Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Đảng bộ huyện Thanh Oai (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.25 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN PHƯƠNG THỦY

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI (HÀ NỘI)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
CƠ SỞ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI: 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN PHƯƠNG THỦY

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI (HÀ NỘI)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
CƠ SỞ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 602256



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đình Phong

HÀ NỘI: 2014

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Đình Phong.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng 12 năm 2013.

Tác giả luận văn

Nguyễn Phương Thủy

3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả xây dựng GĐVH từ năm 2001 đến năm 2010.............85

4



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU....................................................................4
MỞ ĐẦU..........................................................................................................5
Chương 1........................................................................................................14
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ.............................14
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN........................................14
Chương 2........................................................................................................42
ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA CƠ SỞ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010..................................42
Bảng 2.1: Kết quả xây dựng GĐVH từ năm 2001 đến năm 2010.............85
Chương 3........................................................................................................90
Ý NGHĨA, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG
VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ CỦA HUYỆN
THANH OAI..................................................................................................90
KẾT LUẬN..................................................................................................107
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................109
PHỤ LỤC.....................................................................................................120
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................128

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam gần ba mươi năm qua đã thu được
nhiều thành tựu đáng kể, tạo cơ sở quan trọng đưa nước ta ngày càng phát
triển vững mạnh. Đi đôi với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, chúng
ta không thể tách rời nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với việc xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức rõ được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận định “Văn hóa là nền tảng


5


tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.” [49, tr 55]. Việc chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền
tảng tinh thần của xã hội, nếu thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh
thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Văn hóa là kết quả
của kinh tế, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì
vậy, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã trở thành
mục tiêu quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Đặc biệt, việc quan tâm, chăm lo xây dựng văn hóa ngày càng trở nên
cấp thiết hơn khi đất nước ta đang bước vào thời kỳ kinh tế thị trường, hội
nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh những ưu điểm lớn của nền kinh tế thị trường,
chúng ta không thể phủ nhận về những mặt trái của nó đem lại đã gây ra
không ít khó khăn, thách thức, cản trở sự nghiệp đổi mới. Đó là sự chập chờn
về định hướng phát triển, sự so sánh thiệt hơn về lợi ích kinh tế, sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống; xu hướng thi trường hóa, thương mại hóa trong văn hóa
và hoạt động văn hóa ở nhiều địa phương trong cả nước.
Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng quan tâm xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở “ đảm bảo mỗi nhà máy,nông trường, lâm
trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ quan, trường
học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, ấp đều có đời sống văn hóa”
[44,Tr.102], nhằm tạo lập môi trường văn hóa cơ sở lành mạnh, huy động mọi
tiềm lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần hạn chế những
tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong tiến trình xây dựng nền văn
hóa mới và con người mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) cũng đã nhấn
mạnh đến việc xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, có nếp
sống văn hóa, bài trừ các tệ nạn xã hội và hủ tục, nhằm đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.


6


Nhận thức được tầm quan trọng của đời sống văn hóa ở cơ sở và dựa
trên những đánh giá thực trạng về đời sống văn hóa ở các địa phương, đơn vị;
Đảng bộ huyện Thanh Oai đã có những nỗ lực nhằm đưa văn hóa thấm sâu
vào đời sống nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đặc biệt từ sau Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII (1998), Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được ban hành. Theo đó, việc xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở được Đảng ta hết sức coi trọng nhằm xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn mới và xây dựng môi trường văn hóa mới.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ huyện Thanh Oai đã
khẩn trương triển khai thực hiện, đưa Nghị quyết vào đời sống văn hóa cở sở,
tạo cho Thanh Oai có những bước phát triển mới.
Những kết quả đạt được của Thanh Oai trong việc xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở đã có ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối với việc phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội; đồng thời khẳng định sự đúng đắn của đường lối,
chính sách Đảng và năng lực lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của
Đảng bộ huyện Thanh Oai.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng đời sống
văn hóa cở sở ở huyện Thanh Oai cũng đang gặp nhiều vấn đề bất cập do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu về quá trình Đảng bộ huyện Thanh Oai lãnh đạo xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở trong những năm 2001 – 2010 là hết sức cần thiết. Trên cơ
sở đó, chúng ta sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm và những giải pháp nhằm
thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của
huyện Thanh Oai hiện nay.
Với những ý nghĩa trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Đảng bộ

huyện Thanh Oai (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

7


trong những năm 2001 – 2010” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng
cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ngay từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm chỉ đạo công tác
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Chính vì vậy, việc xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở đã nhanh chóng được triển khai khắp cả nước. Do vậy, hầu như tỉnh
nào cũng có những công trình nghiên cứu hoặc những bài viết về vấn đề này
được đăng tải trên các báo, tạp chí… Trong quá trình nghiên cứu, tác giả xin
được đưa ra một vài công trình tiêu biểu sau đây:
•Một số công trình nghiên cứu về văn hóa nói chung:
- “Việt Nam văn hóa sử cương” của GS Đào Duy Anh. Tác phẩm này
được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1938 tại Quan Hải tùng thư. Đây được coi
là tác phẩm “gối đầu giường” của các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Tác
phẩm đã cung cấp khối tư liệu sinh động về kinh tế, văn hóa, xã hội, các mối
quan hệ trong xã hội, phong tục tập quán, sự ảnh hưởng của văn minh phương
Tây… Ngày nay, tác phẩm vẫn luôn là nguồn tài liệu quý giá cho các nhà
nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam.
- Tác phẩm “Đề cương văn hóa Việt Nam”, đây được coi là bản “tuyên
ngôn văn hóa” đầu tiên của Đảng ta. Ngay từ năm 1943, khi đất nước ta chưa
giành được độc lập, Đảng ta đã công bố Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng
Bí thư Trường Chinh khởi thảo. Tuy đây chỉ là bản đề cương nhưng nó đã trở
thành một văn kiện quan trọng của Đảng ta về văn hóa, văn nghệ, có tính chất
mở đường cho quá trình phát triển và làm sâu sắc hơn các quan điểm, các văn
kiện Đảng về văn hóa, văn nghệ. Đã trải qua 70 năm, khi hoàn cảnh nước ta và
thế giới có nhiều thay đổi nhưng giá trị lý luận và thực tiễn, tính chiến đấu và

tính thời sự của bản đề cương văn hóa đầu tiên này vẫn còn nguyên giá trị.

8


- Tháng 3 năm 1947, trong tác phẩm “Đời sống mới” dưới bút danh Tân
Sinh, Hồ Chủ Tịch đã viết “Người là gốc của làng, nước. Nếu mọi người đều
cố gắng làm đời sống mới, thì nhất định dân tộc sẽ phú cường”.
- Năm 1977, Nhà xuất bản Văn hóa đã xuất bản cuốn “Xây dựng nền
văn hóa mới, con người Xã hội chủ nghĩa” của Lê Duẩn
- Năm 1978, Nhà xuất bản Sự thật đã xuất bản cuốn “Mấy vấn đề xây
dựng nền văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa” của Trần Độ
- Năm 1998, Nhà xuất bản Giáo dục đã xuất bản cuốn “Cơ sở văn hóa
Việt Nam” của tác giả Trần Quốc Vượng
• Các công trình về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở:
- Năm 1995, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn sách “Chủ
động sáng tạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”. Bên cạnh việc chỉ rõ vai
trò của việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nội dung cuốn sách đã đề cập
đến một số biện pháp nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo trong xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở.
- “Một số vấn đề xây dựng làng - ấp văn hóa hiện nay” (1997), Nxb Hà
Nội. Cuốn sách đã nêu rõ thực trạng của việc xây dựng làng ấp văn hóa trên
địa bàn cả nước và đề cập đến giải pháp để làm tốt công tác xây dựng đời
sống văn hóa.
- Cuốn “Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới”(1997), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập đến vai trò của gia đình đối với
sự phát triển của xã hội nói chung và sự nghiệp đổi mới nói riêng. Cuốn sách chỉ
rõ việc cần thiết phải đẩy mạnh xây dựng gia đình văn hóa với những tiêu chí
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước.
- Cuốn “Hỏi và đáp về làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn

hóa, tổ chức lễ hội truyền thống”(1998),do Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
xuất bản. Cuốn sách được trình bày dưới dạng hỏi, đáp đã giải đáp tất cả
những vấn đề cơ bản liên quan đến việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn
hóa, nếp sống văn hóa và việc tổ chức lễ hội truyền thống. Cuốn sách có vai
9


trò tuyên truyền, hướng dẫn mọi người hiểu được bản chất và cách thực hiện
những vấn đề đã nêu sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
- Hai tác giả Dương Thanh Tam và Lê Văn Thịnh đã biên soạn cuốn
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư” (1999),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đã phản ánh về các
phong trào do UBMTTQ Việt Nam chủ trì. Trên cơ sở nêu bật những ý nghĩa
của phong trào, cuốn sách đã phân tích sâu sắc về những vấn đề thuộc nội
dung của phong trào và hệ thống các giải pháp để thực hiện phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống ở khu dân cư” có hiệu quả.
- “Hỏi đáp về phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” (2000), Ban chỉ đạo đời sống văn hóa, Hà Nội. Cuốn sách đã giải đáp
những vấn đề cơ bản về phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, từ nội hàm khái niệm cho đến việc hướng dẫn thực hiện phong trào.
- “Vấn đề xây dựng môi trường văn hóa cơ sở”(2001), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Xuất phát từ việc phân tích, tác giả đã đưa ra một cách
nhìn nhận chi tiết về môi trường văn hóa cơ sở; đồng thời nhấn mạnh đến
những yếu tố cần thiết để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở cơ sở và
một hệ thống các giải pháp để làm được điều đó.
- “Hội nông dân Việt Nam với phong trào gia đình văn hóa, thôn ấp,
bản, làng văn hóa” (2001) của tác giả Lê Quý Trấn, Nguyễn văn Tam, Trần
Thị Ánh Tuyết, Nxb Lao động, Hà Nội. Trong công trình này, nhóm tác giả đã
nêu bật được vai trò của Hội nông dân với phong trào xây dựng gia đình văn

hóa, thôn, ấp, bản, làng văn hóa; đồng thời đề cập đến những việc Hội đã làm
được và chưa làm được trong phong trào. Từ đó nhóm tác giả đã rút ra những
đánh giá, tổng kết, những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp cần
thiết để nâng cao vai trò của Hội nông dân với phong trào.
• Một số công trình viết về lịch sử, văn hóa huyện Thanh Oai

10


- Năm 1991, Đảng bộ huyện Thanh Oai đã cho xuất bản cuốn sơ thảo: “Lịch
sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thanh Oai, tập I (1930 – 1945)”
- Năm 1993, Đảng bộ huyện tiếp tục cho xuất bản cuốn: “lịch sử kháng
chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tập II (1945 – 1990).
- Năm 1996, Ban chấp hành Đảng bộ huyện biên tập và xuất bản cuốn:
“Đảng bộ huyện Thanh Oai từ Đại hội đến Đại hội”
- Năm 2008, Đảng bộ huyện Thanh Oai đã biên soạn xong và cho xuất
bản cuốn: “Lịch sử Đảng bộ huyện Thanh Oai (1930 – 2008)”.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào viết về đời sống
văn hóa cơ sở ở huyện Thanh Oai một cách toàn diện và có hệ thống dưới góc độ
lịch sử. Về nội dung này mới chỉ có một số bản báo cáo tổng kết như:
- Báo cáo kết quả thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, biểu dương gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp văn hóa tiêu biểu xuất sắc lần thứ V của Ban chỉ đạo (BCĐ)
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Thanh Oai ngày 3/4/2007.
- Báo cáo tổng kết 10 năm (2000 – 2010) thực hiện phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”(TDĐKXDĐSVH) của BCĐ toàn
dân xây dựng đời sống văn hóa, Thanh Oai ngày 28/6/2010.
- Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” của huyện ủy Thanh Oai ngày 24/12/2012

Những tài liệu trên đây đã phần nào cho thấy cái nhìn tổng quan về vấn
đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở nói chung và thực trạng xây dựng đời
sống văn hóa ở huyện Thanh Oai nói riêng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về quá trình
Đảng bộ huyện Thanh Oai lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
(ĐSVHCS) từ năm 2001 đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu

11


Luận văn làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thanh Oai trong
việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 2001 đến năm 2010.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích thực trạng đời sống văn hóa ở huyện Thanh Oai trước năm 2001.
+ Làm rõ chủ trương của Đảng bộ huyện Thanh Oai trong lãnh đạo xây
dựng ĐSVH.
+ Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và những tồn tại, hạn chế trong
việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của huyện Thanh Oai, luận văn rút ra
một số ý nghĩa, bài học kinh nghiệm và giải pháp đối với việc xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở của huyện Thanh Oai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của
Đảng bộ huyện Thanh Oai trong việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến
năm 2010. Đây là khoảng thời gian ghi nhận những nỗ lực rất lớn của Đảng bộ,
các ban ngành và nhân dân huyện Thanh Oai trong việc xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở. Việc đẩy mạnh XDĐSVHCS của huyện Thanh Oai từ năm 2001 đến
năm 2010 chính là việc tiếp tục triển khai thực hiện xây dựng nền văn hóa mới

được đề ra tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khóa VIII (1998).
- Phạm vi nghiên cứu không gian của đề tài là toàn bộ địa bàn của
huyện Thanh Oai.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa.
- Nguồn tài liệu
+ Các tác phẩm của Hồ Chí Minh có liên quan đến văn hóa và đời sống
văn hóa
+ Các văn kiện của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng văn hóa

12


+ Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy Hà Tây, Thành ủy Hà Nội
+ Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ huyện Thanh Oai
+ Các tác phẩm và công trình nhgiên cứu của các tác giả, nhà nghiên cứu đã
được công bố, bao gồm các sách đã xuất bản, các bài đăng trên tạp chí khoa học.
- Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những yêu cầu của đề tài này, tác giả đã dựa trên cơ sở lý
luận là những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa và ĐSVH ở cơ sở.
Trên cơ sở nguồn tài liệu, luận văn là kết quả của quá trình sưu tầm và
xử lý tài liệu. Những phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong
luận văn bao gồm phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp
thống kê, so sánh và đối chiếu nhằm nhìn nhận vấn đề nghiên cứu một cách
chân thực, sâu sắc.
6. Đóng góp của luận văn
Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa trên

địa bàn huyện góp phần tham khảo cho công tác xây dựng đời sống văn hóa
cho giai đoạn hiện nay và các giai đoạn tiếp sau.
Luận văn có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho những công
trình nghiên cứu sau về xây dựng đời sống văn hóa, nghiên cứu về huyện
Thanh Oai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương và 9 tiết

13


Chương 1
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái quát lịch sử, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện
Thanh Oai
1.1.1. Khái quát lịch sử hình thành huyện Thanh Oai
Từ khi đất nước ta giành được độc lập, địa dư hành chính huyện Thanh
Oai từng bước được hình thành, gắn liền với sự nghiệp đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, xây dựng đất nước.
Sự kiện năm 1010, vua Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La
đổi tên nước là Thăng Long. Sau đó, nhà Lý đã phân chia lại địa giới hành
chính, đổi thập đạo thời Đinh thành 24 lộ, đất Thanh Oai thuộc lộ Quốc Oai;
lúc đó, huyện Thanh Oai có tên gọi là hương Thanh Oai. Đến năm 1207, cuối
triều Lý Cao Tông, địa dư hành chính huyện Thanh Oai chính thức ra đời
thuộc lộ Quốc Oai.
Năm 1831, vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội. Huyện Thanh Oai lúc đó
thuộc phủ Ứng Hòa của tỉnh Hà Nội. Phủ Ứng Hòa lúc đó gồm 4 huyện là
Sơn Minh, Chương Đức, Thanh Oai và Hoài An.

Năm 1888, Pháp lập ra tỉnh Hà Đông và lúc đó huyện Thanh Oai thuộc
tỉnh Hà Đông. Ngày 4/1/1955, Chính phủ ban hành Nghị định số 436-TTg
giải tán quận Văn Điển do đối phương lập ra trong thời gian bị tạm chiến trả
lại cho tỉnh Hà Đông để tổ chức lại hai huyện Thanh Oai và Thanh Trì.
Ngày 20/4/1961, Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa II thông qua Nghị quyết
phê chuẩn mở rộng thành phố Hà Nội lần thứ nhất. Theo đó, sáp nhập phần
lớn các xã thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông vào thành phố Hà Nội.
Ngày 17/5/1961, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 70-CP sáp nhập
các xã, các thôn còn lại của huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông vào các huyện
Thường Tín, Thanh Oai và thị xã Hà Đông. Theo đó, các xã Kiến Hưng, Mỹ
Hưng, Cự Khê, Hữu Hòa được sáp nhập vào huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông.

14


Ngày 21/4/1965, tỉnh Hà Tây được thành lập theo Nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông.
Theo đó, huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây gồm 26 xã là Kim An, Cao
Viên, Thanh Cao, Thanh Mai, Xuân Dương, Bích Hòa, Phương Trung, Cao
Dương, Bình Minh, Kim Thư, Tam Hưng, Đỗ Động, Hồng Dương, Dân Hòa,
Thanh Văn, Tân Ước, Thanh Thùy, Liên Châu, Mỹ Hưng, Cự Khê, Kiến
Hưng, Hữu Hòa, Phú Lương, Phú Lãm, Biên Giang, Đồng Mai.
Ngày 15/9/1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 178-CP
về việc mở rộng địa giới thị xã Hà Đông và sáp nhập xã Kiến Hưng của
huyện Thanh Oai vào thị xã Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây. Sau khi điều chỉnh,
huyện Thanh Oai còn 25 xã.
Ngày 27/12/1975, Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V thông qua Nghị quyết
hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Theo đó, huyện
Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Ngày 29/12/1978, Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa VI thông qua Nghị

quyết phê chuẩn việc sáp nhập một số huyện, thị xã và thị trấn của tỉnh Hà
Sơn Bình vào thành phố Hà Nội.
Ngày 17/2/1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 49-CP
về việc điều chỉnh địa giới một số xã, thị trấn của Hà Nội. Theo đó, sáp nhập
xã Hữu Hòa của huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình vào huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội. Sau khi điều chỉnh, huyện Thanh Oai còn 24 xã.
Ngày 12/8/1991, Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII thông qua Nghị
quyết chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Lúc này
huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 23/6/1994, Chính phủ ra Nghị định số 52-CP về việc điều chỉnh
địa giới các huyện thuộc tỉnh Hà Tây. Theo đó, thành lập thị trấn Kim Bài
thuộc huyện Thanh Oai trên cơ sở một phần diện tích và nhân khẩu của xã
Kim An, Đỗ Động. Sau khi điều chỉnh, huyện Thanh Oai có 25 đơn vị hành
chính trực thuộc gồm thị trấn Kim Bài và 24 xã.

15


Ngày 23/9/2003, Chính phủ ra Nghị định số 107/2003/NĐ-CP điều
chỉnh địa giới hành chính và chuyển hai xã Phú Lương và Phú Lãm thuộc
huyện Thanh Oai về thị xã Hà Đông quản lý. Sau khi điều chỉnh, huyện
Thanh Oai còn 23 đơn vị hành chính gồm thị trấn Kim Bài và 22 xã.
Ngày 4/1/2006, Chính phủ ra Nghị định số 01/2006/NĐ-CP, điều chỉnh
địa giới hành chính, mở rộng thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây; và sáp nhập một
phần diện tích cùng nhân khẩu của thôn Phượng Bãi, xã Phụng Châu, huyện
Chương Mỹ vào xã Biên Giang, huyện Thanh Oai. Chuyển toàn bộ xã Biên
Giang và Đồng Mai thuộc huyện Thanh Oai về thị xã Hà Đông quản lý. Sau
khi điều chỉnh, huyện Thanh Oai còn 21 đơn vị hành chính gồm thị trấn Kim
Bài và 20 xã là: Kim An, Cao Viên, Thanh Cao, Thanh Mai, Xuân Dương,
Bích Hòa, Phương Trung, Cao Dương, Bình Minh, Kim Thư, Tam Hưng, Đỗ

Động, Hồng Dương, Dân Hòa, Thanh Văn, Tân Ước, Thanh Thùy, Liên Châu,
Mỹ Hưng, Cự Khê.
Từ ngày 1/8/2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội theo
Nghị quyết của Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII ngày 29/5/2008. Theo đó,
huyện Thanh Oai thuộc thành phố Hà Nội.
Như vây, kể từ năm 1207 đến nay, địa bàn huyện Thanh Oai chẳng
những được hình thành mà còn có những biến động về đơn vị hành chính theo
từng thời gian và tiến trình của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Song,
dù ở thời đại lịch sử nào thì vùng đất Thanh Oai vẫn là một địa bàn có tiềm
năng phát triển kinh tế, văn hóa và là vị trí quan trọng về quân sự
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Thanh Oai là một huyện thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,
nằm ở phía Tây Nam thủ đô Hà Nội. Phía Bắc liền kề với quận Hà Đông, phía
Đông tiếp giáp với huyện Thường Tín, phía Tây tiếp giáp với huyện Chương
Mỹ, phía Nam tiếp giáp với huyện Ứng Hòa, Phú Xuyên.

16


Với hệ thống giao thông thủy – bộ khá phát triển như đê sông Đáy, đê sông
Nhuệ nối giữa các xã, các huyện lân cận. Đường 22 (nay là quốc lộ 21B) là huyêt
mạch giao thông của huyện, từ Hà Đông đi chùa Hương và sang Hà Nam. Bên
cạnh đó, huyện còn có quốc lộ 6 qua rìa phía Tây Bắc huyện, dự án đường trục
phía Nam Hà Nội đi xuyên qua huyện và tỉnh lộ 71 (nay gọi là đường 427).
Phía Đông Bắc có tuyến đường sắt vành đai phía Tây Hà Nội chạy qua,
để tới ga Văn Điển.
Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông như trên, Thanh Oai đã trở
thành “cửa ngõ” của thủ đô Hà Nội, là cầu nối thuận lợi để sang các huyện
khác trong và ngoài tỉnh thành.
Diện tích tự nhiên của huyện là 129,6 km². Dân số là 175.800 người

(theo thống kê năm 2009).
1.1.3. Kinh tế - xã hội
- Kinh tế:
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đặc biệt do sự bồi tụ phù sa của sông
Hồng, sự thay đổi dòng chảy của sông Đáy nên đồng đất của Thanh Oai thuộc
diện “bờ xôi, ruộng mật”, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp.
Chính vì thế, từ xưa tới nay, thế mạnh chủ yếu của huyện Thanh Oai là kinh tế
nông nghiệp, mà trọng tâm đứng đầu là sản xuất lương thực lúa gạo. Bên cạnh
cây lúa, người dân còn trồng nhiều loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn
quả và phát triển chăn nuôi. Nhìn chung, Thanh Oai có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Bên cạnh nghề chính là nông nghiệp, cư dân ở nơi đây còn phát triển
rất nhiều nghề thủ công. Các nghề thủ công truyền thống đã trở thành một thế
mạnh của huyện Thanh Oai, với 118 làng nghề; trong đó có 27 làng nghề đã
được công nhận như nón làng Chuông, quạt làng Vác, điêu khắc Thanh Thùy,
sơn tượng Võ Lăng, tương Cự Đà, giò chả Ước Lễ…
Sự phát triển của nông nghiệp cùng với sự phong phú các mặt hàng thủ
công đã tạo điều kiện cho thương nghiệp của huyện sớm phát triển. Trên địa

17


bàn huyện, ngay từ xa xưa, nhiều chợ đã hình thành ở các vùng để giao lưu
trao đổi hàng hóa của nhân dân. Theo sách Dư địa chí Hà Tây, huyện Thanh
Oai có 15 chợ, một số chợ lớn có tiếng trong vùng như: chợ Mai Lĩnh (Đồng
Mai), chợ Bộ (Cao Bộ), chợ Tư (Bình Đà), chợ Chuông (Phương Trung)…
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp cũng ngày càng phát triển. Nhiều khu phố, trung tâm buôn bán, các
chợ lớn được mở rộng để buôn bán, trao đổi sản phẩm phục vụ nhu cầu của
nhân dân trong và ngoài huyện.

Từ bao đời nay, cư dân Thanh Oai chủ yếu là làm nông nghiệp. Sự cần
cù, chịu thương, chịu khó của người dân cùng với việc ứng dụng sáng tạo các
thành tựu khoa học kỹ thuật một cách phù hợp với điều kiện ở địa phương đã
tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện trong những năm qua đã có
những bước phát triển đáng kể.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, nhân dân Thanh
Oai đồng lòng phát huy sức mạnh tập thể, hăng hái thi đua sản xuất, thúc đẩy
kinh tế phát triển, tạo cho bộ mặt kinh tế huyện ngày càng khởi sắc.
Trong những năm qua, kinh tế huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá và ổn
định. “Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 – 2010 là 13,5% (cao hơn
giai đoạn 2000 – 2005 là 3%); bình quân thu nhập đầu người năm 2009 đạt 9,17
triệu đồng, đến năm 2010 là 10,27 triệu đồng” [42, tr. 4]. Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực. “Cơ cấu kinh tế năm 2010: nông nghiệp chiếm
28,37%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng chiếm 42,12%, dịch vụ
- thương mại chiếm 29,51%. Tỉ trọng công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng
tăng 14,4% và tỉ trọng nông nghiệp giảm 19,23% (so với năm 2005)” [42, tr. 4].
Giá trị sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và xây dựng liên tục phát triển và
chiếm tỉ trọng tăng dần trong cơ cấu kinh tế. Qua đó cho thấy, nền kinh tế của
huyện đang ngày càng phát triển và có sự chuyển dịch cơ cấu theo đúng hướng,
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH của huyện đạt nhiều thành tựu.

18


Tuy nhiên, “sự phát triển của kinh tế như vậy vẫn còn chưa tương xứng
với vị thế và tiềm năng của huyện, tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc; sản
xuất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, năng suất lao động thấp; sản xuất
thủ công còn nhỏ lẻ, chưa có thương hiệu sản phẩm chất lượng cao; hoạt động
thương mại - dịch vụ - du lịch còn mang tính tự phát” [42, tr.16].
Mặc dù nền kinh tế còn một số hạn chế như trên nhưng sự tăng trưởng

của nền kinh tế đã góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân trong huyện trên
tất cả các lĩnh vực. Bình quân thu nhập đầu người tăng, tạo điều kiện cho cuộc
sống của nhân dân được ấm no hơn, giảm mức chênh lệch giàu nghèo giữa
các hộ dân trong huyện. Kinh tế phát triển ổn định góp phần ổn định xã hội.
- Văn hóa – xã hội
Cư trú ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ, cư dân trên địa bàn huyện
chủ yếu là dân tộc Kinh. Về tôn giáo, đạo Phật là gốc rễ trong tín ngưỡng của
nhân dân. Bên cạnh đạo Phât, Đạo Thiên Chúa cũng được du nhập vào một số
vùng trong huyện (từ nửa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX). Một số nhà thờ
lớn được xây dựng như: nhà thờ Thạch Bích (xã Bích Hòa), nhà thờ Kim Lâm
(xã Kim Thư), nhà thờ Chuông (xã Phương Trung)… Cư dân theo Đạo chiếm
khoảng 10% dân số trong huyện.
Cư trú trên địa bàn có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, cư dân
Thanh Oai đã biết bảo tồn, xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Ở khắp các làng, xã trong huyện đều có những ngôi
đình, ngôi chùa, đền, miếu; nó không những thể hiện đời sống văn hóa tinh
thần phong phú của nhân dân, mà nó còn để lại những những di sản văn hóa
vật thể có giá trị cho dân tộc. Trên địa bàn huyện, nhiều ngôi đình, chùa đã
được công nhận và xếp hạng di tích Quốc gia như chùa Bối Khê (Tam Hưng),
chùa Ngọc Đình (Hồng Dương), đình và chùa Chuông (Phương Trung), đình
và chùa Bình Đà (Bình Minh)… Các ngôi đình, chùa đều mang dấu ấn kiến
trúc độc đáo của vùng đồng bằng Bắc bộ. Đây cũng là nơi diễn ra các lễ hội

19


truyền thống. Hàng năm huyện Thanh Oai diễn ra 81 lễ hội, trong đó có nhiều
lễ hội lớn như lễ hội chùa Bối Khê (Tam Hưng), lễ hội Bình Đà (Bình Minh),
hội Chuông(Phương Trung)… Các di tích đình, chùa và lễ hội đã trở thành
biểu tượng đẹp trong văn hóa làng Việt.

Sự nghiệp giáo dục của huyện đã đạt được những thành tựu mới. Nhờ
có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành và sự quan tâm ủng hộ của
nhân dân trong huyện, sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển cả về chiều
sâu lẫn chiều rộng ở tất cả các cấp học, các ngành học. Hệ thống giáo dục
phát triển đã tạo ra đội ngũ trí thức, đội ngũ nhân công lao động lành nghề có
trình độ chuyên môn cao để phục vụ đắc lực cho công cuộc CNH, HĐH của
huyện nói riêng và của đất nước nói chung.
Công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng có những tiến bộ
đáng kể. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế ở Bệnh viện huyện, các Trạm y tế xã
đươc nâng cấp, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong huyện.
Tuy nhiên, nền kinh tế của Thanh Oai vẫn còn phát triển chậm, chưa
tương xứng với vị thế và tiềm năng của huyện; hoạt động văn hóa chưa đáp ứng
được yêu cầu, vẫn còn nhiều hủ tục lạc hậu trong đời sống văn hóa của nhân
dân; chất lượng giáo dục còn hạn chế, công tác xã hội hóa giáo dục chưa cao;
nhân công lao động thiếu việc làm thường xuyên còn nhiều, nhất là ở những xã
bị thu hồi đất nông nghiệp. Các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và ngày càng có
nhiều loại tội phạm nguy hiểm, gây rối loạn trật tự trị an trong xã hội…
Đứng trước những vấn đề còn tồn tại đó, lãnh đạo các cấp chính quyền
trong huyện cần năng động hơn nữa để tìm ra những giải pháp khắc phục
những khó khăn trên. Một trong những giải pháp đó chính là việc đẩy mạnh
xây dựng ĐSVHCS trên địa bàn .toàn huyện. Đây chính là một nút thắt, một
khâu trọng yếu để vượt qua khó khăn, vươn lên trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển của huyện Thanh Oai trong thời gian tới.

20


1.2. Mấy nhận thức về văn hóa và ý nghĩa của việc xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở
1.2.1. Mấy nhận thức về văn hóa

1.2.1.1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là sự kế thừa có quá trình lịch sử rất lâu dài, là nền tảng tinh
thần của xã hội, là cội nguồn trực tiếp của sự phát triển xã hội, có vị trí trung
tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội.
Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó có
rất nhiều tổ chức, nhiều chuyên gia đã nghiên cứu về văn hóa và đưa ra các
khái niệm, quan điểm khác nhau về văn hóa; tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa
có một khái niệm nào về văn hóa được thống nhất tuyệt đối.
Trong tuyên bố về những chính sách văn hóa, Hội nghị quốc tế do
UNESCO chủ trì năm 1982 tại Mêhicô đã thống nhất đưa ra khái niệm văn hóa:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần
và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những
tập tục và tín ngưỡng: Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh
vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý.
Chính nhờ có văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết
mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của
bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những
công trình vượt trội lên bản thân” [114, tr.23-24].
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã
hội – lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử xã hội” [73, tr507].
Ở Việt Nam đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa và đưa ra các
định nghĩa, quan điểm về văn hóa:

21


Theo PGS, TSKH. Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ

các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động nhận thức thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình” [114, tr.22].
PGS. Phan Ngọc cũng đưa ra định nghĩa thao tác luận về văn hóa: “Văn
hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu trưng trong óc mỗi cá nhân hay một tộc
người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị các nhân này hay tộc người này mô
hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng
tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành
một kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác” [76, tr.19-20].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa, Người cho rằng: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học
nghệ thuật; những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa tức là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng biểu hiện của
nó, mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn” [77, tr.431].
Quan điểm của Hồ Chí Minh đã khái quát được nội dung rộng nhất của
phạm trù văn hóa. Văn hóa theo quan điểm của Người không những chỉ bao
hàm hoạt động tinh thần của con người mà còn bao hàm cả những hoạt động
vật chất mà trong đó chứa đựng. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tương
ứng với hai hình thức sản xuất của xã hội loài người là sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần. Người cũng đã chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của văn hóa đó
chính là do nhu cầu sinh tồn của con người với tư cách là chủ thể hoạt động
của đời sống xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã
hội” [49, tr.55].

22



Từ các quan niệm đó đã cho ta thấy: Văn hóa là một hiện tượng khách
quan, là tổng hòa tất cả các khía cạnh của đời sống con người, ngay cả những
khía cạnh nhỏ nhất của cuộc sống cũng đều mang những dấu hiệu của văn
hóa. Văn hóa là toàn bộ những sáng tạo của con người trong lịch sử, nhằm
phục vụ nhu cầu sinh tồn của con người. Con người vừa là chủ thể của văn
hóa nhưng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa. Văn hóa được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa.
Văn hóa được hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con
người với tự nhiên và trong mối quan hệ giữa con người với con người. Trong giai
đoạn hiện nay, khi xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ,
quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc gia diễn ra trên quy mô rộng lớn, với tốc
độ nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ, giao lưu quốc tế cũng đặt ra cho các
nước chậm và đang phát triển những thách thức hết sức to lớn, đó là nguy cơ bị
chèn ép và đồng hóa về văn hóa. Do đó, vấn đề bảo vệ, gìn giữ và phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc, chống nguy cơ đồng hóa về văn hóa đã và đang là thách
thức to lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có nước ta.
1.2.1.2. Quan niệm về đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống con người, nhưng nó lại
là một bộ phận đặc biệt, bo trùm mọi linh vực của đời sống. C.Mác đã từng
nói “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Như vậy, nếu con người
là một tổn thể, một tập hợp những yếu tố vật chất, tinh thần và những hoạt
động của mình để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần; thì ĐSVH là
tổng hợp những yếu tố hoạt động văn hóa của con người, sự tác động lẫn nhau
trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng
người, trực tiếp làm hình thành lối sống của con người trong xã hội ấy. Vì
vậy, ĐSVH tồn tại như một phần hữu cơ trong đời sống chung của xã hội.
Trong khi đó, đơn vị cơ sở là nơi giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, là nơi quần chúng nhân


23


dân lực lao động hàng ngày, là địa bàn hội tụ lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng
hợp để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, xây dựng nền
văn hóa, bồi dưỡng con người mới, bảo đảm đời sống của nhân dân và tái sản
xuất mở rộng. Bởi vậy, việc xây dựng ĐSVHCS được coi là một trong những
nhiệm vụ cơ bản và thường xuyên của công cuộc xây dựng nền văn hóa mới và
con người mới ở nước ta. Nó đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao của nhân
dân. Từ đó nâng cao mức sống văn hóa tinh thần của con người đi đôi với việc
nâng cao mức sống vật chất, thúc đẩy kinh tế - văn hóa – xã hội phát triển.
Cơ sở còn là nơi trực tiếp động viên, giáo dục xã hội và phát triển cá
nhân. Việc xây dựng ĐSVHCS nhằm thực hiện nhiệm vụ đưa văn hóa thâm
nhập vào cuộc sống, làm cho văn hóa ngày càng trở thành yếu tố khăng khít
của đời sống xã hội và mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, thành một
lực lượng sản xuất quan trọng. Vì vậy, việc xây dựng ĐSVHCS sẽ thực hiện
một phần nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa.
Ngày nay, việc xây dựng ĐSVHCS được xác định là một trong những
nhiệm vụ chính trị trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân. Đồng thời, nó là một
bộ phận cấu thành có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần thể
hiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Đơn vị cơ
sở trong việc tổ chức xây dựng ĐSVHCS được xác định theo tinh thần NQTU
5 (khóa VIII) – Nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc – là các nhà máy, công trường, nông trường,
lâm trường, đơn vị lực lượng vũ trang, công an nân dân, cơ quan, trường học,
bệnh viện, làng, xã, phường, ấp, bản, gia đình, họ tộc. Đó là những cộng
đồng người có địa bàn sinh sống hoặc lao động, công tác theo một tổ chức
hành chính, kinh tế - xã hội nhất định, có đời sống kinh tế và văn hóa tinh
thần lành mạnh, phong phú; xây dựng được những đơn vị văn minh, trong

sạch, vững mạnh. Trong đó, thôn (ấp) được coi là địa bàn quan trọng để xây
dựng ĐSVHCS.

24


Việc coi thôn (ấp) là địa bàn quan trọng để xây dựng ĐSVHCS bởi vì
thôn (ấp) nằm trong cơ cấu truyền thống của xã hội Việt Nam (cơ cấu Nhà –
Làng – Nước). Từ xưa, thôn (ấp) là địa bàn tự quản trong khai thác, sử dụng
ruộng đất, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và phát huy những giá trị truyền
thống, văn hóa tinh thần của địa phương. Nếu thôn (ấp) được xây dựng tốt sẽ
hỗ trợ gia đình trong việc xây dựng nếp sống, xây dựng gia đình văn hóa
(GĐVH), xây dựng những con người có văn hóa mới, tạo điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội, từng bước làm đổi mới bộ mặt nông thôn.
Nếu xây dựng có hiệu quả làng (thôn, ấp) văn hóa, GĐVH và một hệ
thống văn hóa Nhà nước từ cấp Trung ương đến cấp xã, chúng ta sẽ hình
thành được ba cơ chế điều chỉnh hỗ trợ trong văn hóa:
- Gia đình văn hóa điều chỉnh ĐSVH bằng quan hệ ruột thịt, tình cảm.
- Làng (ấp) văn hóa điều chỉnh ĐSVH bằng quan hệ dư luận thông qua
những quy ước.
- Hệ thống Nhà nước từ Trung ương đến xã điều chỉnh ĐSVH bằng hệ
thống pháp luật.
Tổng hợp cả ba phương pháp: bằng quan hệ tình cảm, quan hệ dư luận
và quan hệ luật pháp sẽ hình thành một hệ thống điều chỉnh văn hóa hết sức
có hiệu lực, góp phần xây dựng ĐSVHCS ngày càng có hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong việc xây dựng ĐSVHCS, quá trình xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần phải gắn chặt với xây dựng văn hóa vật chất; gắn hoạt
động văn hóa với thực tiễn sản xuất kinh doanh; làm cho văn hóa thực sự góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Vì những lẽ trên, việc xây dựng ĐSVHCS phải có những biểu hiện sau:

- Nâng cao trình độ dân trí
- Có các hoạt động giáo dục, văn hóa về nhiều mặt: thông qua hoạt
động của các thư viện, những buổi sinh hoạt ở câu lac bộ, nhà văn hóa sẽ
tuyên truyền giáo dục đường lối tư tưởng chính trị của Đảng và Nhà nước,

25


×