Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.68 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------

NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS
HẢI PHÒNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học

Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------

NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG
NGHỆ VIETTRONICS HẢI PHÒNG HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 603127

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Chúc



Hà Nội - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lệ Quyên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 3
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, .... 13
LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN ................................................................ 13
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức, lối
sống ................................................................................................................. 13
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống. ....................................... 13
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống ......................... 24
1. . Tư tưởng Hồ Chí Minh về đ c đi m, vị trí, v i tr c
tầm qu n trọng c

th nh niên và

việc giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh niên ........ 26


1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đ c đi m, v trí, v i tr c
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm qu n trọng c

th nh ni n ...... 26

việc giáo dục đạo đức,

lối sống cho th nh ni n ................................................................................... 31
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung và phương pháp giáo dục đạo
đức, lối sống cho TN. ..................................................................................... 36
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
......................................................................................................................... 37
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên. ....................................................................................................... 42
Chương

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI

SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
VIETTRONICS HẢI PHÒNG HIỆN NAY ............................................... 47
.1. Những nhân tố tác động đến công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
th nh niên ở trường C o đẳng Công nghệ Viettronics Hải Ph ng .......... 47
2.1.1. iều iện inh t 2.1.2.

c đi m c

hội ........................................................................ 47

TN ................................................................................... 47


1


2.1.3. V i tr c

gi đình............................................................................... 48

2.1.4. V i tr c

Nhà trường ......................................................................... 48

2.1.5. V i tr c

tổ chức inh t , chính tr -

hội ở đ

phương ................. 49

. . Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh niên ở Trường C o
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Ph ng hiện n y: thực trạng và những
vấn đề đ t r .................................................................................................. 49
2.2.1. Một vài nét hái quát về Nhà trường .................................................... 49
2.2.2. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh ni n ở nhà trường hiện
n y: những ưu đi m, hạn ch và nguy n nhân. .............................................. 59
2.2.3. Tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối
sống cho th nh ni n ở nhà trường hiện n y: những ưu đi m, hạn ch và
nguyên nhân. ................................................................................................... 62
.3. Những vấn đề đ t r .............................................................................. 72
2.3.1. Những vấn đề trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh ni n

nhà trường ....................................................................................................... 72
2.3.2. Những vấn đề trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức, lối sống cho th nh ni n nhà trường ................................................. 73
Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS HẢI PHÒNG
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ..................................... 75
3.1. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho
th nh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ...................................................... 75
3.1.1. ổi mới nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh ni n. ............. 75
3.1.2. ổi mới phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh ni n. ..... 79
3. . Tích cực hoá hoạt động c

các ch th giáo dục theo tư tưởng Hồ

Chí Minh ........................................................................................................ 87

2


3.2.1. Nhà trường qu n tâm tạo điều iện thuận lợi cho các hoạt động văn


hội c

th nh ni n. .............................................................................. 87

3.2.2. Phát huy v i tr tích cực c

oàn Th nh ni n và Hội sinh vi n trong


công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho th nh ni n. ..................................... 90
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữ nhà trường, gi đình và

hội ............. 91

KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết c

đề tài.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời là nhà giáo dục
vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ
trẻ muôn đời sau noi theo.
Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh
giá cao vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Người cho rằng “Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần
lớn là do các thanh niên” [14, tr.185]. Chính vì thế trước lúc đi xa, Người
không quên căn dặn Đảng ta “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết” [20, tr.510]
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế

hệ cha anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở TN là sự trung thành tuyệt đối với
lý tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách
mạng để làm gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan
tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn
toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản thắng
lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí
cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng,
Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không đủ
sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu
đến cùng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người lưu ý “Đảng cần chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa CNXH
vừa “hồng” vừa “chuyên” [20, tr.510]

4


Lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993)
khẳng định “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt
Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh
niên, công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [2, tr.82]
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước diễn biến rất phức tạp. Nhiều
nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến thanh niên nói chung và
sinh viên (SV) nói riêng. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương lai
của CNXH sau sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sau gần 30
năm đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên kinh tế

thị trường cũng có những mặt trái. Đây là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều
yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều
nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách
mạng. Chủ nghĩa cá nhân-kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo
cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta xác định giữ vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng đang bị các thế lực thù địch chống phá,công
kích. Ngoài tư tưởng, chúng còn đẩy mạnh tấn công trên các lĩnh vực văn hóa,
đạo đức, lối sống mà đối tượng chủ yếu là TN, SV-đội ngũ trí thức tương lai.
Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân
cách của SV.

5


Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi
chuông báo động toàn xã hội khi cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh
(HS), SV suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là
điều “đặc biệt đáng lo ngại” [3, tr.24]. Trong xu thế chung của SV cả nước,
một bộ phận không nhỏ các trường Đại học, Cao đẳng trong đó có SV trường
Cao đẳng Công nghệ Viettronics-Hải Phòng có những biểu hiện lệch lạc trong
nhận thức và hành vi đạo đức như: Xác định động cơ học tập không đúng.
Mục đích của việc học không phải để nâng cao kiến thức mà nhằm có điểm
cao để kiếm học bổng. Hiện tượng bỏ học không lí do, đi muộn, quay cóp
trong thi cử đã trở nên khá phổ biến, cá biệt còn có một số SV tham gia đường
dây thi thuê, thi hộ trong các mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng. SV thờ ơ với
các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng,
ham ăn chơi đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức

truyền thống; tiếp thu lối sống, văn hóa phương Tây không chọn lọc; quá coi
trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; sùng bái đồng tiền, có hành vi
vi phạm pháp luật, sa vào các tệ nạn xã hội: trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, ma
túy, mại dâm…Trong khi đó, do yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới
toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước theo định hướng
XHCN, các thế hệ SV đã, đang và sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng
vô cùng khó khăn phức tạp. Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh
“Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.126].
Như vậy, trước yêu cầu khách quan và cấp bách của công cuộc đổi mới,
việc giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh là

6


nội dung quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ; là sự
chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập nghiệp. Với lý do trên,
tác giả chọn đề tài: “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho th nh ni n ở Trường C o đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Ph ng hiện n y” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Hồ Chí Minh
học.
. Tình hình nghiên cứu liên qu n đến đề tài
Vấn đề TN và giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho TN
được nhiều nhà lãnh đạo và nhà khoa học quan tâm nghiên cứu theo những
khía cạnh, cách tiếp cận khác nhau.
* Nhóm tác giả đề cập đ n v i tr TN và tầm qu n trọng c

công tác


giáo dục TN:
- Lê Duẩn, Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 1978.
- Đỗ Mười, Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995.
- Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000…
* Nhóm các công trình nghi n cứu về đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh:
- Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề về đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003.
- Trần Hậu Kiêm - Đoàn Đức Hiếu, Hệ thống phạm trù đạo đức học và
giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

7


- Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (1995), “Giá trị trường tồn của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại tiến bộ”, Tạp chí Thông tin
lý luận, (12).
- Lâm Quốc Tuấn - Trần Văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí
Lý luận chính trị, (10).
- Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội, 2005 (Chương XIII: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh).
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Thanh niên trong
cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2004 (in lần thứ hai).
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục, 2004.
- Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999…
- Trần Sỹ Phán, Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Đình Quế, Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo
đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, 2000.
- Lê Thị Thủy, Vai trò của đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, 2001.
- Lê Thị Hoài Thanh, Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Triết học, 2002.

8


- Doãn Thị Chín, Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
Việt nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, 2004.
- Nguyễn Thị Kính, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc rèn luyện
và tu dưỡng đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay, Luận văn Thạc sĩ,
2010.
- Hoàng Trung, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học số 5, 1998.
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp tôi tiếp thu
tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Hiện nay, việc

nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống
cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng vẫn chưa có tác
giả nào đề cập một cách cơ bản và có hệ thống dưới giác độ Hồ Chí Minh
học. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp
phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang
đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức, lối sống cho TN; phân tích thực trạng công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettrronics Hải Phòng. Trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:

9


- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức, lối sống; về đặc điểm, vị trí, vai trò của TN và tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
- Phân tích tình hình đạo đức, lối sống của TN trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics-Hải Phòng: ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; phân tích
thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics-Hải Phòng trong khoảng 5 năm gần đây (2008-2013): ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề rút ra.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải

Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu c

đề tài:

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; tình
hình đạo đức, lối sống của TN trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng và thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh từ những năm
20 của thế kỷ XX đến năm 1969;
- Thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng trong 5 năm (2008-2013)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
-Cơ sở lý luận: Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về đạo
đức, về TN và giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.

10


- Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc, phương pháp
logic-lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát
thực tiễn,…
Đối với phương pháp khảo sát thực tiễn, tác giả đã tiếp xúc với Chi ủy,
Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo và công tác HSSV, Đoàn trường, các giáo viên
và HS, SV trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics để tìm hiểu tình hình đạo

đức, lối sống của HS, SV và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS, SV
trong thời gian 5 năm (2008-2013)
Đối với phương pháp điều tra xã hội học, tác giả đã chọn mẫu điều tra
là 2 Khoa thuộc trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics gồm: Khoa Kế toán,
và Khoa Công nghệ thông tin. Mỗi Khoa 50 SV
- Về đối tượng: có cả SV năm thứ nhất và SV năm cuối, SV nam và SV
nữ
- Về hệ đào tạo: SV hệ cao đẳng chính quy.
6. Những đóng góp về kho học c

luận văn

- Góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
- Nhận định đúng đắn, khách quan về tình hình đạo đức, lối sống của TN
trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng và thực trạng công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho TN trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics
Hải Phòng hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp Đoàn thanh
niên, Hội Sinh viên, Phòng Đào tạo và công tác HSSV trường Cao đẳng Công

11


nghệ Viettronics Hải Phòng trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
chương trình hành động của mình. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy ở các lớp tập huấn nghiệp vụ công

tác Đoàn, công tác HSSV, các lớp dạy kĩ năng mềm.
7. Kết cấu c

Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 10 tiết.

12


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức,
lối sống
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống.
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos,
cũng có nghĩa là thói quen, tập quán.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra
mà con người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, đạo đức xét đến cùng
là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó
phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người.“Đạo đức giúp cho xã
hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [8
tr.371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì
góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả
những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội

mới của những người cộng sản” [9, tr.214]. Đây là một quan niệm mang tính
cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền
đạo đức khác không thể đạt tới.
1.1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Một là, đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan trọng của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng. Người xem đạo đức là nền tảng và là sức

13


mạnh của người cách mạng. Người khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng
và phát triển của con người cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông, của suối. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng bao giờ cũng khó
khăn, phức tạp. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [18, tr.283]. Người cán bộ
đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [14, tr.253]. Theo
Người, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục.
Người dạy muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì cán bộ đảng viên phải
mực thước, phải “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [16, tr.568].
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ
viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở
thành người cộng sản chân chính thì không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn
do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào thì
mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà
những tính tốt như sau ngày càng thêm. Tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm.

Đạo đức cách mạng không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới,
đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái
hóa biến chất của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức,
là văn minh” thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh
đạo cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây
dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng

14


viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống
hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm
chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó, đức là gốc của tài, hồng là
gốc của chuyên, phẩm chất là gốc của năng lực. Đức là gốc, nhưng đức và tài,
“hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không
thể có mặt này, thiếu mặt kia. Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II,
Người cho rằng: “TN phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi
gì cho loài người” [18, tr.172].
Hai là, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH
Sức hấp dẫn của CNXH trước hết thể hiện ở những giá trị đạo đức cao
đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và
hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đã trở thành hiện thực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định
vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của

cách mạng vô sản mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ
nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh chẳng những có sức
hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế
giới. Tấm gương đó từ lâu đã là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng
đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
* Những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Một là, trung với nước, hiếu với dân

15


Hồ Chí Minh mượn khái niệm đạo đức “trung”, “hiếu” trong tư tưởng
đạo đức truyền thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới “Trung với
nước, hiếu với dân” tạo nên một cuộc cách mạng trong quan hệ về đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là
nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của dân
chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở
chỗ thương dân, tin dân, phục vụ dân hết lòng. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên
quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Hai là, yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người yêu thương đồng bào, đồng chí của
mình, không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu
nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của

Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm
lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người
đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng” [21.tr 557]
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra khẩu hiệu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

16


Vì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của “đời sống mới”, nền tảng
của thi đua ái quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người
Đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là một nội dung của cái
gốc đạo đức, cái gốc của sự phát triển trong triết lý hành động của Hồ Chí
Minh.
Cần, theo Hồ Chí Minh, là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong mọi công
việc; là lao động sáng tạo và lao động với tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm, là tiết kiệm. Phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to, „không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không
phô trương hình thức.

Liêm, là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; " phải "trong
sạch, không tham lam".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn", là việc gì tốt thì dù
nhỏ cũng cố làm, việc gì xấu thì dù nhỏ cũng cố tránh.
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa
lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được.

17


Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên
bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã
dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và
bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân
Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và
tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và
hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc
tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu
nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
* Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm, chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan

trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí
Minh khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường
cách mệnh. Bản thân người là tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi
đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
Người nói “lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là
một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách
mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Để làm được như thế phải
chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi
trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong
học tập…
Hai là, xây đi đôi với chống

18


Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến
hành bằng công việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức
mới. Việc giáo dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn
cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và từng
môi trường khác nhau, phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi
người.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai cái xấu, cái vô đạo
đức trong đời sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới
tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên
cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen tập
quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi
người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành
nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và

trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo
đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong".
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là
những lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của
mỗi người hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập,
trong lao động và trong chiến đấu. Mặt khác, ở đây Hồ Chí Minh còn chỉ ra
rằng đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với
nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và
cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện

19


trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công,
từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập,
công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi
phạm vi từ gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến
quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một
cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng
của đời sống xã hội và mỗi con người.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất,
ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đó
là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản
chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã
làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân,
phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá

con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ công vi thượng”. Đây là
đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi
ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [14, tr.252].
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “lối sống là toàn bộ những hình thức
hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống
nhất với các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [22, tr.742].
Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt
động sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn
thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá
nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá
nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương

20


thức sinh sống nhất định của họ” [1, tr.30]. Như vậy, phương thức sản xuất
không chỉ là một hình thức hoạt động sinh sống nhất định của con người mà
còn là mặt cơ bản của lối sống, là điều kiện kinh tế-xã hội của lối sống.
Bổ sung quan điểm của Mác, Hồ Chí Minh xem lối sống còn là hình
thức biểu hiện của văn hóa - văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là
bộ mặt tinh thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện ra ngay trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Điều này đã được Hồ Chí
Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới, cũng như cách thức xây
dựng đời sống mới trong một nước Việt Nam độc lập.
* Về vai trò của lối sống
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của con người, đạo đức làm cho con
người trở nên đáng kính và giúp con người vượt qua khó khăn, thử thách. Đức
và tài là hai yếu tố cốt yếu của nhân cách, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ

với nhau. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Ngược lại có tài
mà không có đức thì không thể đem tài đó phụng sự được nhân dân, thậm chí
còn có hại cho xã hội nữa. Do vậy, tài năng phải được xây dựng và dựa trên
nền tảng của đạo đức. Tài năng càng cao thì càng phải củng cố, trau dồi đạo
đức. Các phẩm chất đạo đức được thể hiện thông qua những hành vi hàng
ngày của con người trong cuộc sống. Đó chính là lối sống. Lối sống trong
sạch, lành mạnh là động lực lớn giúp con người và xã hội vươn tới tầm cao
văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con
người trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống
vừa có các giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các
giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các
khía cạnh tiến bộ và cả những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ

21


nhân cách của con người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nhất định.
Con người phản ánh qua lối sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông
qua năng lực trí tuệ, quan hệ ứng xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực
của mình trong nhiều phương diện khác nhau.
Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và
lối sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là toàn xã hội. Lối sống cá
nhân là toàn bộ hình thức hoạt động sống của cá nhân trong một xã hội nhất
định. Đồng thời là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì thế, lối sống cá nhân luôn mang
đậm dấu ấn cá nhân và có tính phong phú, đa dạng. Mặt khác, được hình
thành từ một điều kiện kinh tế -xã hội nhất định nên lối sống của các cá nhân
lại có những điểm chung tương đồng, tạo nên lối sống chung của toàn xã hội.

Giữa lối sống riêng của từng cá nhân với lối sống chung của toàn xã hội
không có sự tách rời biệt lập mà trái lại luôn thống nhất, tác động qua lại lẫn
nhau. Hồ Chí Minh quan niệm xã hội là do nhiều cá nhân nhóm lại mà thành.
Chính vì thế, nếu mỗi cá nhân có lối sống tích cực thì góp phần hình thành
nên lối sống tiến bộ của xã hội. Lối sống văn minh, cao đẹp của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trở thành mẫu mực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta học
tập và noi theo. Ngược lại, lối sống xã hội có tác dụng định hướng cho lối
sống cá nhân, giúp mỗi cá nhân điều chỉnh lối sống của bản thân.
* Về nội dung xây dựng lối sống mới
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống, nếp sống là ba nội dung hợp thành
văn hóa đời sống, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu nhất. Vì vậy, xây
dựng đời sống mới chính là quá trình tuyên truyền và thực hành đạo đức mới,
lối sống mới, nếp sống mới.
Lối sống mới mà Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng cho mọi người là lối
sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền

22


×