Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực trong dạy học lịch sử 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 29 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài:
1.Có lý luận:
Hưởng ứng công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng tâm của đổi mới
chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học,
thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và
hướng dẫn thích hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương
pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong
học tập. Học sinh sẽ thích thú, hăng say và kết quả học tập của các em với bộ môn Lịch Sử cũng
có sự thay đổi lớn. Chính vì vậy tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu những phương pháp dạy học mới
theo xu thế phát triển chung của ngành giáo dục nước ta và thế giới. Để các em học sinh đạt được
một kết quả cao nhất , đặc biệt tạo cho các em sự đam mê trong học bộ môn lịch sử mà bấy lâu
nay mọi người thường gọi là khô khan.
Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát
huy tính tích cực trong dạy học lịch sử 12” .Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, việc đổi
mới phương pháp dạy học lấyhọc sinh làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất
của dạy học lấy học sinh làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo
của học sinh.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy
luật nhận thức của học sinh.Học sinh là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và
thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.

2.Có thực tiễn:
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chưa
có khả năng tự học, chỉ dựa vào những kiến thức do giáo viên truyền đạt, rồi học


thuộc lòng nên khi quên một chữ đầu là quên tất cả. Học sinh chỉ học bài nào biết
bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với
nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ
tư duy giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.


II.Mục đích và phương pháp nghiên cứu.
1.Mục đích
Mục đích của tôi nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ
môn Lịch sử 12 ở trường THPT, hướng dẫn học sinh có thể hệ thống hóa kiến thức bằng sơ
đồ.Qua đó các em sẽ nhìn được tổng thể kiến thức một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ, rút ngắn
được thời gian ôn tập củng cố, giúp học sinh hiểu bài, nắm được kiến thức cơ bản và nhớ lâu.
2.Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu.
- Qua các tiết giảng dạy trên lớp 12B2, 12CB1 TRƯỜNG THPT TÂN AN.
- Điều tra hiệu quả của phương pháp qua phiếu điều tra, qua chất lượng học tập của học
sinh.
III. Giới hạn của đề tài
1.Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 12B2, 12CB1 TRƯỜNG THPT TÂN AN.
2.Phạm vi nghiên cứu :
Ứng dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy các bài lịch sử 12 hình thành kiến thức mới và
củng cố kiến thức.
Hướng dẫn học sinh học và ghi bài theo sơ đồ tư duy.
IV. Kế hoạch thực hiện
Để hoàn thành Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã thực hiện từ tháng 8/2012 đến 4/2013
để có kết quả xác thực
B. PHẦN NỘI DUNG:
I. Cơ sở lý luận
Theo Nghị quyết TW khóa VIII khẳng định, đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo nhằm
khắc phục lối truyền thụ kiến thức một chiều, rèn luyện, thành lập nếp tư duy sáng tạo của học
sinh. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học.


Thông qua việc đưa sơ đồ tư duy vào dạy học ở trường THPT, người giáo viên phải có kĩ
năng vận dụng tốt thì chất lượng tiết dạy mới có hiệu quả cao.

Như chúng ta đã biết, cùng với xu thế phát triển của thời đại như hiện nay, đòi hỏi mỗi
người phải có trình độ trí thức. Do vậy, việc học tập là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà
nước ta đặt lên hàng đầu. Qua đó trách nhiệm của người giáo viên càng được nâng cao.
Ta cũng thường nghe nói “Dạy học là một nghệ thuật”, đã nói là “nghệ thuật” thì bằng mọi
cách người giáo viên phải có kĩ năng vận dụng các phương pháp để truyền đạt kiến thức cho học
sinh.Tùy theo nội dung của từng tiết học mà người giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp với
đặc trưng của bộ môn và từng đối tượng học sinh. Không những thế giáo viên còn rèn luyện cho
học sinh kĩ năng quan sát, nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp…
Để đánh giá một tiết dạy có hiệu quả hay không đều do kĩ năng vận dụng tốt các phương
pháp giúp học sinh hiểu bài, nắm bài. Chính vì vậy mà kĩ năng sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học
Lịch sử có ý nghĩa rất lớn.
. Nhiệm vụ của mỗi thầy giáo, cô giáo hôm nay là phải làm thế nào để giúp cho học sinh
nắm được kiến thức cơ bản của bộ môn trên cơ sở hoạt động học tập của chính các em dưới sự
hướng dẫn của thầy để từ đó giáo dục cho các em tính độc lập suy nghĩ, tính sáng tạo, có đủ bản
lĩnh để đi vào các lĩnh vực của cuộc sống.

• Chúng ta đã được nghe nhiều về dạy học tích cực . Vậy dạy học tích
cực là gì? Theo tôi dạy học chỉ trở thành tích cực khi người học có nhu
cầu muốn hiểu biết về một vấn đề gì đó.... và khi người học sử dụng
mọi biện pháp để hiểu về vấn đề đó, vận dụng kiến thức đó vào cuộc
sống của mình có kết quả. Điều quan trọng là làm thế nào để học sinh
có nhu cầu hiểu biết, muốn hiểu biết và làm thế nào để biết thì đó là
công việc của mỗi một giáo viên. Vì vậy mới có câu: “Không thầy đố
mày làm nên”. Người thầy phải bằng mọi cách để cho học sinh được


hoạt động nhiều hơn, được đưa ra chính kiến của mình trong quá trình
học tập.
Với phạm vi bài viết này tôi xin trao đổi với các đồng nghiệp cách sử dụng sơ
đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử 12

II.Cơ sở thực tiễn
Năm học 2011-2012 là năm đầu tiên ngành Giáo dục và Đào tạo triển khai giảng dạy theo
sơ đồ tư duy ở bậc học THPT. Qua thực tế cho thấy việc giảng dạy này đã tạo hứng thú cho học
sinh. Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên để bài
học trở nên dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ hơn.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tìm hiểu, áp dung dạy học lịch sử bằng sơ đồ tư duy. Từ đó tôi
tự lập kế hoạch giảng dạy cho từng tiết học. Nếu không sử dụng phần mềm, giáo viên có thể linh
động sử dụng hình vẽ tay với những màu sắc, hình ảnh, từ ngữ diễn đạt khác nhau nhằm giúp học
sinh có thể nắm bắt và nhớ được phần cốt lõi của bài giảng ngay tại lớp.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn gọn thể hiện qua
mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh
nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài giảng và chú thích, giảng giải theo một ngôn ngữ dễ hiểu và
gần gũi với học sinh.
Vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa hay cả bài giảng như lúc
trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo
hướng dẫn của giáo viên cũng giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng.
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ,
vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần nào trong bài để ghi, thể


hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở
vào cuộc sống.
Để giảng dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên bảng rồi cho học
sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo
cách hiểu của mình sau đó giáo viên định hướng lại từng nội dung cho học sinh.
Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay tỷ lệ nhất định mà
là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy màu sắc và thực sự hiệu quả. Giảng
dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành
nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập.
III.Thực trạng và những mâu thuẫn

1. Thuận lợi-khó khăn.
*Thuận lợi.
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, học
sinh…
- Chương trình môn lịch sử 12 có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp dạy bài mới, củng cố
bài bằng sơ đồ tư duy phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc…
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng CNTT, đèn
chiếu, bảng phụ…
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho cả giáo viên và học sinh có điều kiện
cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.

tiếp


- Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy bài mới, củng cố bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi
học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng
thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực.
* Khó khăn:
- Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không tránh khỏi lúng túng
trong một số kĩ năng như sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng…
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh.
- Năng lực học sinh không đồng đều nên khi vẽ sơ đồ tư duy trong học tập là sự máy móc
không hiệu quả.
- Mặc khác, hạn chế của học sinh là chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ
học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức
trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong bài học, trong tài liệu tham khảo, hoặc
không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
- Với đặc thù môn học, lịch sử có nhiều nội dung kiến thức nên học sinh không

nhớ nổi toàn bộ kiến thức, phần lớn các em chỉ học thuộc lòng hay nhớ máy móc
Chính vì vậy để học sinh nắm vững nội dung bài học, giáo viên phải có kĩ năng vận dụng tốt bản
đồ tư duy vào dạy học lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.

2. Thành công – hạn chế
Qua một thời gian thử nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học bản thân tôi thấy có
nhiều tác dụng sau:
- Kết quả thực tế đã đạt được ở trên cho thấy chất lượng trung bình bộ môn được nâng cao,
trong đó tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng cao, tỉ lệ học sinh yếu giảm nhiều.
- Phát huy được tính tích cực của HS trong quá trình hoạt động trên lớp cũng như việc
nghiên cứu bài mới và học bài cũ ở nhà.
- Việc nắm kiến thức của HS vững chắc hơn, có hệ thống hơn và xóa được lổ hổng kiến thức
bộ môn.


- Qua sơ đồ tư duy học sinh đã xác định được trọng tâm vấn đề dễ dàng hơn, ghi nhớ kiến
thức được lâu hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian ôn tập.
- Sơ đồ tư duy phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT, thông qua việc bố trí trên
bản đồ giúp cho HS rèn luyện thêm về kiến thức mỹ thuật và bộ môn toán.
- Sơ đồ tư duy có tính mở nên kích thích được tất cả mọi đối tượng HS, phát huy cao tính
độc lập, và có thể chấp nhận kiến thức của các em theo các cung bậc khác nhau.
* Một số học sinh còn lười biếng, chưa thật sự tập trung và đầu tư cho sơ đồ tư duy của mình,
chỉ vẽ lại theo một sơ đồ phân nhánh, chưa xác định được vấn đề trọng tâm và những vấn đề liên
quan ,còn trình bày dài dòng, chưa thực sự có ý tưởng để xây dựng một sơ đồ tư duy để củng cố
và hệ thống lại kiến thức mà vẫn muốn dùng phương pháp học thuộc lòng.
Đề tài chỉ nghiên cứu áp dụng trên một số bài ở một số chương, chưa thực sự đánh giá hết
được tính khả thi của nó một cách triệt để. Một số học sinh lại lạm dụng nhiều hình vẽ trong sơ đồ
theo ý tưởng của mình, như vậy có thể làm mất thời gian cho việc tập trung triển khai các ý trong
nội dung bài cần thể hiện trên sơ đồ.
3. Mặt mạnh – mặt yếu

- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ
huynh, học sinh…
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng CNTT,
đèn chiếu, bảng phụ…
- Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không tránh khỏi lúng túng
trong một số kĩ năng như sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng…
4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Nguyên nhân khách quan:
- Nhiều học sinh có năng lực học tập tốt, chịu khó, chú ý tiếp thu bài, biết cách hệ thống
kiến thức từ bản đồ tư duy để nắm bài nhanh chóng và có hiệu quả.
- Một số học sinh học yếu, chưa quen với cách học mới nên còn lúng túng khi viết hoặc
triển khai nội dung từ bản đồ tư duy.


* Nguyên nhân chủ quan:
Giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy, vận dụng tốt các phương pháp đặc trưng của bộ môn
sao cho phù hợp với từng bài. Tuy nhiên do mới đưa vào, nhiều giáo viên còn bỡ ngỡ, nên cần
phải đầu tư nhiều thời gian để xây dựng bản đồ tư duy sao cho dễ nhớ, dễ nhìn nhưng đầy đủ nội
dung.
IV.Các biện phápgiải quyết vấn đề:
1.Mục tiêu:
Trước thực trạng trên, để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi xin trao đổi một số
kĩ năng sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Lịch sử 12
- Giúp học sinh biết:
+ Sơ đồ tư duy là gì?.
+ Cách sử dụng và ghi chép trên sơ đồ tư duy.
+ Cách lập sơ đồ tư duy.
- Giáo viên cần:
+ Chuẩn bị kĩ nội dung kiến thức tiết học thông qua bài soạn.
+ Lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung từng bài.

+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi sao cho phát huy được tính tích cực của học sinh.
+ Lựa chọn nội dung để giao cho nhóm hay cá nhân.
+ Xây dựng bản đồ tư duy, tùy theo nội dung của từng bài cho phù hợp (sử dụng bản đồ tư
duy để khai thác kiến thức mới hay để củng cố bài).
2. Cách thức thực hiện
* Giới thiệu người phát minh ra sơ đồ tư duy
-Tony Buzan sinh năm 1942 tại London (Anh), cha đẻ của phương pháp tư duy Mind map
(Sơ đồ tư duy, Giản đồ ý). Tác giả của 92 đầu sách, được dịch ra trên 30 thứ tiếng, xuất bản trên
125 quốc gia. Ông đi nhiều nước trên thế giới để phổ biến phương pháp của mình (ông đã đến
Việt Nam vào tháng 4 năm 2007)


Ở Việt Nam, đã có 2 quyển sách dịch từ công trình của ông đã được xuất bản
là Sơ đồ tư duy và Sử dụng trí não của bạn.

HÌNH ẢNH GIÁO SƯ TONY BUZAN GIỚI THIỆU VỀ SƠ ĐỒ TƯ DUY


+ Sơ đồ tư duy là gì?
*Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map)
- Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những
ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề… bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh,
đường nét, màu sắc, chữ viết…Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ là theo mạch tư
duy của mỗi người.
- Việc ghi chép thông thường theo từng hàng chữ khiến chúng ta khó hình dung tổng thể vấn đề,
dẫn đến hiện tượng đọc sót ý, nhầm ý.Sơ đồ tư duy tập trung rèn luyện cách xác định chủ đề rõ
ràng, sau đó phát triển ý chính, ý phụ một cách logic.
Sơ đồ tư duy có ưu điểm:
Dễ nhìn, dễ viết.
• Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh

• Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
• Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic.
- Sơ đồ tư duy sẽ giúp:
1. Sáng tạo hơn
2. Tiết kiệm thời gian
3. Ghi nhớ tốt hơn
4. Nhìn thấy bức tranh tổng thể


5. Phát triển nhận thức, tư duy
* Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:


Cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học sinh một số “sơ đồ
tư duy” cùng với dẫn dắt của giáo viên để các em định hướng nhanh hơn.



Hướng cho học sinh có thói quen khi tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ hoá trên sơ đồ tư
duy.



Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ hai, thứ ba... mỗi ý
lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có các ý nhỏ hơn ... các nhánh này như
“bố mẹ” rồi “con, cháu, chắt, chút, chít”... các đường nhánh có thể là đường thẳng hay
đường cong.




Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ tư duy trên giấy: Chọn từ khóa- tên chủ đề hoặc hình vẽ
của chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm.



Vẽ sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc từng cá nhân
- Đối với giáo viên:Để thiết kế một sơ đồ tư duy đối với một bài học, chúng ta có thể thiết kế

bằng bảng vẽ trên giấy, hoặc hệ thống kiến thức bằng sơ đồ trên bảng, hoặc có thể dùng phần
mềm Mindmap. Đối với phần mềm này giáo viên có thể thực hiện thành một giáo án hay một bài
giảng điện tử với kiến thức được xây dựng thành một sơ đồ, qua đó còn có thể kết hợp để trình
chiếu những nội dung cần lưu ý hay những đoạn phim có liên quan được liên kết với sơ đồ. Qua
đó có thể giúp học sinh hệ thống được kiến thức vừa học, khắc sâu được kiến thức trọng tâm.
- Đối với học sinh:Trước hết giáo viên phải giới thiệu một số sơ đồ tư duy cho các em làm
quen, sau đó hướng các em từ từ xây dựng các sơ đồ riêng cho mình. Bước đầu, chỉ yêu cầu học
sinh xác định được vấn đề trọng tâm, sau đó hệ thống các kiến thức liên quan thành sơ đồ phân
nhánh, rồi từ đó học sinh sẽ thiết kế thành những sơ đồ theo tư duy của mỗi cá nhân. Có thể áp


dụng dùng sơ đồ trước hay sau khi học một bài học, với bài học mới, có thể cho học sinh xây
dựng theo một nhóm, rồi dựa vào sơ đồ học sinh sẽ thảo luận, sau đó nhóm sẽ trình bày kiến thức
theo hình thức thuyết trình dựa trên sơ đồ đã xây dựng.Sau bài học, có thể yêu cầu học sinh tự hệ
thống lại kiến thức bằng sơ đồ theo cách riêng của mình. Việc phối hợp linh động nhiều phương
pháp trong quá trình giảng dạy, kết hợp với việc thiết lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức giúp
cho học sinh nắm được bài nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
* Cách ghi chép trên sơ đồ tư duy:
• Nghĩ trước khi viết.
• Viết ngắn gọn
• Viết có tổ chức
• Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống để có thể bổ sung ý (nếu sau này

cần)
- Điều cần tránh khi ghi chép trên sơ đồ tư duy:
• Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
• Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết.
• Dành quá nhiều thời gian để ghi chép.


* Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy:
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map,
chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
- Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề, hay có thể với một từ khóa
được viết in hoa, viết đậm. Một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp ta sử dụng trí
tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp ta tập trung được vào chủ đề và làm cho
ta hưng phấn hơn.
- Bước 2: Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình
ảnh.
- Bước 3: Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các
nhánh cấp một,…. bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác nhau.


- Bước 4: Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay đường cong.
- Bước 5: Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,…)
- Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.


Minh hoạ cách vẽ sơ đồ tư duy

*Lưu ý:
Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con.
Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt,

như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân
đối, hài hòa cho sơ đồ.
Không ghi quá dài dòng, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc làm rõ các ý, chủ đề.
Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu...
Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.




Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:

Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo
viên.

Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD
về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn giúp học sinh hoàn chỉnh
SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên
đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa
hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó
Sơ đồ tư duy trong day hoc bài mới
Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài học lên bảng bằng một hình vẽ
bất kì trên bảng của lớp mà không ghi bài theo kiểu cũ. Giáo viên cho học sinh ngồi theo nhóm

thảo luận sơ đồ tư duy của mỗi học sinh đã chuẩn bị trước ở nhà để đối chiếu với sơ đồ tư duy của
các bạn trong nhóm.
Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hôm nay có mấy nhánh lớn cấp số 1 và gọi
học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh lớn trên bảng có ghi chú thích tên từng
nhánh lớn.
Sau khi học sinh vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, giáo viên đặt câu hỏi tiếp ở nhánh thứ
nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2... tương tự học sinh đã hoàn thành nội dung sơ đồ tư duy của bài
học mới ngay tại lớp. Học sinh tự chỉnh sửa điều chỉnh bổ sung những phần còn thiếu vào sơ đồ
tư duy của từng cá nhân.


Để minh họa cho sơ đồ tư duy, giáo viên sẽ cho học sinh xem những hình ảnh , đoạn
phim ngắn minh họa cho rõ ý hơn của từng nhánh cấp độ 1, cấp độ 2 ... Khi cho học sinh xem
hình ảnh và phim minh họa giáo viên phải giáo dục tư tưởng tình cảm học sinh khi có liên quan
đến phần tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đến lịch sử địa phương Trà Vinh và cả huyện
Càng Long.
Củng cố : Giáo viên gọi học sinh lên bảng trình bày nội dung sơ đồ tư duy mà các em đã
thực hiện. Giáo viên nhận xét, đánh giá và dặn dò học sinh chuẩn bị bài học lần sau.
*Hướng dẫn học sinh :
Để định hướng cho HS chuẩn bị bài : Yêu cầu HS phải đọc bài và nghiên cứu nắm được các
mục trong bài để thể hiện những đơn vị kiến thức của bài học .
Ví dụ minh hoạ: Khi dạy bài 1. SỰ HÌNH THÀNH TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1945-1949)
Giáo viên hướng dẫn học sinh nghiên cứu một số nội dung sau: Nói về Liên hợp quốc cần nêu
được ra đời, mục đích, nguyên tắc, bộ máy, ý nghĩa.


Sơ đồ sử dung cho bài 4. CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á VÀ ẤN ĐỘ



Sơ đồ sử dụng cho bài 6. NƯỚC MĨ


Bài 23. TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975
(do 3 nhóm Hs thực hiện)


Nhóm 1: Vẽ sơ đồ tư duy chiến dịch Tây Nguyên

Nhóm 2: Vẽ sơ đồ tư duy chiến dịch Huế- Đà Nẳng


Nhóm 3: Vẽ sơ đồ tư duy chiến dịch Hồ Chí Minh
3. Điều kiện thực hiện
- Giáo viên, học sinh có thể sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hoá một vấn đề, một chủ đề, ôn
tập kiến thức…
- Học sinh hoạt động nhóm thông qua sơ đồ tư duy trên lớp học, hoặc hoạt động cá thể, ôn
luyện tập ở nhà…
- Phương tiện để thiết kế sơ đồ khá đơn giản, chỉ cần giấy, bìa, bảng phụ, phấn màu, bút chì
màu, tẩy,…hoặc dùng phần mềm Mindmap, vì vậy có thể vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật
chất nào của các nhà trường hiện nay. Điều quan trọng là giáo viên hướng cho học sinh có thói
quen lập sơ đồ tư duy trước hoặc sau khi học một bài hay một chủ đề, một chương, để giúp các
em có cách sắp xếp kiến thức một cách khoa học, lôgic.


- Đối với một bài học, để xây dựng được sơ đồ tư duy đảm bảo nội dung kiến thức, có thể hệ
thống kiến thức một cách đầy đủ và logic, thì giáo viên cần phải xác định được mục tiêu của bài,
nêu được nội dung chính của bài đảm bảo theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Qua đó hướng học sinh
lưu ý trọng tâm, định hướng được nội dung bài học cần nắm để có thể tự hệ thống lại bằng sơ đồ.
4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.

Giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh nhưng học sinh
vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy bằng sơ đồ tư duy, nhất là cho học
sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài
học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài giảng, thay vì
phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình. Đến
tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. Giảng
dạy theo sơ đồ tư duy mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật
chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa, bảng bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn
màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy. Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn
đề một cách hệ thống, khoa học.
Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói quen tự tay ghi chép hay
tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học, theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư
duy.
Sau khi cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo viên đưa ra một chủ
đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào trang vở, tờ giấy/ bìa) rồi đặt câu hỏi
gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... Mỗi bài học được tự vẽ kiến thức trọng
tâm trên một trang giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần.


Đối với học sinh: Thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát triển khả năng thẩm mỹ do
việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng khoa
học, súc tích… Và đó chính là để học sinh “Học cách học”: Học sinh được học để tích lũy kiến
thức, nhưng từ trước đến nay học sinh chưa biêt cách học cách để lĩnh hội những kiến thức bộ
môn lịch sử một cách hiệu quả.

V. Hiệu quả áp dụng
*.Trước khi áp dụng phương pháp:
Kết quả khảo sát bài kiểm tra lần I


Tổng

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

số
Lớp
học

SL

TL(%)

SL

TL(%)

SL

TL(%)

SL

TL(%)


sinh
12B2

28

2

7,14%

6

21,4%

12

42,99 %

8

28,57%

12CB1

26

1

3,8%

5


19,2%

11

42,4%

9

34,6%

*.Sau khi áp dụng phương pháp:
Kết quả khảo sát bài kiểm tra lần II

Lớp

Tổng
số

Giỏi
SL

TL(%)

Khá
SL

TL(%)

Trung bình

SL

TL(%)

Yếu
SL

TL(%)


học
12B2

28

6

21,4%

11

39,3%

9

32,2%

2

7,1%


12CB1

26

4

15,4%

13

50%

6

23,1%

3

11,5%

* Nhận xét:
Sau thời gian áp dụng phương pháp mới, kết quả đạt được như sau:
-

Tỉ lệ học sinh giỏi và khá tăng lên rõ rệt

-

Tỉ lệ học sinh trung bình và yếu giảm xuống.


C.Kết luận
I.Ý nghĩa của đề tài đối với công tác giảng dạy, học tập
Qua một năm thực hiện đề tài SNKN “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở
trường THPT để chấm dứt việc đọc chép và nhìn chép theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào
tạo” tôi nhận thấy tiết học đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với cách dạy truyền thống là đọc chép
hoặc một tiết dạy chỉ sử dụng bằng bài giảng điện tử cho học sinh nhìn chép.
Xem phim mãi, thảo luận một cách thụ động máy móc, xem bài giảng điện tử mãi học
sinh dần dần cũng không còn cảm hứng say mê học tập mà chỉ ngồi nghe thầy cô, bạn bè nói xong
hết tiết học các em cũng chẳng còn nhớ bao nhiêu vì bản thân các em cũng ít được tham gia trực
tiếp vào quá trình dạy học.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy lịch sử sẽ bắt buộc tất cả 100% học sinh đều phải
động não, sáng tạo và chỉ trong một tờ giấy các em có thể trình bày nội dung của bài học. Học sinh
sẽ tự khám phá và khi tạo được một tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và các bạn
ngợi khen sẽ phấn khởi rất nhiều.
Các em khác cũng sẽ cố gắng tự hoàn thiện mình và mỗi học sinh có một tính cách, một
ý tưởng rất khác nhau khi trình bày sơ đồ tư duy của mình nhưng điều quan trọng là các em biết


×