Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Công tác xã hội với người có HIV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.36 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay đại dịch HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính
mạng, sức khỏe, con người và tương lai nòi giống của các quốc gia, các dân tộc trên toàn cầu.
Nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về kinh tế, văn hóa, an ninh trật tự và an toàn xã hội; đe
dọa sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đáng lo ngại hơn là HIV/AIDS
đang lan tràn mạnh mẽ ở khắp các vùng miền từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến hải
đảo xa xôi của đất nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới. Hiện nay vẫn chưa có một loại
thuốc nào có thể chữa khỏi bệnh HIV/AIDS.
Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực can thiệp trong hỗ trợ dự phòng, chăm sóc, điều trị cho
người nhiễm HIV/AIDS: chương trình giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi phòng lây
nhiễm HIV/AIDS; Chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS, chương trình dự
phòng lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ sang con; chương trình an toàn truyền máu… Tuy nhiên tỷ
lệ người nhiễm HIV vẫn ở mức rất đáng lưu tâm
Chăm sóc, trợ giúp người nhiễm HIV/AIDS sẽ được coi là toàn diện nếu như họ được
chăm sóc hỗ trợ cả về mặt y tế, sức khỏe và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ Nhân viên
Công tác xã hội trơng trợ giúp người nhiễm HIV/AIDS còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng.
Điều này ảnh hưởng lớn đến công tác phòng chống HIV/AIDS nói chung và chất lượng trợ
giúp nhóm đối tượng này nói riêng.
Vì còn là sinh viên chưa đủ kiến thức, kinh nghiệm, cách nhìn nhận vấn đề còn hạn chế
trong khuôn khổ nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi thiếu sót, kính mong sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn TS.Tiêu Thị Minh Hường - giảng viên bộ môn Công tác xã
hội với người có HIV đã hướng dẫn cụ thể để em hoàn thiện bài tiểu luận của mình tốt
nhất.

1


PHẦN 1. Cơ sở lí luận
1. Lý do chọn đề tài
Bạn hay gia đình bạn đã bao giờ bị kỳ thị, phân biệt đối xử chưa? Nếu bị kỳ thị,


phân biệt đối xử bạn hay gia đình bạn sẽ cảm thấy như thế nào?.
Đã có rất nhiều bằng chứng mới được thu thập về việc nhiều người nhiễm HIV còn đang
bị cô lập và chối bỏ ngay trong chính gia đình của mình, cũng như trong cộng đồng và các mối
quan hệ xã hội. Các bằng chứng cũng cho thấy việc phát hiện nhiễm HIV có thể dẫn đến bị mất
việc làm, mất quyền sở hữu tài sản, và không được nhận vào trường học. Người nhiễm HIV
còn bị bạo hành, bị từ chối cung cấp các dịch vụ y tế hay dịch vụ trợ giúp xã hội, và gặp khó
khăn trong việc tiếp cận trợ giúp pháp lý.
Hơn 30 năm đương đầu với đại dịch HIV/AIDS, bên cạnh nhiều thành tựu đã đạt được
trong phòng, chống HIV/AIDS thì tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến nhiễm
HIV/AIDS vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Một số quốc gia vẫn
còn những quy định cấm người nhiễm HIV nhập cảnh và cư trú hoặc tồn tại tình trạng kỳ thị,
phân biệt đối xử và bạo hành giới liên quan đến HIV/AIDS. Kỳ thị và phân biệt đối xử là một
trong những rào cản quan trọng khiến những người có hành vi nguy cơ cao và những người
nhiễm HIV không dám tiếp cận đến các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, trong đó có các dịch
vụ dự phòng, can thiệp giảm hại, xét nghiệm và điều trị HIV.
Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, các hoạt động truyền thông-thay đổi hành vi liên
quan đến HIV/AIDS được triển khai rộng rãi. Nhân dân đã có thông tin, hiểu biết về
HIV/AIDS, ví dụ HIV/AIDS là gì, các đường lây nhiễm HIV/AIDS... nhờ đó, tình trạng kỳ thị,
phân biệt đối xử đối với HIV/AIDS đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, sự kỳ thị và phân biệt
đối xử với những người nhiễm HIV vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, với nhiều biểu hiện khác nhau,
từ ngấm ngầm đến công khai, thô bạo. Những người nhiễm HIV/AIDS vẫn phải ăn riêng, ở
riêng, miễn cưỡng giao tiếp, một số nhân viên y tế cũng ngại hoặc miễn cưỡng khi tiếp xúc,
chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS, bị xa lánh, đưa vào các cơ sở tập trung…Trong đó, Thành
phố Hà Nội là một trong số những thành phố có số người nhiễm HIV/AIDS cao và tại đây sự
phân biệt kỳ thị với người có HIV diễn ra mạnh mẽ.
Vì lo sợ kỳ thị, phân biệt đối xử mà nhiều người, đặc biệt là những nhóm người nguy cơ
cao không dám đi xét nghiệm HIV/AIDS, khiến cho việc phát hiện HIV rất khó khăn. Khi bị
nhiễm HIV mà không được phát hiện thì sẽ rất nguy hiểm, gây lây nhiễm HIV cho người khác
trong xã hội. Kỳ thị và phân biệt đối xử không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân người nhiễm HIV
hoặc những người có hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV, mà còn tiếp tay cho HIV âm thầm

lây lan trong cộng đồng. Những người nhiễm HIV e sợ thái độ kỳ thị hoặc bị phân biệt đối xử

2


sẽ tránh né xét nghiệm và không áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV. Sợ hãi không
dám xét nghiệm HIV đồng nghĩa với việc họ có thể vô tình làm lây lan HIV sang người thân
hoặc những người khác trong cộng đồng. Do vậy, từ chỗ lẽ ra chỉ có một người nhiễm HIV
nhưng do không biết tình trạng nhiễm của bản thân, nên đã để HIV lây lan. Điều này xảy ra khi
người dân sợ hãi giấu diếm không dám xét nghiệm HIV vì sợ không biết sẽ bị đối xử thế nào
khi có kết quả xét nghiệm dương tính. Kỳ thị và phân biệt đối xử còn là rào cản to lớn đối với
việc hưởng đầy đủ các quyền của người nhiễm HIV, bao gồm quyền học tập, lao động và sinh
hoạt như những người không nhiễm HIV. Trong khi đây là những quyền mà người nhiễm HIV
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Là một nhân viên công tác xã hội tương lai, em hy vọng trên thế giới nói chung hay ở
Việt Nam nói riêng sẽ không còn tình trạng xa lánh và kỳ thị với những người có HIV nữa.
Những nhà công tác xã hội nói riêng cũng như cả cộng đồng nói chung hãy cùng nhau chung
sức xóa bỏ đại dịch HIV/AIDS,cùng nhau xây dựng một xã hội ngày càng tươi đẹp. Vì vậy, em
xin chọn vấn đề " Ảnh hưởng của sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người có HIV tại
Thành phố Hà Nội " làm đề tài tiểu luận của mình.

2. Những kiến thức cơ bản về HIV/AIDS
2.1. Khái niệm và một số đặc điểm về HIV
- Khái niệm về HIV: HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Human
Immunodeficiency Virus" là loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người,
làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh.

Người mang HIV trong máu thường được gọi là người nhiễm HIV
- Một số đặc điểm cơ bản của HIV :
+ Về cấu tạo


3


Kích thước của HIV vô cùng nhỏ bé, chỉ vào khoảng từ 80 – 120 nanomét (01 nanomét
chỉ nhỏ bằng 01 phần tỷ mét). Nhờ kích thước nhỏ bé này HIV có thể xâm nhập vào cơ thể
thông qua các vết xây xước rất nhỏ và có thể qua cả niêm mạc.
Bề mặt của HIV có rất nhiều gai nhú, các gai nhú này giúp nó dễ dàng bám và đột nhập
rất nhanh vào các tế bào bạch cầu - những tế bào vốn có chức năng bảo vệ cơ thể chống lại
bệnh tật.
+ Một số đặc điểm lý hóa
Vỏ của HIV được cấu tạo bởi lớp lipid kép. Chính lớp vỏ kép này giúp cho HIV giữ
được sức bền của bề mặt để có thể tồn tại lâu hơn khi khi nó ở ngoài cơ thể. Nhờ đó HIV có thể
tồn tại ngoài môi trường từ vài ngày đến một tuần, nhất là khi nó nằm trong các mẫu máu dính
trong các bơm kim tiêm đã sử dụng.
HIV có thể tồn tại ở trong xác cơ thể bệnh nhân AIDS đã chết trong vòng 24 giờ. Nhiệt
độ dưới 0oC, tia X, tia cực tím không giết được HIV. Tuy nhiên, khi ở ngoài cơ thể, dưới tác
động của nhiệt độ và các chất sát trùng thông thường HIV lại bị tiêu diệt. Ví dụ: HIV bị tiêu
diệt sau 30 phút ngâm trong cồn 70 độ, dung dịch Cloramin 1%, nước Javen 1%... Do vậy, nếu
ta ngâm dụng cụ tiêm, chích trong cồn 70 độ hoặc quần áo, đồ vải có dính máu nhiễm HIV vào
dung dịch Cloramin 1%, nước Javel 1% trong 30 phút... là có thể tiêu diệt được HIV. Nếu bị
đun sôi trong 20 phút (kể từ khi nước sôi) thì HIV sẽ bị chết. Do vậy, nếu chúng ta luộc các
dụng cụ phẫu thuật, tiêm, chích... (bằng thuỷ tinh hay kim loại) 20 phút kể từ khi nước sôi
trước mỗi khi sử dụng thì đã có thể diệt được HIV...
2.2 Khái niệm về AIDS
AIDS là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Acquired Immune Deficiency Syndrome" là
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do HIV gây ra, thường được biểu hiện thông
qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong.
AIDS được coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Tuy nhiên, mỗi người khi
mắc AIDS sẽ có những triệu chứng khác nhau, tuỳ theo loại bệnh nhiễm trùng cơ hội mà người

đó mắc phải và khả năng chống đỡ của hệ miễn dịch mỗi người.
2.3 Cơ chế hoạt động của HIV/AIDS
Hệ miễn dịch của con người, với thành phần chủ lực là bạch cầu, là lực lượng bảo vệ cơ
thể chống lại sự tấn công của các loại tác nhân gây bệnh xâm nhập từ bên ngoài hoặc mầm
bệnh ung thư phát sinh từ một số tế bào trong cơ thể.
Trong đội ngũ bạch cầu, có một loại đặc biệt gọi là lympho bào T có điểm thụ cảm CD4
(gọi tắt là tế bào CD4), đóng vai trò như một “Tổng chỉ huy”, có nhiệm vụ điều phối, huy động
hay “rút lui” toàn bộ hệ thống miễn dịch của cơ thể.

4


Sau khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công ngay vào các bạch cầu, nhất là lympho bào TCD4. HIV sử dụng chính chất liệu di truyền của các tế bào bạch cầu này để nhân lên, để sinh
sôi nảy nở.
HIV phá huỷ bạch cầu ngày càng nhiều, dẫn đến hệ miễn dịch của cơ thể bị suy giảm
dần, cuối cùng là bị “vô hiệu hóa” và điều đó có nghĩa là cơ thể con người không còn được bảo
vệ nữa. Lúc đó, mọi mầm bệnh khác như vi trùng, siêu vi trùng nhân cơ hội gây bệnh (nhiễm
trùng cơ hội) và cả tế bào ung thư “mặc sức hoành hành” gây nên nhiều bệnh nguy hiểm... và
dẫn đến tử vong.
2.4 Các giai đoạn phát triển của HIV/AIDS
Quá trình từ nhiễm HIV thành AIDS dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức
đề kháng của người nhiễm, lối sống và sinh hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự chăm sóc của
gia đình, người thân, mức độ kỳ thị phân biệt đối xử của xã hội...
Quá trình phát triển từ nhiễm HIV thành AIDS có thể trải qua một số giai đoạn và sự
phân chia giai đoạn này có thể khác nhau trong các tài liệu khác nhau, nhưng nhìn chung có thể
chia làm 03 giai đoạn chính :
Giai đoạn 1 : Giai đoạn cấp tính
- Đa số người nhiễm HIV trong giai đoạn đầu thường không có biểu hiện gì ra bên ngoài
để người khác có thể biết được, thậm chí kể cả bác sĩ khám bệnh tổng quát. Một số trường hợp
khi mới nhiễm HIV có thể sốt, nổi hạch, nổi ban đỏ trong 8 đến 10 ngày rồi trở lại bình thường

rất giống với các bệnh cảm cúm thông thường nên không có đặc điểm gì riêng để nhận biết. Vì
vậy đối với nhiễm HIV có thể xem như không có triệu chứng nào là triệu chứng đầu tiên để biết
đã bị nhiễm.
- Thời gian: Vài tuần có khi 6 tháng đến 1 năm
- Giai đoạn này chưa có kháng thể kháng virus HIV nên xét nghiệm âm tính: Khi HIV
xâm nhập vào cơ thể, chúng tấn công các tế bào miễn dịch CD4 và dựa vào các tế bào này để
sinh sôi nẩy nở hàng triệu phiên bản trong mỗi ngày và virus sẽ lan tràn trong cơ thể. Trong lúc
này, cơ thể cố gắng bảo vệ trước sự tấn công của HIV bằng những cơ chế sau:
+ Tạo ra kháng thể dính vào virus và không cho virus sinh sôi thêm.
+ Các tế bào đặc biệt có tên macrophages và các tế bào T giúp cơ thể giết chết HIV. Nếu
tìm thấy kháng thể chống HIV trong máu, có nghĩa là cơ thể đang cố gắng tự bảo vệ trước sự
tấn công của HIV. Tuy nhiên, lượng kháng thể chỉ đủ để có thể phát hiện qua các xét nghiệm
sau vài tháng cơ thể đã bị nhiễm. Do vậy trong khoảng thời gian cơ thể bị hội chứng HIV cấp
tính thì các kết quả xét nghiệm tìm HIV vẫn có thể âm tính. Khi đó người ta có thể dùng đến
xét nghiệm tìm RNA của HIV trong máu. RNA là một đoạn di truyền của HIV. RNA được sản

5


sinh khi HIV đang hoạt động. Xét nghiệm này có thể cho biết cơ thể có bị chứng HIV cấp tính
hay không.
Giai đoạn 2 : Giai đoạn không triệu chứng
- Thời gian: kéo dài trong vài năm đến trên 10 năm.
- Triệu chứng: Người bệnh không có biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng.
- Người nhiễm HIV đã có kháng thể kháng virus trong máu ( xét nghiệm +) nhưng
không có triệu chứng gì.
- Người nhiễm HIV vẫn lao động và sinh hoạt bình thường.
- Giai đoạn này HIV không lây nhiễm qua tiếp xúc thông thường, chỉ lây qua 3 đường
cơ bản.
- Điều trị sẽ kéo dài thời gian chuyển thành AIDS.

Giai đoạn 3 : Giai đoạn AIDS
Nhiễm HIV không có nghĩa là AIDS. Từ khi nhiễm HIV cho đến khi chuyển thành
AIDS là một khoảng thời gian dài trong nhiều năm. Trong thời gian đó người nhiễm vẫn sống
khoẻ mạnh và làm việc bình thường để sinh sống. Khi cơ thể bị nhiễm HIV sẽ có 3 xu hướng
phát triển:
- Hoặc người đó mang virus HIV kéo dài khoảng 10 năm hoặc lâu hơn mà vẫn khoẻ
mạnh và làm việc bình thường nếu người đó thay đổi hành vi, thực hiện chế độ dinh dưỡng và
rèn luyện thân thể tốt.
- Hoặc sẽ phát triển thành AIDS trong vòng 5-7 năm nếu để cho HIV diễn biến tự nhiên
trong cơ thể.
- Hoặc sẽ diễn biến rất nhanh thành AIDS trong vòng vài năm nếu tiếp tục có hành vi
nguy cơ (như dùng chung bơm kim tiêm khi tiêm chích, tiếp tục quan hệ tình dục không an
toàn với nhiều người...) .
Trong giai đoạn này người bệnh thường gặp các triệu chứng: tiêu chảy, sụt cân, ung thư
da, loét da, liêm mạc, lao, nám...
Giai đoạn này không lây qua chăm sóc nếu sử dụng đúng các dụng cụ bảo hộ.
2.5 Các con đường lây truyền HIV/AIDS
Trong cơ thể người nhiễm, người ta đã tìm thấy HIV có ở phần lớn các dịch của cơ thể,
như máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt, nước tiểu, sữa mẹ... Tuy nhiên, nhiều
nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy rằng chỉ có trong máu, dịch sinh dục (tinh dịch của nam và

6


dịch tiết âm đạo của nữ) và trong sữa của người nhiễm HIV mới có đủ lượng HIV có thể làm
lây truyền HIV từ người nọ sang người kia.
Do đó, trên thực tế chỉ có 3 đường (phương thức) làm lây truyền HIV sau:
- Đường máu;
- Đường tình dục;
- Đường truyền từ mẹ sang con;

* Ngoài ra còn có một số đường không làm lây truyền HIV/AIDS
HIV không lây qua các tiếp xúc thông thường, như:
- Các hành vi giao tiếp thông thường;
- Ho, hắt hơi, nước bọt, nước mắt, mồ hôi;
- Cùng làm việc, cùng học, ở cùng nhà, cùng ngồi trên phương tiện giao thông, cùng đi
chợ, ngồi trong rạp hát, rạp chiếu bóng...;
- Dùng chung nhà vệ sinh, buồng tắm, bể bơi công cộng. . .
- Muỗi và các côn trùng khác đốt không làm lây nhiễm HIV...
Như vậy, chúng ta có thể sống, làm việc, học tập... chung với người nhiễm HIV mà
không sợ bị lây nhiễm HIV nếu ta không có sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch sinh dục và các
dịch sinh học khác của họ.
2.6 Cách phòng tránh
*

Dựa vào đường lây nhiễm HIV, có các biện pháp phòng sau:
_ Phòng nhiễm HIV/AIDS lây qua đường tình dục
+ Sống lành mạnh, chung thuỷ một vợ một chồng, không quan hệ tình dục bừa bãi.

+ Trong trường hợp quan hệ tình dục với một đối tượng chưa rõ có bị nhiễm HIV không,
cần phải thực hiện tình dục an toàn để bảo vệ cho bản thân bằng cách sử dụng bao cao su đúng
cách.
+ Phát hiện sớm và chữa trị kịp thời các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng giúp
giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS vì những tổn thương do nhiễm trùng lây truyền qua
đường tình dục sẽ là cửa vào lý tưởng cho HIV.
_ Phòng nhiễm HIV/AIDS lây qua đường máu

7


+ Không tiêm chích ma túy.

+ Chỉ truyền máu và các chế phẩm máu khi thật cần thiết, và chỉ nhận máu và các chế
phẩm máu đã xét nghiệm HIV.
+ Chỉ sử dụng bơm kim tiêm vô trùng. Không dùng chung bơm kim tiêm. Sử dụng dụng
cụ đã tiệt trùng khi phẫu thuật, xăm, xỏ lỗ, châm cứu,...
+ Tránh tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể của người nhiễm HIV.
+ Dùng riêng đồ dùng cá nhân: dao cạo, bàn chải răng, bấm móng tay,...
_ Phòng nhiễm HIV/AIDS lây truyền từ mẹ sang con
+ Người phụ nữ bị nhiễm HIV thì không nên có thai vì tỷ lệ lây truyền HIV sang con là
30%, nếu đã có thai thì không nên sinh con.
+ Trường hợp muốn sinh con, cần đến cơ sở y tế để được tư vấn về cách phòng lây nhiễm
HIV cho con.
+ Sau khi đẻ nếu có điều kiện thì nên cho trẻ dùng sữa bò thay thế sữa mẹ.

3. Công tác xã hội với người có HIV
3.1 Vai trò của công tác xã hội với người nhiễm HIV
Khái niệm công tác xã hội với người nhiễm HIV/AIDS: Là sự vận dụng các lý thuyết
về HIV/AIDS, người có HIV/AIDS nhằm khôi phục chức năng xã hội, giải quyết các vấn đề
liên quan đến người có HIV/AIDS. Can thiệp, trợ giúp cá nhân, nhóm người có HIV/AIDS
thoả mãn các nhu cầu. Đồng thời, ngăn chặn sự lây lan của HIV.
* Vai trò của nhân viên xã hội với người có HIV :
-

Vai trò nhà tham vấn tâm lý

-

Vai trò người biện hộ

-


Vai trò người vận động nguồn lực

-

Vai trò là người kết nối

8


-

Vai trò là người tạo sự thay đổi

-

Vai trò là người chăm sóc, trợ giúp

3.2 Những hoạt động dịch vụ trợ giúp
* Chương trình thông tin giáo dục, truyền thông
Các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông (IEC) và truyền thông thay đổi hành vi
(BCC) đã được triển khai trên toàn quốc với sự tham gia của các bộ, ban ngành, đoàn thể, bằng
nhiều hình thức đa dạng. Tạp chí, báo in, tờ tin, panô, áp phích, khẩu hiệu và các tờ rơi về
HIV/AIDS đã được phân phát cho những người dân trong cộng đồng. Các hoạt động IEC/BCC
được triển khai bao gồm đào tạo tập huấn, giáo dục đồng đẳng cho các nhóm có hành vi nguy
cơ cao, tư vấn trực tiếp và qua đường dây nóng, các cuộc thi hiểu biết về HIV/AIDS, các buổi
tọa đàm mang tính chất giáo dục, triển lãm ảnh và các câu chuyện về HIV/AIDS, các bài báo
viết mang tính giáo dục, hướng dẫn thay đổi hành vi ngày một nhiều hơn trên các báo viết, báo
điện tử, báo nói, báo hình, các phóng sự truyền hình, toạ đàm truyền hình và những bộ phim
truyền tải nhiều thông điệp dự phòng nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS với sự tham gia của người
nhiễm HIV/AIDS trong công tác phòng chống HIV/AIDS được phát sóng trên Đài truyền hình

Trung ương và các Đài truyền hình địa phương...
* Chương trình can thiệp giảm tác hại
Chương trình can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV đã được tiến hành ở tất cả
các tỉnh/thành phố của cả nước, trong đó 60/63 tỉnh/thành phố triển khai được hoạt động cung
cấp và hướng dẫn sử dụng bơm kim tiêm (Gia Lai, Kom Tum và Bạc Liêu chưa triển khai) và
63/63 tỉnh/thành phố triển khai cung cấp và hướng dẫn sử dụng bao cao su (BCS).
* Chương trình giám sát, theo dõi và đánh giá
Các hoạt động gồm thu thập chỉ số cảnh báo sớm HIV kháng thuốc (thực hiện từ năm
2008), theo dõi sự xuất hiện của HIV kháng thuốc ở những người đang điều trị ARV phác đồ
bậc 1 và điều tra ngưỡng HIV kháng thuốc: Đánh giá tình trạng HIV kháng thuốc trong cộng
đồng.
* Chương trình chăm sóc và điều trị cho người HIV/AIDS
Một loạt các văn bản Chính sách và pháp luật đã được tập trung xây dựng và ban hành
nhằm đảm bảo cho Quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc và điều trị của người nhiễm HIV/AIDS.
Hệ thống các cơ sở điều trị HIV/AIDS đã được thiết lập từ Trung ương đến địa phương. Tùy

9


thuộc vào tình hình dịch HIV/AIDS, nhiều tỉnh, thành phố đã có các mô hình chăm sóc và điều
trị toàn diện, liên tục tại tuyến huyện. Với nỗ lực từ Chính phủ và sự hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế, số người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc ARV liên tục tăng.
* Chương trình dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con
Nhằm giảm tối đa tình trạng trẻ nhiễm HIV từ mẹ đồng thời cải thiện chất lượng cuộc
sống của phụ nữ mang thai nhiễm HIV, trong những năm qua Chính phủ đã xác định Dự phòng
lây truyền HIV từ mẹ sang con là một trong những can thiệp ưu tiên trong chương trình Phòng,
chống HIV/AIDS.
Các dịch vụ về Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đang được cung cấp bao gồm:
+Tư vấn xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai
+ Cung cấp thuốc ARV dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con

+ Cung cấp sữa ăn thay thế sữa mẹ
+ Chuyển tiếp dịch vụ sau sinh: Chăm sóc và điều trị tiếp tục cho mẹ nhiễm HIV,
chăm sóc và theo dõi trẻ sinh từ mẹ nhiễm HIV tại các cơ sở chăm sóc nhi khoa.
* Chương trình an toàn truyền máu
Nâng cao chất lượng sàng lọc HIV các đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi truyền,
cung cấp đủ và kịp thời sinh phẩm có chất lượng tốt cho công tác sàng lọc máu, bảo đảm sàng
lọc HIV 100% các đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi truyền. Từng bước xã hội hoá công
tác an toàn trong truyền máu thông qua việc tính đủ giá thành đơn vị máu và chế phẩm máu
* Phòng chống các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục
Nhiều hoạt động khác nhau đã được triển khai nhằm giảm tỉ lệ nhiễm STI như tổ chức
các hoạt động IEC/BCC về dự phòng lây nhiễm STI cho cả các nhóm đối tượng đích có hành vi
nguy cơ cao và nhân dân trong cộng đồng; nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân viên y tế làm
việc trong hệ thống quản lý STI; tăng cường hệ thống giám sát STI lồng ghép với chương trình
chăm sóc sức khỏe sinh sản, cùng với việc cung cấp trang thiết bị, bộ xét nghiệm và các loại
thuốc điều trị.
3.3 Chăm sóc người có HIV tại nhà
Chăm sóc người có HIV tại nhà (CSTN) là một phần thiết yếu của chăm sóc giảm nhẹ.
Nhóm CSTN cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho người có HIV và gia đình họ, gồm tư vấn,
hướng dẫn cách tự chăm sóc, xử trí các triệu chứng đau và các triệu chứng thông thường khác
tại nhà, phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm cần chuyển tới các cơ sở y tế, hỗ trợ tuân thủ điều trị

10


ARV, các điều trị khác và xử trí các tác dụng phụ thông thường các các thuốc; tư vấn, hỗ trợ về
tinh thần, tâm lý. CSTN còn giúp cho người có HIV và gia đình họ tiếp cận với các dịch vụ hỗ
trợ xã hội và hỗ trợ khác, chăm sóc cuối đời, hỗ trợ trẻ em và các thành viên khác trong gia
đình bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
* Các nguyên tắc
- Tính tự nguyện: Tất cả người nhiễm HIV có quyền nhận dịch vụ CSTN khi có nhu cầu. Các

nhóm chăm sóc tại nhà cần tôn trọng quyền quyết định nhận dịch vụ chăm sóc tại nhà hay
không nhận dịch vụ của những người nhiễm HIV và gia đình họ.
- Tính bảo mật: Cung cấp dịch vụ CSTN cần tuân theo Luật phòng, chống HIV/AIDS. Thông tin
về tình trạng nhiễm HIV của người bệnh cần được giữ bí mật. Các nhân viên CSTN phải ký
vào bản cam kết giữ bảo mật thông tin cho người nhiễm HIV và cung cấp dịch vụ có chất
lượng khi tham gia vào nhóm CSTN. Toàn bộ hồ sơ của người nhiễm HIV cần được cất trong
tủ có khóa, chỉ những nhân viên có liên quan mới được tiếp cận hồ sơ.
- Nâng cao năng lực của người nhiễm HIV và gia đình họ: Các thành viên nhóm CSTN cần
hướng dẫn cách tự chăm sóc và xử trí các vấn đề liên quan đến HIV/AIDS cho người nhiễm
HIV và gia đình họ. Thành viên của nhóm chăm sóc tại nhà cần có sự tham gia của người
nhiễm HIV.
- Lấy gia đình làm trung tâm: Các thành viên trong gia đình là người chăm sóc và hỗ trợ tốt nhất
cho người nhiễm HIV nên các nhóm CSTN cần đánh giá đầy đủ nhu cầu của họ và cung cấp
các hỗ trợ phù hợp. Đặc biệt chú ý đối tượng được chăm sóc là trẻ em.
- Chăm sóc có chất lượng: Các thành viên nhóm CSTN có nhiệm vụ cung cấp
các dịch vụ CSTN với chất lượng tốt nhất trong khả năng nguồn lực của mình. Đồng thời
không được cung cấp những dịch vụ không có trong nhiệm vụ của mình ( như tiêm, truyền dịch
cho người nhiễm tại nhà…) .
* Nội dung chăm sóc tại nhà
Đánh giá nhu cầu của người có HIV , Chăm sóc thể chất , Hỗ trợ tinh thần , Hỗ trợ về xã
hội, Chăm sóc dinh dưỡng cho người có HIV : nhu cầu về năng lượng, nhu cầu về protein, nhu
cầu về chất béo, nhu cầu về các vitamin và chất khoáng và các nhóm thực phẩm...
3.4 Tham vấn cho người có HIV
Tham vấn người nhiễm HIV/AIDS là một quá trình trợ giúp tâm lý, trong đó nhà tham
vấn sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để thiết lập mối quan hệ
tương tác tích cực với người nhiễm HIV hoặc gia đình họ nhằm giúp cá nhân và gia đình người

11



nhiễm HIV thay đổi cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và sống tích cực, giảm nguy cơ lây nhiễm cho
bản thân và những người xung quanh.
Sự can thiệp khía cạnh tâm lý xã hội với các nhà chuyên môn sẽ góp phần thúc đẩy tiến
độ điều trị HIV. Các chuyên gia tham vấn với các hình thức tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm,
tham vấn gia đình có thể hỗ trợ và cung cấp kiến thức, kỹ năng cho cá nhân và gia đình cách
thức đối phó với bệnh tật và vượt qua cơn khủng hoảng bởi vì HIV. Tham vấn tâm lý có thể
làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh tâm thần như trầm cảm, giúp bệnh nhân vượt qua tình trạng khủng
hoảng (có thể có) sau khi kết quả chẩn đoán dương tính và tự điều chỉnh trạng thái tâm lý sau
đó. Việc hỗ trợ tâm lý liên tục trong suốt quá trình điều trị sẽ giúp người nhiễm HIV có thể
sống hòa bình với tình trạng mãn tính của HIV, nâng cao nghị lực trong quá trình bệnh tiến
triển, ngay cả khi chuẩn bị ra đi họ cũng biết cách ứng phó, xử lý các vấn đề một cách thoải
mái, thanh thản.
Bên cạnh đó HIV thường đi cùng với thành kiến, kỳ thị đối với người nhiễm HIV. Họ có
cảm giác tội tỗi và sợ sự cô lập, kỳ thị của người xung quanh hơn là bệnh tật thể chất gây bởi
HIV. Hỗ trợ tâm lý xã hội giúp bệnh nhân đối phó với những vấn đề này hiệu quả hơn và tích
cực tham gia vào quá trình bàn bạc, tìm kiếm nguồn lực và ra quyết định trong quá trình điều
trị HIV. Nếu không có hỗ trợ tâm lý xã hội, sợ hãi, thành kiến, và các cảm xúc tiêu cực khác sẽ
áp đảo ngay cả những người mạnh mẽ nhất, khiến cho cuộc sống với HIV thậm chí còn khó
khăn hơn nhiều.
Khi mắc HIV cá nhân còn phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề xã hội khác khiến cho tâm
lý họ càng trở nên căng thẳng và khó khăn làm chủ được cuộc sống của bản thân cũng như gia
đình mình. Đó là các vấn đề như: mất việc, giảm thu nhập, và tốn kém cho chi phí chăm sóc
sức khỏe, do không có nguồn thu nhập vấn đề nhà cửa cũng gặp khó khăn, chế độ dinh dưỡng
kém và còn nhiều vấn đề hệ lụy khác. Vì vậy tham vấn cho người có HIV là rất cần thiết.

PHẦN II : Thực trạng, ảnh hưởng của sự kỳ thị đối với người có HIV/AIDS ở
Thành phố Hà Nội
* Một số khái niệm liên quan

• Kỳ thị là thái độ coi thường, làm mất thể diện hay không tôn trọng một cá nhân

hoặc một nhóm người nào đó vì cho là những người này có những khác biệt với
các chuẩn mực thông thường của xã hội.
• Kỳ thị với người nhiễm HIV/AIDS là thái độ coi thường, làm mất thể diện hay
không tôn trọng một người nào đó vì biết họ bị nhiễm HIV hoặc nghi ngờ họ bị
nhiễm HIV. Có thể đó là thái độ miệt thị, xa lánh, từ chối tiếp xúc, khinh bỉ đối
với những người nhiễm HIV/AIDS.

12


• Phân biệt đối xử là hành vi, hành động xảy ra nhằm đối xử khác biệt (với mức
độ kém hơn) với một cá nhân hoặc một nhóm người nào đó so với chung của tập
thể và xã hội.
• Phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS là hành vi hoặc hành động xa
lánh, từ chối, phân biệt, trừng phạt, phỉ báng và hạn chế quyền của họ, dựa vào
tình trạng nhiễm HIV (chính xác hoặc nghi ngờ) của họ.
1. Tình hình HIV/AIDS và phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS trên thế giới
Trong 40 năm qua, HIV/AIDS đã cướp đi sinh mạng của hơn 35 triệu người trên thế giới.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tính đến cuối năm 2017, khoảng 36,9
triệu người đang phải sống chung với HIV. Trong năm 2017, đã có 940.000 người thiệt mạng
trên thế giới do các nguyên nhân liên quan đến HIV và 1,8 triệu ca nhiễm mới. Trong khi đó,
59% số người lớn và 52% số trẻ em sống chung với HIV đã được điều trị liệu pháp kháng
retrovirus (ARV) suốt đời. Ghi nhận những tiến bộ trong nỗ lực ngăn chặn lây nhiễm
HIV/AIDS, nhưng theo ông Michel Sidibe, Giám đốc Chương trình phối hợp của Liên hiệp
quốc (LHQ) về HIV/AIDS (UNAIDS), cuộc chiến này đang ở thời điểm gian nan vì hàng năm
vẫn có bệnh nhân nhiễm mới.
UNAIDS cảnh báo cuộc chiến này đang chững lại trong khi những cam kết đối với các
đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV nhất chưa được thực thi. Ông Michel Sidibe còn cho biết, sự
thiếu hụt ngân sách cho cuộc chiến chống HIV/AIDS đang gây trở ngại trong việc xóa sổ căn
bệnh này trên toàn cầu. Khu vực Tây và Trung Âu và Bắc Mỹ đạt nhiều thành công nhất trong

cuộc chiến này với tỷ lệ 78% số người nhiễm HIV/AIDS được điều trị y tế, nhưng sự cải thiện
chưa thấy rõ tại các nước Trung Đông và Bắc Phi khi chưa tới 25% số người nhiễm bệnh được
điều trị. Khu vực này cũng chiếm hơn 2/3 tổng số ca nhiễm HIV mới trên toàn cầu. Để duy trì
sự tiến bộ và đạt mục tiêu có 90% bệnh nhân HIV/AIDS được điều trị thuốc ARV vào năm
2020, mỗi năm, tổ chức này cần thêm 7 tỷ USD cho việc phòng, chống lây nhiễm virus HIV và
điều trị cho các bệnh nhân. Trong năm ngoái, khoảng 21,3 tỷ USD đã được giải ngân cho các
chương trình phòng chống HIV/AIDS tại các nước thu nhập thấp và trung bình.
Bên cạnh đó, dù đã có nhiều hoạt động tuyên truyền nhưng nhiều người tiếp tục mất việc
vì nhiễm HIV. Nghiên cứu mới nhất vừa được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Mạng lưới
Toàn cầu của Người sống với HIV (GNP+) công bố, cho thấy mặc dù đạt được nhiều tiến bộ
trong việc điều trị, cho phép người có HIV có thể làm việc, song họ vẫn tiếp tục phải chịu phân
biệt đối xử khi tìm kiếm và giữ việc làm. Báo cáo dựa trên các cuộc điều tra do 13 nhóm quốc
gia trên toàn thế giới tiến hành với hơn 100.000 người sống chung với HIV. Tỷ lệ những người
đã làm việc nhưng bị mất việc làm hoặc mất nguồn thu nhập do sự phân biệt đối xử của chủ
hoặc đồng nghiệp dao động từ 13% ở Fiji đến 100% ở Đông Timor. Trong bối cảnh đó, báo cáo

13


cũng cho biết, nhiều người không muốn tiết lộ tình trạng HIV của họ với chủ sử dụng lao động
hoặc thậm chí là đồng nghiệp.
Theo các dữ liệu mới nhất về HIV và tình trạng phân biệt đối xử tại nơi làm việc cung cấp
trong báo cáo, những người sống chung với HIV đang thất nghiệp chiếm tỷ lệ cao, từ khoảng
7% số người được phỏng vấn ở Uganda cho đến 61% ở Honduras. 10 trong số 13 quốc gia có
tỷ lệ thất nghiệp từ 30% trở lên trong số những người được hỏi. Ngoài ra, báo cáo cũng cho
thấy, những người trẻ sống chung với HIV có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nhiều, phụ nữ sống
chung với HIV cũng ít có khả năng được tuyển dụng hơn nam giới có HIV do công việc nội trợ
và việc gia đình không được trả lương. Tình trạng phụ nữ thiếu thu nhập độc lập cũng rất phổ
biến, có nghĩa là phụ nữ sống chung với HIV không được hưởng quyền tự chủ kinh tế ở mức
tương đương với nam giới. Thất nghiệp giữa những người chuyển giới sống chung với HIV vẫn

còn cao ở các quốc gia.
2. Tình hình và sự phân biệt đối xử với người có HIV ở Việt Nam
Ngày 19/1/2018, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đưa ra tại Hội nghị trực tuyến
tổng kết công tác năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2018 hiện
số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống là 209.450 nghìn người. Trong đó 90.100
trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính
đến thời điểm trên là 94.620 người. Tiếp tục khống chế được tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS dưới 0,3%
và giảm số người nhiễm mới. Về công tác phòng, chống HIV/AIDS, mở rộng và nâng cao chất
lượng điều trị HIV/AIDS, Bộ trưởng Bộ Y tế cho hay, toàn quốc đã có 294 cơ sở điều trị
methadone với 52,8 nghìn bệnh nhân. Đạt 65,2% chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết
định số 1008/QĐ-TTg, tiếp tục mở rộng cấp phát thuốc tại 216 điểm tại tuyến xã của 23 tỉnh,
cấp phát thuốc cho 22% tổng số bệnh nhân đang điều trị Methadone. Bộ Y tế đang triển khai kế
hoạch điều trị bằng thuốc Buprenophine, dự kiến năm 2018 sẽ thực hiện tại các tỉnh miền núi
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An.
Trong năm 2017, Bộ Y tế đã triển khai điều trị ARV ở tất cả 63 tỉnh/thành phố với 401
phòng khám điều trị ngoại trú ARV, triển khai cơ sở cấp phát thuốc điều trị ARV tại 562 trạm y
tế, trong trại giam. Triển khai chuyển giao và kiện toàn các cơ sở điều trị ARV trên toàn quốc
tiến tới kê đơn điều trị ARV bằng BHYT từ tháng 01/2018”. Bên cạnh đó, đã có 271 phòng
khám điều trị ngoại trú đã tiến hành thanh toán các phí dịch vụ, thuốc liên quan đến điều trị
ARV cho bệnh nhân (chiếm 37,7%). Thực hiện Quyết định số 2188/QĐ-TTg ngày 15/11/2016,
tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS tham gia bảo hiểm y tế tăng đáng kể, từ 50% vào tháng 10/2016
lên 82% vào tháng 9/2017. Toàn quốc hiện có 1.345 cơ sở y tế cung cấp dịch vụ tư vấn và xét
nghiệm HIV, có 136 phòng xét nghiệm HIV được phép khẳng định các trường hợp HIV dương

14


tính tại 63 tỉnh, thành phố, có 1.250 phòng xét nghiệm sàng lọc HIV ở tất cả các huyện trên
toàn quốc.
Ngày 24 tháng 8 năm 2018 tại Nghệ An, Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế đã tổ

chức Hội nghị Sơ kết công tác phòng, chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm và triển khai kế
hoạch 6 tháng cuối năm 2018. Báo cáo kết quả công tác phòng, chống HIV/AIDS 6 tháng đầu
năm 2018, PGS.TS Nguyễn Hoàng Long đã nêu bật các kết quả đã đạt được: Trong 6 tháng đã
phát hiện thêm 3.500 trường hợp nhiễm HIV trong cả nước. So với cùng kỳ năm 2017, số
trường hợp nhiễm HIV mới phát hiện giảm khoảng 3%; số trường hợp AIDS giảm khoảng
27%. Tuy vậy, vẫn còn nhiều người nhiễm HIV trong cộng đồng có thể vẫn chưa được phát
hiện như “sự kiện” tại tỉnh Phú Thọ vừa qua. Tỷ lệ nhiễm HIV gia tăng trở lại trong nhóm
nghiện chích ma túy, nam quan hệ tình dục đồng giới và cả phụ nữ bán dâm. Một điểm đáng
lưu ý là sự gia tăng số người sử dụng ma túy tổng hợp dẫn đến nguy cơ nhiễm HIV qua quan hệ
tình dục không an toàn có khả năng dẫn đến nguy cơ đợt dịch mới xuất hiện trong nhóm trẻ.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, nhiều hoạt động đã được tiến hành từ việc ban hành hàng
loạt các văn bản quy phạm pháp luật cũng như hướng dẫn chuyên môn về lĩnh vực phòng,
chống HIV/AIDS. Tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện cũng được đẩy mạnh thông qua các hình
thức xét nghiệm HIV tại cộng đồng, xét nghiệm trong các cở sở y tế cả của nhà nước lẫn cơ sở
y tế tư nhân với hơn 1,4 triệu người được tư vấn xét nghiệm. Các hoạt động can thiệp và dự
phòng lây nhiễm HIV vẫn được duy trì thông qua hoạt động phân phát bơm kim tiêm, bao cao
su, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone và hiện nay Cục Phòng, chống
HIV/AIDS đang chuẩn bị cho thí điểm điều trị nghiện bằng thuốc Buprenorphine. Điều trị ARV
cho khoảng 130.000 bệnh nhân HIV và mở rộng việc xét nghiệm tải lượng vi rút như xét
nghiệm thường quy. Việc mở rộng bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ cũng đang được các địa phương đẩy mạnh với tỷ lệ chung tại 63 tỉnh với
khoảng 85% người nhiễm HIV đang điều trị ARV có thẻ bảo hiểm y tế…
Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên công tác phòng, chống HIV/AIDS
cũng đang gặp rất nhiều khó khăn: Việc xét nghiệm phát hiện HIV ngày càng khó, tỷ lệ dương
tính thấp; độ bao phủ của các hoạt động xét nghiệm HIV, can thiệp giảm tác hại và điều trị ARV
vẫn còn thấp, độ bao phủ của truyền thông cũng giảm; bệnh nhân bỏ điều trị Methadone có xu
hướng gia tăng. Kinh phí cấp cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS cấp muộn; sự thay đổi về
tổ chức khi sáp nhập Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS thành Trung tâm Kiểm soát bệnh tật
làm ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
3. Tình hình và sự phân biệt đối xử với người có HIV tại Thành phố Hà Nội

Sáng ngày 25/1, Sở Y tế Hà Nội tổ chức hội nghị tổng kết công tác phòng, chống
HIV/AIDS năm 2017 và triển khai nhiệm vụ năm 2018. Tham dự hội nghị có TS Phan Thị Thu
Hương, Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế; PGS.TS Hoàng Đức Hạnh,

15


Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội. Tính đến hết năm 2017, trên địa bàn thành phố Hà Nội có tổng
số trường hợp nhiễm HIV/AIDS còn sống là 19.637 người; số người nhiễm HIV/AIDS đã tử
vong là 5.938 người; 76,3% số người nhiễm HIV trong độ tuổi từ 25 - 49; 100% quận, huyện,
thị xã có người nhiễm HIV, 554/584 xã, phường, thị trấn đã phát hiện người nhiễm HIV (chiếm
tỷ lệ 94,9%); 50,6% tỷ lệ người nhiễm lây truyền qua đường máu, 48,7% người nhiễm lây
truyền qua đường tình dục. Ngành y tế đã tổ chức nhiều hoạt động truyền thông nhằm nâng cao
nhận thức cho cộng đồng về HIV/AIDS như: treo băng rôn, khẩu hiệu, mít tinh, diễu hành; đưa
tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; sản xuất, phát hành một số ấn phẩm thông tin
(1.920 đĩa CD, phát 12.000 tạp chí AIDS và cộng đồng...). Đặc biệt, phối hợp tổ chức các hoạt
động thông tin, giáo dục, truyền thông cập nhật kiến thức phòng, chống HIV/AIDS tại 10 sở,
ban, ngành, đoàn thể. Ngành cũng đã triển khai hội thảo “Thực trạng kiến thức, thực hành về
phòng, lây nhiễm HIV/AIDS, phân biệt đối xử và một số yếu tố liên quan của người dân từ 15 49 tuổi tại thành phố Hà Nội năm 2017”. Kết quả, 47,9% người dân trong độ tuổi có hiểu biết
đầy đủ về HIV/AIDS và không phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
Hiện nay, Hà Nội đã mở rộng diện sàng lọc HIV tại các phố, phường và kết hợp với các
tổ chức phi Chính phủ thực hiện xét nghiệm HIV tại cộng đồng. Phát biểu tại buổi lễ, Phó Chủ
tịch UBND Thành phố Hà Nội ông Lê Hồng Sơn cho biết, thời gian qua, UBND thành phố đã
chỉ đạo các cấp, các ngành tích cực tổ chức triển khai các chương trình hành động phòng,
chống HIV/AIDS. Đồng thời thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt
Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 của Chính phủ cùng nhiều hoạt động khác. Bên cạnh đó,
xây dựng các mô hình truyền thông, thiết lập các mạng lưới can thiệp, tập trung vào 3 nhóm
người có hành vi nguy cơ (người nghiện ma túy, người có hành vi mua/bán dâm, người có quan
hệ tình dục đồng giới); thực hiện có hiệu quả chương trình 100% bao cao su, chương trình kim
tiêm sạch và chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone...

Để hưởng ứng Chiến dịch Phòng, chống AIDS toàn cầu, Ngày Thế giới phòng, chống
AIDS (1/12) và Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2018 với chủ đề
"Xét nghiệm HIV sớm - Hướng tới mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020" (90% số người nhiễm
HIV biết được tình trạng bệnh của mình - 90% số người đã chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị
ARV - 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp để sống
khỏe mạnh và giảm nguy cơ lây truyền HIV sang người khác), Phó Chủ tịch UBND Thành phố
Hà Nội đề nghị các cấp, ngành của thành phố tiếp tục nâng cao nhận thức về phòng, chống
HIV/AIDS. Tăng cường đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS bằng nguồn ngân sách
địa phương, bảo đảm ngân sách hằng năm cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, đặc biệt là
cung cấp các dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng vi rút cho người nhiễm HIV/AIDS, điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone. Bên cạnh đó, cần triển khai chuẩn bị các
điều kiện cần thiết cho việc chi trả dịch vụ điều trị HIV/AIDS từ Quỹ Bảo hiểm y tế.

16


“Mỗi nhà lãnh đạo, mỗi tổ chức xã hội, mỗi gia đình, cộng đồng cần tăng cường sự hỗ trợ
cho người nhiễm HIV/AIDS, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIVAIDS. Tạo
điều kiện cho họ chủ động tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS nhằm nâng
cao ý thức phòng lây nhiễm cho gia đình và cộng đồng”, ông Lê Hồng Sơn nhấn mạnh.
Ngành Y tế Thủ đô cần tăng cường cung cấp các dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết
bảo đảm quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ, điều trị và dự phòng lây nhiễm
HIV của tất cả mọi người; chú trọng triển khai các mô hình, các dịch vụ cho những nhóm đối
tượng khó tiếp cận như nhóm di biến động, nam quan hệ tình dục với nam, người chuyển giới
để đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
4. Nhu cầu, đặc điểm tâm lý của người có HIV
4.1 Đặc điểm tâm lý của người có HIV
Người nhiễm HIV/AIDS ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có những nét tâm lý riêng.
Người có HIV thường trải qua những diễn biến tâm lý như sau:
* Sốc, choáng:

+ Người nhiễm HIV/AIDS khi nhận được kết quả xét nghiệm HIV dương tính là sốc và
choáng váng. Họ bối rối, hoảng loạn, tay chân bủn rủn, không biết phải làm gì. Nhiều trường
hợp mặc dù đã được chuẩn bị tâm lý kỹ càng vẫn bị trạng thái sốc, choáng váng, thậm chí ngất
xỉu. Vì vậy ở thời điểm này cần có ai đó mà người nhiễm tin cậy, để trấn an họ, cảm xúc đột
ngột sốc, choáng của người nhiễm HIV có thể dẫn tới những hành vi vô thức, mang tính tiêu
cực, huỷ hoại.
+ Sau sốc, choáng người nhiễm HIV rơi vào trạng thái từ chối, phủ nhận thông tin bị
nhiễm: “Bác sĩ nhầm rồi”, “Không thể như thế được”, “Tôi vẫn khoẻ mạnh cơ mà”. Sau đó họ
chuyển sang giai đoạn cảm xúc tiếp theo là tự xỉ vả bản thân, mặc cảm tội lỗi, ân hận. Một số
người giấu bệnh làm cho bệnh tình ngày càng nặng hơn, một số khác căm hận kẻ đã truyền
bệnh cho mình và có hành vi trả thù đời, họ sẵn sàng truyền bệnh cho người khác
* Lo sợ:
+ Cảm giác sợ hãi bao trùm cuộc sống của họ. Họ sợ đau đớn do căn bệnh mang lại đặc
biệt ở giai đoạn AIDS. Sợ chết, nhất là họ đang có nhiều ước mơ hoài bão.
+ Họ sợ không có cơ hội học tập, học nghề để có việc làm. Nguy cơ không có việc làm
sẽ gây nhiều khó khăn trong trang trải cho cuộc sống và bệnh tật.
+ Họ sợ bị người thân ghét bỏ, xa lánh, xua đuổi.

17


+ Họ sợ ảnh hưởng đến cha mẹ, người thân. Sợ hạnh phúc gia đình sẽ bị tan vỡ nếu để
lộ bệnh.
* Mặc cảm:
Cảm giác buồn day dứt khi thấy mình không được như mọi người. Trong bối cảnh lây lan
HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay, người nhiễm vẫn tập chung chủ yếu ở nhóm nghiện chích và
mại dâm. Do vậy khi nói đến bệnh HIV mọi người thường liên tưởng đến những người sống
buông thả, truỵ lạc. Cách nghĩ đó đã khiến mọi người không muốn tiếp xúc với người có HIV.
Điều này khiến người có HIV rất mặc cảm. Do mặc cảm và để tránh dư luận họ giấu bệnh,
muốn lánh mình bỏ trốn đi xứ khác. Tất cả các cảm xúc tiêu cực đó làm cho người bị nhiễm

HIV rơi vào trạng thái cô đơn, buồn bã, thu mình và không muốn giao tiếp. Họ luôn có cảm
giác mọi người đang bàn luận về họ. Họ cảm thấy mình không xứng đáng với gia đình, bạn bè,
người thân, đôi khi còn ý nghĩ muốn tự tử.
* Chấp nhận tình trạng bệnh và sống tích cực
Nếu được sự quan tâm trợ giúp, người có HIV sẽ dần lấy lại cân bằng về tâm trạng.
Họ chấp nhận tình trạng bệnh và muốn tìm cách sống tích cực. Họ bắt đầu tìm kiếm thông tin
để chữa bệnh, tăng cường sức khoẻ. Họ muốn làm điều có ích cho gia đình, xã hội và hy vọng
về việc kéo dài sự sống, về thuốc điều trị khỏi bệnh.
4.2 Nhu cầu của người có HIV
- Người nhiễm HIV cần được tư vấn trước và sau khi xét nghiệm máu. Giai đoạn trước khi
thử máu cần được tư vấn để kiểm tra hiểu biết của họ về các con đường lây nhiễm HIV hoặc
truyền thụ tri thức về HIV và cách phòng chống lây nhiễm. Ngoài ra cần dự phòng cho họ một
số cảm xúc có thể xuất hiện nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Sau xét nghiệm cần tư vấn giúp
người có HIV đương đầu với thực tế hiện trạng bệnh của mình, giúp họ dần bình thường hoá
vấn đề và sống tích cực có ích.
- Họ cần được khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ.
- Người nhiễm HIV cần có chế độ dinh dưỡng phù hợp để chống lại bệnh tật.
- Người nhiễm HIV cần được trang bị kiến thức hiểu biết về HIV để biết cách điều trị, giữ
gìn sức khoẻ và tránh lây bệnh cho người khác.
- Họ cần được sự yêu thương đùm bọc, cảm thông chia sẻ của gia đình, người thân
và cộng đồng.
- Người nhiễm HIV/AIDS cần được tạo điều kiện có việc lầm ổn định để có thể tự chăm
sóc bản thân và nuôi sống gia đình.

18


- Họ cần được tôn trọng, bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội.
Người nhiễm HIV có thể đương đầu với bệnh tật, kéo dài cuộc sống, sống tích cực, có ích.
Nhưng họ khó có thể vượt qua được rào cản tâm lý xã hội để có được một cuộc sống bình

thường như mọi người. Rào cản đó là sự khinh rẻ, kỳ thị, sợ hãi của nhiều người đối với người
nhiễm HIV. Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về căn bệnh HIV/AIDS để giúp cộng
đồng thay đổi định kiến và phân biệt ứng xử với người bệnh. Điều này liên quan đến tuổi thọ
của người bệnh, hạn chế sự đổ bệnh của họ và đặc biệt là làm vơi đi nỗi đau đớn về tình thần và
thể xác của người nhiễm HIV/AIDS.
5. Các nguyên nhân của sự kì thị đối với người có HIV
Kỳ thị và phân biệt đối xử là một vòng luẩn quẩn vì những quan niệm không đầy đủ của
mọi người. Vì HIV/AIDS thường có liên quan đến những hành vi không được chấp nhận (tệ
nạn xã hội), nên những người nhiễm HIV bị phân biệt đối xử vì bị gán cho là thuộc nhóm
người sống lệch chuẩn. Những người này lại bị kỳ thị nhiều hơn vì bị coi là đã làm lây lan
HIV/AIDS.
Có rất nhiều lý do làm cho vòng tròn này thêm luẩn quẩn. Những lý do bao gồm do bản
chất của bệnh, thiếu kiến thức, truyền thông thiếu chính xác về HIV, trình độ văn hóa và do sự
bất bình đẳng về giới... Sau đây là những nguyên nhân chính:
- Do bản chất tự nhiên của bệnh
HIV là một bệnh chết người chưa có thuốc chữa và vác xin phòng bệnh. Vì tính chất
nguy hiểm của bệnh và khả năng lây truyền HIV làm cho mọi người có xu hướng phản ứng lại
nỗi sợ hãi bằng cách tự tách mình ra và đổ lổi cho người khác. Điều này có thể gây căng thẳng
tâm lý và cô lập cho người nhiễm HIV/AIDS, cho gia đình và bạn bè của họ.
- Do thiếu hiểu biết
Kỳ thị và phân biệt đối xử có một nguyên nhân cơ bản là do thiếu hiểu biết, hoặc hiểu
biết không đúng về HIV/AIDS. Có hai nhận thức sai khá phổ biến về HIV/AIDS, đó là:
Thứ nhất: Chỉ có những người nghiện chích ma túy hoặc quan hệ mại dâm mới có nguy
cơ nhiễm HIV. Sự thật, mặc dù hơn 60% những người nhiễm HIV bị lây qua tiêm chích ma
tuý, nhưng điều này không có nghĩa là chỉ có những người tiêm chích ma tuý hay quan hệ mại
dâm mới bị nhiễm HIV/AIDS. Tất cả mọi người đều có nguy cơ nhiễm HIV.
Thứ hai: HIV là bệnh rất dễ lây; HIV nghĩa là chết.
- Do truyền thông không chính xác về HIV/AIDS
Trong một thời gian dài, việc tuyên truyền về HIV/AIDS thường theo cách hù dọa mọi
người (chết chóc, đầu lâu xương chéo, hình ảnh lở loét toàn thân, gầy trơ xương….) hoặc ngụ ý


19


HIV có liên quan đến tệ nạn xã hội như mại dâm, tiêm chích ma túy. Việc tuyên truyền như vậy
đã khiến mọi người sợ hãi và điều này dẫn đến kỳ thị, xa lánh và phân biệt đối xử với người
nhiễm HIV/AIDS. Những hiểu biết sai, truyền thông không đúng về HIV/AIDS làm cho người
ta sợ hãi, coi thường người nhiễm, không nhìn nhận họ là người bệnh, là thành viên của gia
đình, cộng đồng và không giúp đỡ họ.
- Do đặc điểm trình độ văn hóa
Nhiều người vẫn cho rằng HIV/AIDS là một tệ nạn, hoặc nhẹ hơn cũng là hậu quả của tệ
nạn xã hội. Những người nhiễm HIV/AIDS thường bị cho là có lối sống không lành mạnh và
không sống theo chuẩn mực xã hội. Nhiễm HIV/AIDS có liên quan đến những hành vi bị lên
án như tiêm chích ma túy, quan hệ mại dâm, đồng tính luyến ái. Việc nhìn nhận người nhiễm là
''đáng đời” (như mại dâm, tiêm chích, đồng tính quyến ái nam) hay ''đáng thương'' (như trẻ bị
mẹ truyền HIV) càng làm cho kỳ thị và phân biệt đối xử thêm trầm trọng.
- Do sự bất bình đẳng về giới
Bất bình đẳng về giới là vấn đề toàn cầu, không trừ một quốc gia nào. Phụ nữ thường có
vai trò thụ động trong quan hệ tình dục, họ thường gặp khó khăn khi thuyết phục bạn
tình/chồng thực hiện các hành vi tình dục an toàn. Đặc điểm xã hội này khiến phụ nữ dễ bị tổn
thương hơn nam giới. Khi bị nhiễm HIV/AIDS, phụ nữ cũng nhận được sự thông cảm ít hơn
nam giới, họ bị lên án nhiều hơn và do đó bị kỳ thị và phân biệt đối xử nhiều hơn.
- Do những chính sách hay quy định chưa hợp lý
Những qui định của luật pháp hay các chính sách đề ra nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng
đôi khi vô tình lại làm tăng kỳ thị với người nhiễm HIV. Ví dụ như những qui định về các nghề
mà người nhiễm HIV không được làm hay việc yêu cầu xét nghiệm bắt buộc với phụ nữ có
thai...đã tạo ra một sự phân biệt đối xử với những người ''chẳng may'' bị phát hiện nhiễm HIV.
6. Biểu hiện của sự kì thị đối với người có HIV
Kỳ thị và phân biệt đối xử có thể biểu hiện công khai hoặc ngấm ngầm, thô bạo hoặc tế
nhị, ở nhiều hoàn cảnh khác nhau, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau

* Tại các cơ sở y tế
- Miễn cưỡng khi tiếp xúc với người nhiễm HIV/AIDS
- Trì hoãn điều trị, chậm phục vụ (bắt phải chờ đợi lâu, yêu cầu đến vào lần khác).
- Thoái thác, giải thích rằng lấy làm tiếc vì lý do nào đó (nhưng không từ chối thẳng
thừng, như giới thiệu đến cơ sở khác, lấy lý do không đủ điều kiện nhập viện).
- Đùn đẩy bệnh nhân giữa các cán bộ y tế, giữa các khoa, giữa các bệnh viện.

20


- Xét nghiệm HIV nhiều lần trong khi không cần thiết.
- Chỉ cho nhập viện và điều trị khi kèm theo điều kiện (phải tham gia nghiên cứu nào đó
hoặc nhận điều trị thử).
- Hạn chế tiếp cận các nơi công cộng như nhà vệ sinh, nhà ăn v.v, trong bệnh viện.
- Cho xuất viện sớm.
* Tại gia đình và cộng đồng
- Miễn cưỡng giao tiếp với người nhiễm HIV/AIDS (lảng tránh, không bắt tay, không
muốn nói chuyện…).
- Quan hệ căng thẳng, từ chối, lảng tránh hoặc ly thân.
- Cho ăn, ở riêng.
- Không muốn (hoặc cấm) dùng chung các vật dụng phục vụ công cộng, như cho giải trí,
thể thao, nhà vệ sinh, nhà ăn tập thể …
- Hạn chế tiếp xúc (hoặc cấm) với con cái, người thân, họ hàng.
- Hạn chế hoặc cấm đến một số nơi nào đó mà những người khác đến được.
- Không muốn tang lễ được diễn ra như những người bình thường hoặc không cho tổ
chức tang lễ, không đến dự tang lễ...
* Tại nơi làm việc
- Xa lánh, ngại tiếp xúc.
- Xét nghiệm HIV khi tuyển dụng hoặc trong quá trình lao động (nhưng không nói là để
xét nghiệm HIV).

- Cho nghỉ ốm, nghỉ việc (vẫn trả lương hoặc không trả lương) khi người lao động bị
nhiễm HIV nhưng vẫn còn khả năng lao động.
- Dùng bồi thường vật chất để thuyết phục người nhiễm HIV xin nghỉ việc.
- Bắt buộc thôi việc.
- Cắt giảm các quyền lợi bảo hiểm y tế.
- Hạn chế tiếp cận các địa điểm công cộng ở nơi làm việc.
- Thay đổi công việc không vì lý do sức khỏe hoặc phòng ngừa lây nhiễm.
* Tự kỳ thị của người nhiễm HIV/AIDS
- Thấy mình có lỗi

21


- Ghét bỏ bản thân
- Cho rằng người khác không chấp nhận mình, xét đoán mình
- Thu mình, xa lánh người thân, bạn bè, người quen
- Chán nản, không chăm sóc bản thân, bất cần
7. Hậu quả của sự kì thị đối với người có HIV
Nhiễm HIV/AIDS là một quá trình kéo dài, người nhiễm vẫn có khả năng làm việc, sinh
sống bình thường nếu được chăm sóc tốt. Nếu phải chịu sự kỳ thị và phân biệt đối xử thì người
bệnh gặp rất nhiều rào cản trong việc cải thiện sức khỏe. Họ bị hậu quả cả về thể chất và tinh
thần, bị cô lập trong cộng đồng, bị tổn thương, hạn chế/mất một số quyền công dân, không có
điều kiện tiếp cận với các dịch vụ tư vấn, chăm sóc và điều trị để bảo vệ họ và những người
khác và làm tăng nguy cơ lây nhiễm ra cộng đồng.
Người nhiễm rất cần sự hỗ trợ của gia đình và xã hội. Nếu tình trạng kỳ thị và phân biệt
đối xử xảy ra, họ gần như bị mất đi chỗ dựa cả về vật chất và tinh thần, làm cho họ bị mất hết
lòng tự trọng, bị trầm cảm và giận dữ, vì vậy dễ có những hành vi và lối sống không an toàn,
hoặc không quan tâm đến sức khỏe của họ. Những điều này có thể làm cho HIV lây lan nhanh
hơn trong cộng đồng. Dưới đây là một vài hậu quả của kỳ thị và phân biệt đối xử với người
nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

* Hậu quả đối với cá nhân và gia đình người có HIV
- Suy sụp về tinh thần, gia đình tan vỡ và bị cô lập khỏi
Từ khi nhận kết quả nhiễm HIV, những người bị nhiễm HIV/AIDS đã bị rơi vào tình
trạng tâm lý thất vọng, đau khổ tột cùng và cơ thể bị suy sụp hoàn toàn. Trong hoàn cảnh đó,
hơn bao giờ hết họ rất cần được sự cảm thông, lòng bao dung, sự chia sẻ từ phía người thân và
cộng đồng. Nhưng ngược lại, họ bị kỳ thị và phân biệt đối xử, nên đã mất đi chỗ dựa cả về vật
chất và tinh thần, dẫn đến bi quan, chán nản, bế tắc và có thể phải rời bỏ làng xóm, quê hương
đi phiêu bạt hoặc nhiều người có ý định tự tử. Bên cạnh đó, người nhiễm HIV bị qui kết liên
quan đến hành vi tình dục không an toàn, nên một người khi phát hiện bị nhiễm HIV, có thể
nảy sinh những mâu thuẫn do sự nghi kỵ giữa hai vợ chồng, không tin tưởng và xúc phạm của
chính những người thân yêu nhất là vợ, chồng hay người yêu của người bị nhiễm. Ngoài mâu
thuẫn vợ chồng, các thành viên trong gia đình phải gánh chịu các nỗi đau do có người thân bị
nhiễm HIV và sự xấu hổ với hàng xóm, bạn bè, cộng đồng, dẫn tới sự phân tách giữa người
nhiễm HIV/AIDS với những thành viên trong chính gia đình họ hoặc hoặc rạn nứt về tình cảm.
Hơn thế, do bị kỳ thị phân biệt đối xử mà những người nhiễm HIV có thể mất đi các mối quan
hệ của họ trong cộng đồng và xã hội.
- Hạn chế một số quyền công dân của bản thân người nhiễm và con cái họ

22


Theo Luật phòng, chống nhiễm HIV/AIDS, người nhiễm HIV cũng có quyền sống hòa
nhập với cộng đồng và xã hội, được điều trị và chăm sóc sức khỏe, học văn hóa, học nghề, làm
việc, v.v… giống với bất cứ công dân Việt Nam nào. Tuy nhiên, khi một người bị nhiễm
HIV/AIDS, nếu bị kỳ thị và phân biệt đối xử, có thể họ sẽ mất hết cơ hội hoặc ít có cơ hội được
hưởng những quyền lợi đó trong khi họ vẫn có đủ sức khỏe và vẫn còn khả năng cống hiến cho
gia đình, xã hội nhiều năm sau khi bị nhiễm. Thậm chí con em của những người nhiễm HIV
cũng có thể phải chịu sự kỳ thị và phân biệt đối xử.
Một vấn đề rất quan trọng liên quan đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử ảnh hưởng đến
quyền cơ bản của mỗi công dân, đó là việc những người bị nhiễm HIV có thể bị tước quyền

làm cha, làm mẹ, làm chồng, làm vợ, họ bị tước quyền sử dụng, thừa kế tài sản, đặc biệt đối với
phụ nữ nhiễm HIV…
- Khả năng của người nhiễm HIV không được phát huy
Khi một người nhiễm HIV bị kỳ thị và phân biệt đối xử, do tâm lý lo sợ bị lây nhiễm
HIV từ đồng nghiệp bị nhiễm HIV, nhiều người nhiễm HIV bị cơ quan, xí nghiệp cho thôi việc
(một cách chính thức hoặc không chính thức), trong khi họ vẫn còn sức khỏe, vẫn có thể làm
việc để đóng góp cho xã hội. Chưa kể, chính sự kỳ thị, phân biệt đối xử và không cảm thông
của đồng nghiệp cùng với tâm lý tự ti, mặc cảm, bi quan của bản thân…đã làm cho những
người nhiễm HIV mất hết niềm tin và nhiệt huyết trong công việc dù họ vẫn được đi làm. Điều
này dẫn đến hậu quả tất yếu là đất nước đã mất đi nguồn lực lớn là những người nhiễm HIV, cả
về mặt số lượng và chất lượng, trong đó có cả những người có trình độ, tay nghề và kỹ năng
cao. Tuy nhiên, nếu những người nhiễm HIV sống khép kín, thu mình lại, không giao tiếp với
mọi người và không muốn hoặc không dám tham gia các hoạt động của nhóm đồng đẳng do bị
(hoặc sợ bị) kỳ thị và phân biệt đối xử, sẽ mất đi một lực lượng tham gia phòng chống cũng
như chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS có hiệu quả.
- Ảnh hưởng đối với kinh tế gia đình người nhiễm HIV
Đối với những người làm việc tại các cơ quan/công ty (nhà nước hoặc tư nhân), như đã
mô tả, do bị kỳ thị và phân biệt tại nơi làm việc nên có thể bị mất việc làm, làm việc không
hiệu quả, hoặc bị chuyển đến chỗ làm có thu nhập thấp hơn. Đối với những người làm dịch vụ,
do bị kỳ thị và phân biệt đối xử, nhiều người bị phát hiện nhiễm HIV đã bị cộng đồng tẩy chay,
từ chối các dịch vụ mà họ đang cung cấp (bán hàng ăn, bán đồ sinh hoạt, cắt tóc, làm móng
tay…), làm cho họ bị thất thu. Chưa kể, những người bị nhiễm HIV đi xin việc mới cũng vô
cùng khó khăn nếu họ không giấu được tình trạng nhiễm HIV của bản thân. Hậu quả là những
người nhiễm HIV, bị giảm khả năng kiếm sống một cách đáng kể do sự kỳ thị và phân biệt đem
lại, làm kinh tế gia đình bị giảm sút, ảnh hưởng cả đến chất lượng sống và chăm sóc y tế cho
bản than người nhiễm và gia đình họ.

23



- Hạn chế trong tiếp cận dịch vụ y tế
Vì sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử, người nhiễm HIV/AIDS thường né tránh tiếp xúc với
mọi người, do đó cán bộ y tế khó có thể gặp gỡ và tư vấn cho họ về kỹ năng phòng tránh lây
nhiễm HIV cho người khác.
Do sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử nên người nhiễm HIV có xu hướng che dấu tình
trạng nhiễm của bản thân và không tiếp cận với các chương trình chăm sóc điều trị sớm. Có thể
làm mất hoặc bỏ lỡ cơ hội được điều trị và làm giảm hiệu quả của việc điều trị (dự phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con).
Do cố giấu tình trạng nhiễm HIV nên họ chỉ đến cơ sở y tế khi sức khỏe đã quá yếu, khi
đó giá thành điều trị trở nên đắt đỏ hơn rất nhiều (các nhiễm trùng cơ hội nặng và phức tạp,
đồng nhiễm) và tỷ lệ thành công khi điều trị cũng hạn chế hơn.
Do bị mất thu nhập, nên những người nhiễm HIV sợ đến bệnh viện do phải chi trả các
dịch vụ y tế và các chi phí liên quan.
Những tình trạng trên không chỉ hạn chế sự tiếp cận của người nhiễm HIV với các dịch
vụ y tế mà còn gây khó khăn cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS.
* Hậu quả đối với cộng đồng và xã hội
Sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV đã gây hậu quả trở lại đối với
chính cộng đồng và xã hội.
- Tạo nguy cơ làm tăng nhanh sự lây nhiễm HIV trong cộng đồng
Những người nhiễm HIV thường có tâm lý lo sợ bị mọi người kỳ thị và phân biệt đối xử
nên có thể che giấu tình trạng bệnh tật của mình, họ có mặc cảm tự ti, hạn chế tiếp xúc với mọi
người, từ chối tiếp cận với các nhân viên y tế, không đi xét nghiệm hoặc đến các cơ sở y tế để
tư vấn, khám chữa bệnh. Thậm chí nhiều người còn giấu tình trạng nhiễm HIV với cả người
yêu hoặc chồng/vợ của họ, và quan hệ tình dục bình thường, không áp dụng các biện pháp
phòng tránh lây nhiễm. Hậu quả là bạn đời và con của những người này có thể bị lây nhiễm
HIV do không được phòng tránh, phát hiện và điều trị kịp thời. Bên cạnh đó, những người tự
đánh giá được nguy cơ lây nhiễm HIV cao của bản thân, không muốn đi xét nghiệm HIV do sợ
biết tình trạng huyết thanh của mình và sợ lộ thông tin sẽ bị kỳ thị, xa lánh. Chính sự tự giấu
mình này làm cho họ có ít cơ hội nhận được thông tin chính xác về HIV/AIDS, các kỹ năng
phòng chống AIDS, tiếp cận các dịch vụ. Đặc biệt kỳ thị và phân biệt đối xử làm giảm khả

năng áp dụng các biện pháp phòng tránh bệnh cho người khác (tình dục an toàn, dùng bơm kim
tiêm an toàn.

24


Mặt khác, nhiều người cho rằng đã nhiễm HIV thì coi như cuộc đời chấm dứt, thêm vào
đó không nhận được sự thông cảm, chia sẻ từ phía cộng đồng sẽ khiến họ bi quan, chán nản,
tuyệt vọng, từ đó dẫn đến hành động tự hủy hoại bản thân, bất cần, hay có những hành động
“trả thù đời”.
- Ảnh hưởng đến lập kế hoạch, tư vấn và can thiệp, chăm sóc y tế và tôn kém về
kinh tế
Kỳ thị và phân biệt đối xử làm cho người nhiễm HIV sợ hãi và tránh tham gia vào các
hoạt động phòng chống AIDS hay các hoạt động nghiên cứu. Do khó tiếp cận với những người
nhiễm HIV nên không thể quản lý và cung cấp các dịch vụ y tế cho họ, cũng như các nhà quản
lý không biết được chính xác số ca mắc bệnh, khó ước tính và dự báo chính xác về tình hình
dịch HIV/AIDS. Do vậy, việc triển khai các kế hoạch và chương trình quốc gia phòng chống
HIV/AIDS sẽ rất khó khăn, nhiều khi lãng phí tiền của và không thực hiện được mục tiêu đề ra.
Thêm vào đó, tình trạng ít người đi làm xét nghiệm HIV dẫn đến những thông tin về tình
hình nhiễm và các yếu tố nguy cơ không được đánh giá đúng mức, bị sai lệch và ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác dự báo, nghiên cứu, lập kế hoạch, và quản lý chương trình. Kế hoạch dựa
trên những thông tin không đầy đủ và chính xác sẽ làm giảm hiệu qủa của chương trình, lãng
phí tiền của và đặc biệt là không ngăn chặn được sự lây lan của HIV.
8. Giải pháp giảm thiểu sự kì thị đối với người có HIV
Xóa bỏ tận gốc sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS là điều vô cùng
khó khăn vì bị chi phối bởi các chuẩn mực về văn hóa và xã hội. Do vậy, việc này không thể
thành công nếu thiếu sự nỗ lực tham gia của từng cá nhân, các ban ngành, đoàn thể, các cấp
chính quyền và của toàn xã hội.
* Hỗ trợ giảm tự kỳ thị
- Tham vấn cho người sống chung với HIV/AIDS

+ Tham vấn người nhiễm HIV/AIDS là một quá trình trợ giúp tâm lý, trong đó nhà tham
vấn sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để thiết lập mối quan hệ
tương tác tích cực với người nhiễm HIV hoặc gia đình họ nhằm giúp cá nhân và gia đình người
nhiễm HIV thay đổi cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và sống tích cực, giảm nguy cơ lây nhiễm cho
bản thân và những người xung quanh.
+ Tham vấn cho người nhiễm HIV nhằm:
. Giảm bớt cảm xúc tiêu cực, tăng cường sự lạc quan, phát triển niềm tin vào cuộc sống
ở người nhiễm HIV.

25


×