Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Hình sự và TTHS
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Mai Thanh Hiếu

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của TS. Mai Thanh Hiếu. Các nội dung nghiên
cứu, các kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu, bảng biểu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau
có ghi rõ phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong phần luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn
và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội không
liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra (nếu có).
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hồng Nhung

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nguyên nghĩa

STT

Từ viết

1


BLHS

2

BLTTHS

3

TAND

Tòa án nhân dân

4

TTHS

Tố tụng hình sự

5

VKSND

Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự

Viện kiểm sát nhân dân

ii



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự từ năm
2014 đến tháng 6/2018 ..............................................................................................64

iii


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................ iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .... 8
1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự ............................................................................................................... 8
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự ................................................................................. 16
1.2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 16
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 19
1.3. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự ............................................................................................................. 21
1.4. Ý nghĩa nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự26
1.5. Điều kiện bảo đảm hiệu quả của nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự ................................................................................. 30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 37
CHƢƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 38

2.1. Chủ thể khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ....................................... 38
2.1.1. Chủ thể khiếu nại trong tố tụng hình sự ................................................ 38
2.1.2. Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự ..................................................... 40
2.2. Đối tượng và chủ thể bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ............. 41
iv


2.2.1. Đối tượng bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ............................ 41
2.3. Chủ thể, thời hạn và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự ..................................................................................................... 48
2.3.1. Chủ thể, thời hạn và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong tố tụng
hình sự ............................................................................................................. 48
2.3.2. Chủ thể, thời hạn, trình tự và thủ tục giải quyết tố cáo trong tố tụng
hình sự ............................................................................................................. 55
2.4. Bảo vệ người khiếu nại, tố cáo và chống lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo. 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 63
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................... 64
3.1. Thực tiễn thi hành nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam .................................................................................... 64
3.1.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 68
3.1.2. Hạn chế, vướng mắc.............................................................................. 73
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc ...................................... 76
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam ..................................................... 80
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo.................................................................................... 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96

v


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền khiếu nại, tố cáo là nhân quyền, tức là quyền con người. Quyền
khiếu nại, tố cáo là nội dung quyền con người quan trọng trong Hiến pháp đầu
tiên – Hiến pháp Mỹ, sau đó được nhiều bản Hiến pháp ghi nhận, trong đó có
Hiến pháp Việt Nam. Điều 30 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Trong tố tụng hình sự, quyền khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và liên quan chặt chẽ với các quyền khác. Thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia vào
quá trình giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đồng thời cũng là
phương thức để công dân tự bảo vệ khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm hại.
Trong suốt tiến trình cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Những quy định của pháp
luật ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức thực
hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần
đáng kể vào việc phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế bởi lẽ vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách xác đáng
và toàn diện. Quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo còn một số bất cập và còn nhiều nội dung chưa được thống nhất, rõ

ràng. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo là sự cụ
1


thể hóa, chi tiết hóa và tuân theo sự định hướng của nguyên tắc bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
sâu sắc và cụ thể về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự là cần thiết. Kết quả của việc nghiên cứu sẽ góp phần vào việc nhận
thức đúng, thực hiện đúng các quy định về khiếu nại, tố cáo và giúp chúng ta
nắm bắt được những hạn chế trong các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa các
quy định này, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng
nhà nước pháp quyền. Nhận thức được tầm quan trọng đó, chúng tôi chọn
“Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam”làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là đề tài đã được đề cập ở những
cấp độ và mức độ nghiên cứu khác nhau.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, có một số luận văn nghiên cứu về
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự như: Luận văn Hoàn thiện pháp luật về
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay của tác giả Mai Thị Chung tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001; Luận văn Giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt
Nam hiện nay của tác giả Phạm Quốc Huy tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2008; Luận văn Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt
Nam của tác giả Nguyễn Thị Hương tại Khoa Luật Đại học Quốc gia năm
2009; Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của tác giả Phạm Văn Long tại Khoa Luật Đại học
Quốc gia năm 2011; Luận văn Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình

sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đinh Văn Sơn
2


tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012 và một số luận văn
khác. Các luận văn nói trên đã đề cập một số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự, phân tích các quy định của BLTTHS năm 2003 để
chỉ ra những điểm tiến bộ và bất cập, hạn chế trong quy định về khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự.
Ở góc độ tạp chí chuyên ngành, hội thảo khoa học, công trình nghiên
cứu các cấp cũng có nhiều bài nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự như: “Về người khiếu nại, tố cáo vàngười bị khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự” của tác giả Lê Cảm trên Tạp chí Kiểm sát số 20/2004; “Khiếu
nại, tố cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003” của tác giả Phạm Hồng Hải
trên Tạp chí Luật học, số 6/2004; “Tố cáo và giải quyết tố cáo trong tố tụng
hình sự: Những vấn đề thực tiễn và lý luận” của tác giả Lê Cảm trên Tạp chí
Khoa học số 23/2007; “Về đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trọng Phúc trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 8/2007; “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân” của tác
giả Phan Thị Thanh Mai trên Tạp chí Luật học số 5/2012; “Bảo đảm quyền
khiếu nại, tố cáo theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thuỳ Dương,
“Một số vấn đề về khiếu nại, tố cáo và những yêu cầu đặt ra trong việc hoàn
thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo” của tác tại Phạm Hồng Thái tại Hội thảo
khoa học: Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay do
Khoa Luật Đại học Quốc gia và Uỷ ban thường vụ Quốc hội phối hợp tổ
chức ngày 15/07/2016 tại Hà Nội; Đề tài khoa học cấp Bộ Quan hệ phối hợp
giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, Toà án trong giải quyết và kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự - Thực trạng và giải
pháp của Vụ khiếu tố - Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2014...


3


Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây ở những mức độ khác
nhau, đã ít nhiều khái quát được các vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo nói
chung và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự nói riêng, cũng như đề cập
đến thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu đó thường dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí
khoa học pháp lý chuyên ngành, hoặc các bài viết cho hội thảo khoa học mà
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách, hệ thống và toàn diện về nguyên
tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Bên
cạnh đó, những vấn đề về pháp luật và thực tiễn trong các công trình nói trên
được nghiên cứu trên cơ sở quy định và thi hành BLTTHS năm 2003. Luận
văn của tác giả sẽ kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những vấn đề lý
luận của những công trình nghiên cứu trước, phân tích những vấn đề pháp
luật và thực tiễn mới về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, so sánh
với BLTTHS năm 2003, tìm ra những điểm tiến bộ cũng như những hạn chế,
bất cập trong BLTTHS năm 2015, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự. Vì vậy, có thể khẳng định luận văn này là công trình nghiên cứu một
cách độc lập của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về
nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; phân tích
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo và thực tiễn thi hành; phân tích những yêu cầu và
đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nguyên tắc bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.


4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm, xác định nội hàm, đặc trưng của nguyên tắc bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và phân tích ý nghĩa của
nguyên tắc này.
- Trên cơ sở tình hình áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá thực trạng, chỉ ra kết quả đã đạt
được cũng như những hạn chế và nguyên nhân.
- Trình bày một số quan điểm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp luật và
thực tiễn về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, so sánh, đối chiếu
với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu
lực pháp luật và thực tiễn áp dụng từ năm 2014 đến 6 tháng năm 2018.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩaMác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm cơ
chế hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ pháp chế xã hội

chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng các thành tựu về khoa học của
chuyên ngành pháp lý, các nhà chuyên môn, các luận điểm nghiên cứu của
5


các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài
viết chuyên ngành pháp lý được đăng trên các tạp chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp nghiên
cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích, diễn giải, tổng
hợp; đồng thời, cũng sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê, so sánh
trong phần đánh giá thực trạng.
Ngoài ra,đề tài còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như:phương
pháp lịch sử, tổng hợp… đồng thời đề tài còn sử dụng các nghị quyết của
Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước, tài liệu của Viện kiểm sát trong quá
trình thực hiện các giai đoạn tố tụng có liên quan đến nguyên tắc bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là đề tài nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam trên phương diện lý luận, pháp luật và thực
tiễn. Đề tài giải quyết được các nội dung sau:
- Phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
nguyên tắc khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: khái niệm khiếu nại; khái
niệm tố cáo; bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự.
- Phân tích quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong
tố tụng hình sự để xác định sự cần thiết của nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo trong các giai đoạn tố tụng của luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Tổng hợp và phân tích các nguyên nhân của tồn tại trong quá trình áp

dụng nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đánh
giá tác động của các hệ quả này đối với thực tiễn áp dụng.
6


- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao nhận
thức của người dân về quyền khiếu nại, tố cáo, cũng như hạn chế những sai
sót đối với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống và toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về nguyên tắc bảo đảm
khiếu nại, tố cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Về lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số nội dung lý
luận về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
- Về thực tiễn: luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo trong việc tổng
kết thực tiễn, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nguyên tắc bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự
Chương 2: Sự thể hiện của nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thi hành và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

7



CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự
Để xây dựng khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự, trước hết cần làm rõ các khái niệm khiếu nại, tố cáo và
khái niệm nguyên tắc trong tố tụng hình sự.
Về khái niệm khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Khiếu nại trong tố tụng hình sự thực chất là trường hợp cụ thể của khiếu nại
nói chung và khiếu nại trong hoạt động tư pháp nói riêng. Do vậy, để hiểu đúng
bản chất của khiếu nại trong tố tụng hình sự, cần bắt đầu từ việc làm rõ các khái
niệm tiền đề như: “khiếu nại” và “khiếu nại trong hoạt động tư pháp”.
Khiếu nại là một hiện tượng khách quan phát sinh trong đời sống xã hội,
như là sự phản ứng có tính tự nhiên của con người trước một việc làm nào đó
mà người khiếu nại cho rằng việc đó là không phù hợp với các quy tắc chuẩn
mực trong đời sống cộng đồng, hay không hợp lý và xâm phạm tới quyền, tự
do, lợi ích của mình. Vì vậy, khiếu nại phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời
sống cộng đồng con người [39, tr. 1].
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Khiếu nại là việc đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không
hợp lí” [36, tr.501].Về phương diện xã hội, khiếu nại là việc công dân phản
đối, không chấp nhận một việc làm hoặc một quyết định của một tổ chức làm
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của họ.
Đặt trong mối quan hệ công dân với Nhà nước, khiếu nại là một hình
thức công dân hướng đến các cơ quan nhà nước, hay tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang khi thấy quyết định hay hành vi xâm phạm tới quyền,
8



lợi ích của mình, “hướng tới ở đây cũng chính là sự phản ứng trước những
việc làm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
đó mà người hướng tới cho rằng việc làm đó xâm phạm tới quyền, tự do, lợi
ích của mình” [39, tr.1]. Bên cạnh đó, PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt cho rằng:
“Khiếu nại được sử dụng khi quyền chủ thể của bản thân công dân khiếu nại
hoặc của người do mình bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi trái
pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước hoặc viên
chức nhà nước”[52, tr.477]. Nói cách khác, khiếu nại là một trong những
phương thức bảo vệ quyền chủ thể, tạo cơ chế thuận lợi để cá nhân, cơ quan, tổ
chức sử dụng quyền khiếu nại của mình đối với cơ quan, người có thẩm quyền
mà theo họ đã bị quyết định hay hành vi trái pháp luật xâm phạm tới.
Theo sách Thuật ngữ pháp lý phổ thông thì khiếu nại là “việc yêu cầu cơ
quan nhà nước, trước tiên là tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết
việc vi phạm quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay
người khác” [31, tr. 206].
Pháp luật Việt Nam hiện nay không thừa nhận khiếu nại trong hoạt động
lập pháp mà chỉ quy định khiếu nại trong hoạt động hành pháp và khiếu nại
trong hoạt động tư pháp. Như đã trình bày ở trên, khiếu nại trong tố tụng hình
sự thực chất là một dạng khiếu nại trong hoạt động tư pháp. Vậy khái niệm
“hoạt động tư pháp” là gì?
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi của hoạt động tư
pháp. Tuy nhiên, theo tác giả thì những hoạt động tố tụng nói chung theo quy
định của pháp luật gồm: hoạt động trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính của chủ thể mang quyền lực nhà nước thì được gọi
là “hoạt động tư pháp”. Từ đó có thể thấy, nội hàm của khái niệm “hoạt động
tư pháp” tương đồng với nội hàm của khái niệm “hoạt động tố tụng”, nghĩa là
“hoạt động tư pháp” và “hoạt động tố tụng” đều là những hoạt động trong các
lĩnh vực tố tụng được thực hiện bởi các chủ thể mang quyền lực nhà nước.
9



Qua phân tích trên, có thể rút ra một số khái niệm sau:
Hoạt động tư pháp là hoạt động trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính do các chủ thể mang quyền lực nhà nước thực
hiện theo quy định của pháp luật tố tụng.
Khiếu nại trong hoạt động tư pháp là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo
quy định của pháp luật đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem
xét lại quyết định, hành vi mang tính quyền lực nhà nước trong hoạt động tố
tụng, khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, có thể thấy khái niệm “khiếu nại trong tố tụng hình sự” nằm
trong nội hàm của khái niệm “khiếu nại trong hoạt động tư pháp”. Tuy
BLTTHS không quy định rõ khái niệm “khiếu nại trong tố tụng hình sự”
nhưng khái niệm này lại được định nghĩa tại khoản 1 Điều 3 Thông tư liên
tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày
05/9/2018, cụ thể như sau:
“Khiếu nại trong tố tụng hình sự” là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân
(sau đây gọi chung là người khiếu nại), theo thủ tục quy định tại Chương
XXXIII của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị cơ quan, người có thẩm
quyền xem xét lại quyết định, hành vi tố tụng, quyết định giải quyết
khiếu nại khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài khái niệm “khiếu nại trong tố tụng hình sự”, khoản 2 Điều 3
Thông tư nói trên còn đưa ra khái niệm “Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam”,
đó là: “khiếu nại đối với các lệnh, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 474
Bộ luật Tố tụng hình sự và các hành vi thực hiện các lệnh, quyết định đó”.

10



Như vậy, khái niệm “khiếu nại trong tố tụng hình sự” của Thông tư nói
trên có nội hàm hẹp hơn khái niệm “khiếu nại trong tố tụng hình sự” mà
chúng tôi xây dựng trong luận văn này.
Trong Nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân là
quan hệ bình đẳng cho nên việc coi khiếu nại là “đề nghị xem xét lại” là đặt
người khiếu nại vào “thế yếu” so với các cá nhân, cơ quan, tổ chức bị khiếu
nại. Vì vậy, để thay cho “đề nghị xem xét lại” nên sử dụng thuật ngữ “yêu
cầu” sẽ hợp lý hơn và thể hiện được sự phản ứng của cá nhân. Từ đó, ta có
thể xây dựng khái niệm khiếu nại trong tố tụng hình sự như sau:
Khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu sự
tác động trực tiếp của các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền giải
quyết, xem xét lại các quyết định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bên cạnh khiếu nại, tố cáo cũng là phản ứng trong đời sống xã hội khi
con người thấy một việc làm sai trái, không hợp lý, xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tố cáo theo Từ
điển Tiếng Việt là “1. Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết
người hoặc hành động phạm pháp nào đó; 2. Vạch trần hành động xấu xa
hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn” [36, tr. 1008]. Xét ở
góc độ chung nhất, tố cáo được xem như là “một hành động thể hiện sự tự do
ngôn luận cá nhân, một công cụ chống tham nhũng và các vi phạm khác có
hại; một cơ chế giải quyết tranh chấp nội bộ, trong đó nhấn mạnh đến việc tiết
lộ các hành vi bất hợp pháp, tham nhũng, vô đạo đức, quản lý yếu kém tại nơi
làm việc hoặc trong nội bộ tổ chức” [23, tr. 84].

11



GS. TSKH. Lê Cảm đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tố cáo
trong tố tụng hình sự như sau:
Tố cáo trong luật tố tụng hình sự là việc cá nhân theo trình tự và
thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định báo cho cơ quan, người
có thẩm quyền giải quyết tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của bất
kỳ người tiến hành tố tụng nào trong các hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử hoặc/và thi hành án hình sự đã gây nên (hoặc đe dọa gây
nên) thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức cũng như lợi ích của Nhà nước [20, tr.118].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3, Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLTVKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 05/9/2018 thì:
“Tố cáo trong tố tụng hình sự” là việc cá nhân theo thủ tục quy
định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng hình sự, báo cho cơ quan,
người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà họ cho
rằng hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Những khái niệm trên đã thể hiện được một phần tính đặc thù của tố cáo,
thể hiện được tinh thần dân chủ, bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp
năm 2013 là “mọi người” đều có quyền tố cáo chứ không chỉ là công dân.
Tuy nhiên, những khái niệm trên chưa phân biệt được tố cáo với tố giác tội
phạm, hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo trong tố tụng hình sự phải chưa có
dấu hiệu của tội phạm. Vì vậy, có thể đưa ra khái niệm về tố cáo trong tố tụng
hình sự như sau:
Tố cáo trong tố tụng hình sự là việc cá nhân theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự báo cho cơ quan, người có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật chưa có dấu hiệu của tội phạm của bất cứ cơ quan, người có
12



thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến
lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là làm cho chắc chắn thực hiện
được [36, tr. 38]; “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho
được hưởng được làm [36, tr.815]. Vì vậy, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là
làm cho mỗi cá nhân chắc chắn thực hiện được quyền bảo vệ quyền chủ thể
của mình theo pháp luật quy định bằng phương thức khiếu nại, tố cáo. Quyền
khiếu nại, tố cáo được thực hiện trong suốt quá trình diễn ra các hoạt động tố
tụng hình sự. Các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo.
Về khái niệm nguyên tắc trong tố tụng hình sự
Thuật ngữ “nguyên tắc” được bắt nguồn từ tiếng Latinh là “principium”
có ba nghĩa sau đây: 1. Luận điểm cơ bản, luận điểm gốc của học thuyết nào
đó; 2. Tư tưởng chỉ đạo của quy tắc hoạt động; niềm tin, quan điểm đối với sự
vật và chính quan điểm, niềm tin đó xác định quy tắc hành vi; 3. Nguyên lý
cấu trúc và hoạt động của bộ máy dụng cụ thiết bị nào đó. Hay còn được hiểu
là “cái gì đó mang tính xuất phát điểm, dẫn đầu, chủ đạo”[53, tr.85].
Nguyên tắc là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một
loạt việc làm” [34, tr. 694]. Như vậy nguyên tắc được hiểu là “tư tưởng chỉ
đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó” [21, tr. 45]. Theo GS. TSKH.
Đào Trí Úc, nguyên tắc pháp luật được hiểu là: “Những tư tưởng xuất phát
điểm, có tính chủ đạo, định hướng là quy tắc cơ bản của hành động” [45, tr.
3]. Từ đó, có thể thấy rằng, nguyên tắc không thể thiếu trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người, bảo đảm cho hoạt động đó đi đúng hướng
và có hiệu quả. Tuy nhiên, bàn về nguyên tắc trong tố tụng đang có các quan
điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng:

13



Nguyên tắc của luật tố tụng hình sự: “Là những phương châm định
hướng chi phối toàn bộ hay một số hoạt động tố tụng hình sự được ghi nhận
trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản khác có liên quan”
[38, tr.5].
Trong khi đó, lại tồn tại quan điểm khác cho rằng, nguyên tắc của tố
tụng hình sự là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có giá trị pháp lý bắt buộc
chung đối với các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự [28,
tr. 59].
Như vậy, hiện đang có nhiều quan niệm về “Những nguyên tắc cơ bản”
được quy định tại Chương II BLTTHS năm 2015 với các cách tiếp cận khác
nhau. Mỗi cách tiếp cận đều có lý luận làm cơ sở cho quan niệm của mình. Sự
đa dạng trong nghiên cứu giúp chúng ta có thể nhìn nhận sự việc ở mọi khía
cạnh để tiệm cận chân lý khách quan. Tác giả đồng ý với quan niệm thứ hai
vì, trước hết, nguyên tắc là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để
làm việc, xem xét. Những nguyên tắc trong pháp luật bao giờ cũng là sự thể
hiện hệ thống quan điểm của Nhà nước về pháp luật nói chung. Khi nói đến
nguyên tắc là đề cập đến quy định có tính định hướng đối với hoạt động nào
đó chứ không thể định hướng cho quy định nào đó vì chỉ hoạt động mới có
tính động, diễn biến theo thời gian còn quy định có tính tĩnh, là kết quả của
hoạt động nên không thể nói “nguyên tắc cơ bản của luật” mà phải là “nguyên
tắc cơ bản của hoạt động”. “Tố tụng hình sự” được hiểu là toàn bộ hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng và các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật” [22, tr.
239]. Do vậy, những hoạt động của các chủ thể này trong tố tụng hình sự phải
tuân theo những “điều cơ bản đã định ra” là yếu tố khách quan. Đó là những
nguyên tắc tố tụng hình sự.
14



Tiếp theo, pháp luật tố tụng hình sự là hệ thống những văn bản pháp luật
tố tụng bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng
của những cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự. Điều đó có nghĩa là, hệ thống những nguyên tắc cơ bản này có ý nghĩa
trong xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và có ý nghĩa trong
hoạt động tố tụng hình sự . Vì vậy, những nguyên tắc cơ bản trong chương II
BLTTHS năm 2015 là những nguyên tắc của TTHS được quy định trong luật
để điều chỉnh các hoạt động của chủ thể trong lĩnh vực TTHS.
Không chỉ mang tính định hướng mà nguyên tắc trong tố tụng hình sự
còn mang tính đòi hỏi khách quan đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự đạt
được mục đích. Vì vậy, việc ghi nhận, thay đổi hay xóa bỏ một nguyên tắc
nào đó trong TTHS trên cơ sở mục đích đặt ra đối với hoạt động đó thì mới
đảm bảo tính khoa học và tính khả thi. Như vậy có thể định nghĩa: Nguyên tắc
của TTHS là sự thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách của Nhà nước
ta; là những định hướng cơ bản trong xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng
hình sự nhằm hoàn thiện quá trình tố tụng hình sự, vận hành một cách thống
nhất, đồng bộ trong phạm vi toàn quốc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; tổ chức, động viên
được các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự
nói riêng và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những nguyên
tắc cơ bản của tố tụng hình sự được đưa ra làm định hướng cho việc xây dựng
các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và thực thi các quy phạm pháp luật
này trong thực tiễn liên quan đến các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự.
Nguyên tắc này thể hiện quyền dân chủ của cá nhân, cơ quan, tổ chức, là một

15



trong những nguyên tắc cơ bản khi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền. Nguyên tắc này đảm bảo việc thi hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng
hình sự với mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền phản ánh khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình và người khác
bị xâm hại trong toàn bộ các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự. Mặt
khác, nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo với bản chất là đảm bảo cơ
chế giám sát một cách thực thi nhất đối với các hoạt động tố tụng hình sự của
cá nhân, cơ quan, tổ chức đảm bảo các hoạt động tố tụng hình sự đúng pháp
luật. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo
quyền khiếu nại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức, quyền tố cáo cho cá nhân.
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa: Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo trong TTHS là tư tưởng chủ đạo, định hướng cơ bản thể hiện quan điểm
của Nhà nước được BLTTHS ghi nhận để một mặt bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu nại, cá nhân tố cáo, mặt khác điều
chỉnh hoạt động giám sát một cách thực thi nhất đối với các hoạt động tố tụng
hình sự nhằm đảm bảo các hoạt động này đúng pháp luật đồng thời là phương
thức hạn chế sự lạm quyền trong chức năng quản lý xã hội của Nhà nước.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự
1.2.1. Cơ sở lý luận
Ý tưởng về nhân phẩm con người đã có từ xa xưa trong lịch sử nhân loại,
dưới các hình thức khác nhau, trong tất cả các nền văn hóa và tôn giáo. Tuy
nhiên, ý tưởng về quyền con người là kết quả của tư tưởng triết học thời hiện
đại, không chỉ dựa trên triết học của chủ nghĩa duy lý và thời đại khai sáng,
chủ nghĩa tự do và dân chủ, mà còn dựa trên lý luận về chủ nghĩa xã hội. Khái
niệm về quyền con người hiện đại chủ yếu bắt nguồn từ châu Âu, nhưng cần
khẳng định rằng, khái niệm tự do và công bằng xã hội – những khái niệm cơ
bản của quyền con người, nằm trong mọi nền văn hóa.
16



Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C.Mác đã xác
định: “Con người là “con người xã hội” là sự “tổng hòa các quan hệ xã hội”,
cho nên quyền con người thể hiện sâu sắc giá trị quan hệ xã hội và hiển nhiên
mang bản chất đó” [19, tr.11].
Theo từ điển Luật học thì quyền con người là: “Quyền của thành viên
trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu
cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia” [18, tr.648].
Quyền con người là một nội dung lớn của thế giới ngày nay. Đây là giá
trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới, là tiếng nói
chung, sản phẩm chung, mục tiêu chung, phương tiện chung của mọi quốc
gia, dân tộc trên thế giới để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm, hạnh phúc của
mọi con người. Nó không còn là nhận thức, là quan điểm mà hữu hình bằng
các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung, phản ánh quy luật
và hướng đi tất yếu của xã hội loài người cũng như sự hình thành các cơ chế
bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, do điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát
triển không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu
của mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Chính vì
vậy, ở các quốc gia khác nhau, quyền con người được ghi nhận ở mức độ
khác nhau và bảo đảm thực hiện bởi hệ thồng pháp luật của quốc gia đó.
Là thành viên của các Công ước Quốc tế về quyền con người, Nhà nước
Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các cam kết của mình đồng thời chủ động
hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong nhiều hoạt động trên
lĩnh vực quyền con người. Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực
hiện quyền con người ở Việt Nam trình bày tại Hội đồng nhân quyền Liên
17



Hợp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ ngày 08/5/2009 cũng khẳng định: “Nhà nước
Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển
kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền
con người”. Do đó, chúng ta cần bảo vệ thành quả này trong mọi lĩnh vực, đặc
biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự bởi hoạt động tốtụng hình sựlà một mặt
hoạt động của Nhà nước, liên quan rất chặt chẽvới quyền con người. Hoạt
động tốtụng hình sựlà nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng
phổ biến nhất, vì vậy là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng dễ bị
xâm hại nhất.
Quyền con người trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền thuộc nhóm
quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng
như bảo đảm việc xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập, khách quan đối
với những người yếu thế khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và
nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự. Bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm
mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong tố tụng
hình sự và bảo vệ và thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền con người căn bản
thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị được ghi nhận và bảo vệ trong nhiều văn
kiện pháp lý về nhân quyền, cụ thể như trong Công ước quốc tế về quyền dân
sự và chính trị năm 1966 tại điểm b, mục 3, Điều 2 như sau: “Đảm bảo rằng
khiếu nại về việc vi phạm của bất kỳ người nào phải được giải quyết bởi cơ
quan tư pháp, hành chính, lập pháp có thẩm quyền hoặc những nhà chức trách
có thẩm quyền khác do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định và phát triển
cơ chế giải quyết tư pháp thích hợp” [44, tr.79]. Quyền khiếu nại là một trong
18



×