không thể cứ tiếp tục trích lập dự
phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu bất động sản mà phải có cả những biến động tích cực
hơn từ thị trường địa ốc.
1.1.4 Dấu hiệu nhận biết một khoản nợ xấu:

Một khoản nợ được coi là nợ xấu về cơ bản dựa trên 2 tiêu chí: quá hạn trên 90
ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ. Nhưng đó chỉ là những dấu hiệu cơ bản để có thể đánh
giá một khoản nợ là xấu, còn những dấu hiệu cụ thể để nhận biết nợ xấu được xem xét trên
2 khía cạnh: từ phía khách hàng, và từ bản thân ngân hàng cho vay.

×