Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại xã thụy bình, huyện thái thụy, tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ MINH HÒA

CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ
GIA ĐÌNH NGĂN NGỪA HÀNH VI LỆCH CHUẨN Ở TRẺ
VỊ THÀNH NIÊN TẠI XÃ THỤY BÌNH, HUYỆN THÁI THỤY,
TỈNH THÁI BÌNH
Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 876 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ THỊ THƯ

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: Công tác xã hội trong hỗ trợ gia
đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại xã Thụy Bình,
huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Thư và những kết quả nghiên cứu trong
luận văn này là hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019


Học viên

Phạm Thị Minh Hòa


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả các quý thầy cô đã
giảng dạy trong chương trình cao học Công tác xã hội khóa 2 – Học viện
Khoa học xã hội, những người đã giúp tôi có nhiều kiến thức về Công tác xã
hội làm nền tảng cho tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS Hà Thị Thư đã quan tâm, nhiệt tình
hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ chính quyền, các tổ chức đoàn thể và
nhân dân xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đã cung cấp thông
tin và hợp tác với tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều
nên luận văn còn thiếu sót, rất mong nhận được những góp ý của quý thầy cô
và các anh chị học viên.
Học viên

Phạm Thị Minh Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG HỖ TRỢ GIA ĐÌNH NGĂN NGỪA HÀNH VI LỆCH CHUẨN
Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN ......................................................................................... 14
1.1. Lý luận về hành vi lệch chuẩn và trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn. ........... 14
1.2. Lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn

ở trẻ vị thành niên .................................................................................................................. 22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành
vi lệc chuẩn ở trẻ vị thành niên ............................................................................................ 35
1.4. Một số chính sách, pháp luật của nhà nước liên quan đến công tác xã hội trong
ngăn ngừa hành vi lệc chuẩn ở trẻ vị thành niên ............................................................... 39
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................................... 41
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ GIA
ĐÌNH NGĂN NGỪA HÀNH VI LỆCH CHUẨN Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
TẠI XÃ THỤY BÌNH, HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH .......................... 42
2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu ........................................................... 42
2.2. Thực trạng các hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành
vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên ......................................................................................... 46
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn
ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên ...................................................................... 61
Chương 3: BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG HỖ TRỢ GIA ĐÌNH NGĂN NGỪA HÀNH VI LỆCH CHUẨN
Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TỪ THỰC HIỆN HUYỆN THÁI THỤY,
TỈNH THÁI BÌNH ..................................................................................................... 66
3.1. Biện pháp ứng dụng phương pháp công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn
ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên ...................................................................... 66
3.2. Giải pháp truyền thông phối hợp giữa gia đình, nhà trường và chính quyền địa
phương .................................................................................................................................... 68
3.3. Giải pháp tham vấn/ tư vấn cho gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị
thành niên ............................................................................................................................... 69
3.4. Giải pháp kết nối gia đình với cơ quan chức năng trong ngăn ngừa hành vi
chuẩn lệch ở trẻ vị thành niên .............................................................................................. 71
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 75



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT

CTXH

Công tác xã hội

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

PCT.UBND

Phó chủ tịch. Ủy ban nhân dân

HVLC

Hành vi lệch chuẩn


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Bảng số liệu khảo sát nhu cầu của các gia đình ................................................. 45
Bảng 2.2: Bảng đánh giá sự cần thiết của các nội dung truyền thông ................................ 48
Bảng 2.3: Bảng đánh giá tần suất của các nội dung truyền thông ...................................... 50
Bảng 2.4: Bảng đánh giá sự cần thiết của các nội dung tư vấn/ tham vấn ......................... 52
Bảng 2.5: Bảng đánh giá tần suất về nội dung tư vấn/ tham vấn ........................................ 55
Bảng 2.6: Bảng đánh giá tần suất các hình thức tư vấn/ tham vấn ..................................... 57

Bảng 2.7: Bảng đánh giá tần suất nội dung kết nối gia đình với các cơ quan chức năng ... 59
Bảng 2.8: Bảng đánh giá nội dung kết nối gia đình với các cơ quan chức năng ................ 60
Bảng 2.9. Bảng đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố .............................................. 62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng mang
đến cho con người nhiều tiện nghi trong cuộc sống nhưng cũng kéo theo đó
là những mặt trái còn tồn tại nhức nhối trong mọi mặt đời sống. Chúng ta
đang phải đối mặt với những thách thức to lớn từ môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội đặc biệt là mối quan hệ giữa người với người. Trước đây, trẻ
thường được học văn hóa, ứng xử thông qua gia đình, làng xã, văn hóa dân
gian, chương trình giáo dục chính quy… thì ngày nay, những chuyển biến xã
hội diễn ra quá nhanh chóng đã phần nào hạn chế chức năng giáo dục của gia
đình và các thiết chế truyền thống đem lại cho lứa tuổi thanh thiếu niên, đặc
biệt là các em ở tuổi vị thành niên nhiều thử thách. Trong bất kỳ thời kỳ nào
của lịch sử, gia đình luôn là chiếc nôi để hình thành, giáo dục, nuôi dưỡng
nhân cách của mỗi con người. Gia đình trong xã hội hiện đại ngày nay càng
có vai trò quan trọng, từ định hướng, nuôi dưỡng nhân cách cũng như giáo
dục con người từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành, trở thành những công dân
có ích đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của xã hội.
Quá trình đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế ngày nay tạo ra nhiều
cơ hội và điều kiện để gia đình Việt Nam phát triển, tuy nhiên việc ngăn ngừa
hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên trong gia đình cũng gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Thực tế ta thấy ở nhiều gia đình, các bậc cha mẹ giáo dục
con cái chủ yếu là theo thói quen, theo truyền thống, kinh nghiệm tiếp thu
được từ thế hệ đi trước. Nếu cứ theo cách giáo dục như vậy thì chưa đủ và sẽ
chưa thu được kết quả như mong muốn. Vì xã hội không ngừng vận động và
biến đổi theo thời gian. Gia đình là một tế bào tuy nhỏ nhưng vô cùng quan

trọng của xã hội khi ấy cũng phải biến đổi theo cái xu thế ấy của xã hội. Chọn
phương pháp giáo dục nào trong hoàn cảnh nào, với đối tượng như thế nào
cho phù hợp cần có một sự lựa chọn hợp lý, hợp lý với suy nghĩ của cha mẹ
và với tâm thế của con. Không nên giáo dục con cái bằng biện pháp nuông
1


chiều quá mức cũng như không nên giáo dục con cái bằng cách quá nghiêm
khắc, thậm chí có những gia đình chuyên sử dụng các biện pháp bạo lực để
giáo dục con cái, điều này là hoàn toàn không nên vì nó ảnh hưởng đến sự
phát triển toàn diện của trẻ dẫn đến hành vi lệch chuẩn ở trẻ. Trong những
năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn (HVLC) như:
vô lễ, hỗn láo với cha mẹ, đua xe, vi phạm pháp luật, sử dụng ma túy, quan hệ
tình dục sớm, bạo lực… đang ngày càng gia tăng và ở mức báo động, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường xã hội nhân cách trong tương lai
Bên cạnh đó, ngành CTXH đã và đang có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển bình đẳng và tiến bộ của mỗi quốc gia và nhân loại. Đặc biệt,
CTXH góp phần giải quyết vấn đề xã hội liên quan đến đời sống của từng cá
nhân, từng nhóm và cộng đồng những người yếu thế. Khi nền kinh tế phát
triển, kéo theo đó là những hệ lụy tiêu cực, những vấn đề xã hội phức tạp, thì
CTXH sẽ giúp con người hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và hướng con
người đến một cuộc sống tốt đẹp. CTXH cũng tham gia vào công cuộc phòng
ngừa và ngăn chặn những hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên.
Các công trình nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn ở lứa tuổi vị thành
niên khá nhiều, nhưng nghiên cứu dưới góc độ công tác xã hội hỗ trợ gia đình
trong việc ngăn ngừa hành vi này thì còn khá mới mẻ. Chính vì vậy, học viên
đã chọn đề tài: “Công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi
lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, Tỉnh
Thái Bình” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Trong tác phẩm “L’uomo delinquent” (Người phạm tội- 1876) của nhà
nghiên cứu người Ý Cesare Lombroso, ông nghiên cứu và đưa ra những luận
điểm phân tích chứng minh hành vi phạm tội của con người liên quan đến cấu
trúc cơ thể (yếu tố sinh học), chỉ rõ “Tội phạm là dạng thấp của hành vi và người
phạm tội, gần giống với tổ tiên loài người hơn là những người khác”. [38] Theo
ông, vì có những khiếm khuyết về mặt sinh học (trán thấp, cằm, gò má nhỏ, tai
2


vểnh, nhiều râu tóc, cánh tay dài bất thường…) nên có những cá nhân có tư duy
và hành động theo cách nguyên thủy nên dễ dẫn đến phạm tội…
Đến nay, rất nhiều quan điển của ông và học trò vẫn gây ra nhiều tranh
luận. Tuy nhiên những nhận định của ông về tội phạm vị thành niên lại rất
đáng để chúng ta lưu tâm. Ông cho rằng, những đặc điểm sinh học gắn liền
với lứa tuổi và tâm lý mà tuổi trẻ trong đó có vị thành niên là những đối tượng
dễ gây ra tội phạm và các hành vi sai lệch xã hội. Vì vậy nếu biết ngăn chặn
và phòng ngừa kịp thời thì “Khi vượt qua lứa tuổi này, con người lại dễ trở
thành những người lương thiện”. Đây là những gợi mở rất đáng chú ý khi
nghiên cứu về tội phạm vị thành niên.
Trong cuốn sách “Criminilogy” (tội phạm học- 1885) của Nhà tội phạm
học nổi tiếng tác giả Raffaele Garofalo đã cho rằng: về bản chất, con người luôn
ẩn chứa trong mình những yếu tố tự nhiên và sự phạm tội. Điều này gắn liền với
điều mà ông gọi là “bản năng sinh tồn tự nhiên”[39]. Khác với Lombroso, ông
đã nhấn mạnh tới khả năng khắc chế bản năng tự nhiên này, đó là thông qua việc
xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh. Raffaele Garofalo đã dành nhiều
công nghiên cứu về hành vi phạm tội của giới trẻ và lên án mạnh mẽ các thiết
chế xã hội đã nuôi dưỡng những mầm mống xã hội tự nhiên của tội phạm và đã
có lúc tỏ ra bi quan về khả năng khắc chế tội phạm này do chính những điều kiện
thay đổi còn quá yếu ớt của các thiết chế xã hội.

Tiếp đến nhà xã hội học nổi tiếng J. Macionis khẳng định rằng, chúng
ta hãy “khoan lên án nhóm vị thành niên phạm tội mà hãy lên án chính cái cơ
chế xã hội không bình thường đã sinh ra hiện tượng vị thành niên phạm
tội”[29]. Với quan điểm của mình ông cho rằng thì bên cạnh việc khắc phục
trực tiếp những vụ việc vi phạm của vị thành niên chúng ta cần phải hành
động vào những vấn đề khác, chẳng hạn chống sự thất học, chống sự nghèo
đói và thất nghiệp và sau cùng là phải tập trung vào việc xây dựng cơ chế
trong sáng, lành mạnh.
Trong những nghiên cứu về tội phạm vị thành niên gần đây, không thể
không nhắc đến những nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc nhóm “Lý
3


thuyết tiểu văn hóa trong tội phạm học” (subcultural theory). Chịu ảnh hưởng
của trường phái Chicago nổi tiếng trong xã hội học, đại diện của nhóm này
như các giáo sư Albert K. Cohen, Richard và Lloyd Ohlin đã gắn kết khái
niệm về bệnh hoạn xã hội (anomie) của Durkheim với lý thuyết phân tâm học
của Freud trong những phân tích về sai lệch xã hội và tội phạm vị thành niên.
Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh tới khía cạnh phải nhận thức đúng đắn về văn
hóa thanh niên để hiểu rõ hơn về nhận thức thức và hành vi của vị thành niên
trong quá trình phạm tội.
Những năm gần đây, các tổ chức quốc tế lớn và nhiều quốc gia đã tổ
chức các cuộc nghiên cứu sâu rộng về hiện tượng vị thành niên vi phạm pháp
luật. Những nghiên cứu này (tương tự như các cuộc điều tra về vị thành niên
của nước ta được tiến hành bởi sự hỗ trợ của tổ chức y tế thế giới SAVY) đã
chú ý việc “xây dựng một bộ công cụ chuẩn” có thể ứng dụng chung cho việc
đo đạc chính xác hiện tượng vị thành niên vi phạm pháp luật ở nhiều địa
phương và khu vực. Điều này đã góp phần quan trọng vào việc làm hình
thành những chỉ báo thống nhất thang đo, kỹ thuật phân tích và xử lý thông
tin khá chính xác về hiện tượng vị thành niên phạm tội, tạo cơ sở so sánh và phối

hợp các hoạt động chung nhằm xử lý tốt nhất vấn đề này ở phạm vi toàn cầu
Trên thế giới việc nghiên cứu khoa học về đối tượng vị thành niên
phạm tội đang có những chuyển biến tích cực. Thay vì nghiên cứu nhiều về
mặt lý luận, lý thuyết hay những nghiên cứu điền dã quy mô lớn, các nhà
khoa học đã quan tâm nhiều hơn tới tính hiệu quả của công tác nghiên cứu.
Những nghiên cứu thực nghiệm đã được quan tâm nhiều hơn.
2.2. Nghiên cứu trong nước
Đề tài“Tội phạm vị thành niên. Thực trạng, giải pháp phòng ngừa và
đấu tranh trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay” (mã số
KX.02.24/11-15) thuộc chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp
Nhà nước “Nghiên cứu khoa học phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội ở Việt Nam đến năm 2020” do tác giả Đặng Cảnh Khanh, Chủ nhiệm
khoa Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Thăng Long, đồng thời là Viện
4


trưởng Viện nghiên cứu truyền thống và phát triển làm chủ nhiệm cho thấy,
tình hình tội phạm vị thành niên nước ta diễn biến ngày càng phức tạp [31].
Thứ nhất, số lượng tội phạm vị thành niên tăng lên, theo số liệu thống
kê của Cục Thống kê Viện Kiểm sát tối cao, trong vòng 5,5 năm (từ năm
2009 đến tháng 6-2014), đã phát hiện mới 35.654 đối tượng vị thành niên vi
phạm pháp luật [44]. Những năm gần đây con số phạm tội trong lứa tuổi vị
thành niên theo báo cáo có xu hướng giảm xuống, tuy nhiên vẫn chiếm hơn
16% so với tổng số bị can phạm tội hình sự do Cơ quan cảnh sát điều tra các
cấp khởi tố điều tra.
Thứ hai, phạm vi tội danh tăng lên, hình thức phạm tội cũng nghiêm
trọng hơn, ngày càng bạo lực, manh động, mang tính tổ chức. Nếu như trước
kia vị thành niên chủ yếu phạm các tội như trộm cắp, gây rối trật tự nơi công
cộng, cướp giật thì ngày nay tỷ lệ phạm các tội cướp tài sản, hiếp dâm, buôn
bán ma túy, giết người… ngày càng nhiều, nhiều vụ án nghiêm trọng gây bức

xúc trong dư luận xã hội. Tỷ lệ các tội danh này tăng nhanh và chiếm tỷ trọng
đáng kể trong cơ cấu tội phạm do vị thành niên gây ra.
Thứ ba, sự mở rộng địa bàn phạm tội, tội phạm vị thành niên trước đây
chủ yếu xảy ra ở các đô thị, các khu vực kinh tế phát triển, hiện nay xảy ra ở
hầu hết các khu vực từ thành thị tới nông thôn, kể cả những vùng xa xôi, hẻo
lánh. Tuy nhiên số lượng tội phạm chủ yếu vẫn tập trung nhiều ở các thành phố,
thị xã, nhất là ở các thành phố lớn. Các địa phương xảy ra nhiều nhất lần lượt
vẫn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Khánh Hòa, Đắk Lắk,...
Thứ tư, tuổi phạm tội ngày càng trẻ hóa. Nếu như trước đây tội phạm vị
thành niên chủ yếu ở trong độ tuổi từ 16 - 18 tuổi, ngày nay tội phạm vị thành
niên dưới 14 tuổi tăng, chiếm tới 13% trong cơ cấu tội phạm vị thành niên,
thậm chí còn xuất hiện cả các băng nhóm tội phạm “nhí”. Điều đó đã khiến
cho nhóm tuổi này phải gánh chịu không ít những khó khăn và sự thiệt thòi
trong học tập, lao động và việc làm. Nó khiến cho trong nhóm xuất hiện nhiều
những sai lệch hành vi.

5


Tác giả Đặng Cảnh Khanh cũng cho rằng: “Tội phạm vị thành niên là
biểu hiện sự tổn thương của nhóm tuổi này, nó gắn liền cả với sự trầm cảm,
sự tự kỷ, thậm chí cả nạn tự tử. Trong hoàn cảnh đó, đối tượng này rất đáng
thương, cần nhiều sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của xã hội, sự tham vấn
của các cán bộ công tác xã hội hơn là sự trừng phạt”. Đề tài cũng đã nêu
nhiều kiến nghị về các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm vị thành
niên, nhấn mạnh tới sự cần thiết phải đưa ra được các giải pháp cơ bản, toàn
diện và lâu dài, xây dựng xã hội lành mạnh, sự kết hợp giữa các đơn vị quản
lý, sự tham gia của gia đình, nhà trường, cộng đồng và sự nỗ lực của chính vị
thành niên. [31]
Cũng theo tác giả Trần Trọng Thủy thì phần lớn các thiếu niên phạm pháp,

phẩm chất tiêu cực chiếm ưu thế trong cấu trúc nhân cách, đó là: thiếu quyết tâm,
vô trách nhiệm, hay bắt chước một cách mù quáng, thô lỗ, gây gổ. [32].
Tác giả Nguyễn Duy Xi là một nhà tâm lý học làm công tác quản lý trại
giam của Bộ Công An trong quá trình nghiên cứu của mình đã đưa ra một số
nhận xét cơ bản về đặc điểm tâm lý của trẻ em làm trái pháp luật như sau [9]:
- Về trí tuệ, ở trẻ làm trái pháp luật có sự phát triển chậm, tư duy trừu
tượng kém hơn trẻ bình thường, không biết phân tích đánh giá đúng một số
hiện tượng mà nặng về tư duy cụ thể thực dụng và rất khéo léo “mưu trí”
trong thực hiện hành vi trái pháp luật như kỹ xảo ăn cắp, móc túi, che dấu, đối
phó với sự theo dõi phát hiện của nhà chức trách.
- Về hứng thú, ham muốn của các em thường nặng về vật chất tầm
thường, thấp hèn, thậm chí kỳ quặc. Các em không còn hứng thú học tập, hiểu
biết như trẻ bình thường, thích đua đòi, ăn chơi như người lớn (có 82%
nghiện thuốc lá, 70% uống bia rượu, 72% nghiện cafe, chè).
- Về tình cảm, thiếu bền vững, thay đổi dễ dàng, nhanh chóng, nhưng
lại mạnh mẽ. Tình cảm có tính rung động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi
nổi là đặc trưng cơ bản của tình cảm ở trẻ em làm trái pháp luật.
- Về tính cách, nét tính cách đặc trưng là các em muốn vươn lên làm
người lớn, muốn hoạt động để thử sức và có xu hướng bắt chước cái xấu của
6


người lớn. Có tính độc lập và tự trọng cao, nên nếu bị chửi rủa, đánh mắng,
xúc phạm thì các em thường có phản ứng quyết liệt, chống trả lại hoặc nảy
sinh tiêu cực bỏ nhà đi lang thang, tỏ ra bất cần đời [9].
Đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp ở người vị
thành niên thì nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc đã chỉ ra: giao tiếp
nhóm (có quan hệ trong nhóm bạn bè) có thể là nguyên nhân khá cơ bản và
rất trực tiếp đưa đứa trẻ tới hành vi phạm pháp, với những trẻ này, giao tiếp
nhóm không hướng trẻ vào hoạt động học tập mà hướng trẻ vào hoạt động

nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất [8]
Từ những nghiên cứu cho tới nay thì mối quan hệ với bạn đồng lứa dẫn
đến hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên là rất lớn. Trẻ rất dễ bắt chước,
học nhau những hành vi xấu và coi đó là trò vui, tiêu khiển. Bên cạnh đó, khi
trẻ vị thành niên bị bạn bè từ chối mối quan hệ, coi thường… thì dễ sinh ra
cảm giác cô độc, ghẻ lạnh hoặc có thể liên quan đến sức khỏe tâm thần và
những vấn đề phạm pháp. Một số nhà nghiên cứu mô tả văn hóa bạn đồng lứa
của trẻ vị thành niên là ảnh hưởng đồi bại, làm giảm giá trị tác động và sự
kiểm soát của cha mẹ. Tệ hơn, nó có thể lôi kéo trẻ vị thành niên vào rượu
chè, ma túy, phạm pháp và những hành vi lệch lạc khác.
Bên cạnh đó, còn nguyên nhân từ phía gia đình. Theo số liệu thống kê
của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm
pháp là do không được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu
mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành
niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố
mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử
của bố mẹ. Các kết quả thống kê đã chỉ ra rằng, đa số các trường hợp làm trái
pháp luật ở trẻ em đều rơi vào khoảng độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, một số
ít trường hợp rơi vào lứa tuổi từ 13 tuổi trở xuống [43].
Vì vậy, tìm hiểu về tâm lý trẻ em làm trái pháp luật, ngoài việc nghiên
cứu tâm lý trẻ vị thành niên nói chung, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu và lý

7


giải các hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi 11 đến dưới 15 là lứa tuổi tập trung
nhiều nhất các hành vi làm trái pháp luật ở trẻ em.
Theo tác giả Trần Thị Minh Đức thì người vị thành niên có hành vi vi
phạm pháp luật thường thuộc nhóm trẻ em chưa ngoan [5, Tr.31,32]. Các đặc
điểm tâm lý nổi trội là:

- Lệch lạc trong nhận thức về hành vi vi phạm: Đó là những sai lệch về
tư duy, kiểu suy nghĩ ủng hộ cho hành vi vi phạm xã hội hay chống đối xã hội
của trẻ (các hành vi này thường thể hiện qua cơ chế biện minh, hợp lý hóa).
Các lệch lạc trong suy nghĩ ăn sâu, bám rễ trong nhận thức và được lặp đi lặp
lại trong hành vi trở thành thói quen hành động của trẻ.
Khi vị thành niên bị người thân bỏ rơi, thiếu nâng đỡ tinh thần hoặc bị
bạo lực, chửi rủa, xỉ vả và xúc phạm liên tục, hoặc trẻ bị sống trong lo sợ,
căng thẳng... trẻ dễ bị tổn thương tâm lý. Đôi khi để giải tỏa trạng thái tâm lý
tiêu cực trong gia đình trẻ có những phản ứng chống trả quyết liệt, bỏ học, bỏ
nhà đi lang thang, sử dụng các chất kích thích, gây ra những hành vi rối loạn
xã hội, như gây hấn với người khác, phá hoại tài sản, trộm cắp, thậm chí tự
hủy hoại bản thân (tự làm đau mình, tự sát). Hành vi lệch chuẩn cũng là một
hiện tượng tâm lý của con người và đằng sau đó là những nhu cầu được lắng
nghe, được thấu hiểu và giúp đỡ của trẻ vị thành niên.
Qua những nghiên cứu của các tác giả về trẻ vị thành niên có hành vi
lệch chuẩn cho thấy được vị thế và vai trò của gia đình và xã hội trong việc
giáo dục nhận thức và hành vi của thế hệ trẻ. Điều này đã hướng tôi đến việc
đưa CTXH giúp đỡ các gia đình ngăn ngừa những hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị
thành niên giúp cha mẹ tiếp cận gần hơn với các em để hiểu và giảm thiểu
những hành vi lệch chuẩn đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ gia
đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên; Phân tích đánh giá thực
trạng của công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở
8


trẻ vị thành niên tại xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và thực
trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành

vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên; Từ đó đưa ra các giải pháp trong việc hỗ trợ gia
đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thu thập thông tin để tổng quan nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn
đề lý luận, công cụ nghiên cứu công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn
ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên.
Khảo sát tại địa bàn nghiên cứu để tìm hiểu, phân tích đánh thực trạng
hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên và công tác xã hội trong hỗ trợ gia
đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên xã Thụy Bình huyện
Thái Thụy tỉnh Thái Bình.
Khảo sát, phân tích thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến việc ngăn
ngừa những hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại các gia đình xã Thụy
Bình huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình.
Đề xuất các giải pháp để hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn
ở trẻ vị thành niên
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở
trẻ vị thành niên
4.2. Khách thể nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên 03 nhóm gồm:
Cha mẹ có con độ tuổi đi học từ 11 tuổi đến 15 tuổi sinh sống tại xã
Thụy Bình, huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình.
Trẻ em có độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi thuộc các hộ gia đình nêu trên.
Cán bộ chính quyền và các đoàn thể của địa phương (Đoàn thanh niên,
công an xã, Hội phụ nữ, giáo viên…)

9



4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các hoạt động công
tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành
niên như: hoạt động truyền thông; hoạt động tư vấn/tham vấn; hoạt động kết
nối gia đình với các cơ quan chức năng trong việc ngăn ngừa hành vi sai lệch
ở trẻ vị thành niên
- Phạm vi về khách thể: Khảo sát 60 hộ gia đình (là cha hoặc mẹ); phỏng
vấn sâu 03 trẻ em (11- 15 tuổi), 03 người là cha mẹ và phỏng vấn sâu 04 cán bộ
chính quyền và các đoàn thể của địa phương (Đoàn thanh niên, công an xã, giáo
viên, hội phụ nữ…)
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại 3 thôn An Ninh, Hạ Tập, Trà Hồi
của xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Những nguyên tắc và quan điểm của Mác - Lê Nin là cơ sở phương
pháp luận đóng vai trò nền tảng xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài.
Vì vậy khi nghiên cứu công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành
vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên cần phải đặt đối tượng nghiên cứu trong mối
quan hệ với các yếu tố khác. Với mục đích tìm hiểu thực trạng về hỗ trợ gia
đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên, xem xét quá trình đó
diễn ra như thế nào? Nó tác động như thế nào đến lối sống, cách đối nhân xử
thế của các em. Khi nghiên cứu vấn đề hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch
chuẩn ở trẻ vị thành niên cần phải đặt vấn đề trong hoàn cảnh lịch sử, các vấn
đề xã hội chúng ta sẽ thấy rõ hơn được các vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nguồn tài liệu sử dụng có hai mảng. Một là các tài liệu, bài viết, trích
đoạn, các nghiên cứu, tạp chí, các báo cáo khoa học ý kiến có liên quan đến
hành vi lệch chuẩn nói chung và hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên trong
các gia đình nói riêng. Thứ hai là nguồn tài liệu thu thập được từ địa phương,

10


bao gồm các báo cáo tổng kết hàng năm của xã Thụy Bình và của 03 thôn
(địa bàn nghiên cứu trực tiếp).
Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp này để tìm hiểu số liệu về thực
trạng việc hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên
thông qua các báo cáo của địa phương, huyện.
5.2.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp điều tra bẳng hỏi nhằm mục đích thu thập các thông tin về
nhận thức, hành vi thậm chí cả những thông tin vào các hành vi thực tế trong
quá khứ, hiện tại và cả dự định của họ trong tương lai. Bảng hỏi là một công
cụ quan trọng trong nhận thức thực nghiệm và là một hệ thống các câu hỏi
được xếp đặt trên cơ sở logic bảo đảm theo nội dung của vấn đề nghiên cứu
nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thể hiện quan điểm của mình với
những vấn đề thuộc về đối tượng nghiên cứu và người nghiên cứu thu nhận
được các thông tin cá biệt đầu tiên đáp ứng các yêu cầu của đề tài, mục tiêu
và nội dung nghiên cứu.
Khảo sát 60 người (là cha hoặc mẹ) của 03 thôn. Căn cứ vào các gia
đình có ít nhất một người con trong độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên mẫu: về cha mẹ và mẫu nghiên cứu
thuộc trẻ em tương ứng với các gia đình
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại giữa nhà nghiên cứu và người
cung cấp thông tin với mục đích để tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận
thức của người được hỏi nhằm cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ
của người ấy
Phỏng vấn 10 người, trong đó có 03 người là cha mẹ và 03 người là trẻ
em từ 11 đến 15 tuổi có các đặc điểm cá nhân khác nhau; 01 cán bộ Đoàn
thanh niên, 01 cán bộ công an xã, 01 giáo viên, 01 cán bộ Hội phụ nữ để có

thể tìm hiểu được công tác hỗ trợ các gia đình trong việc ngăn ngừa các hành
vi sai lệch của trẻ em tại địa bàn nghiên cứu diễn ra như thế nào để có thể làm
rõ cho đề tài nghiên cứu.
11


5.2.4. Phương pháp quan sát
Bằng cách quan sát trong quá trình thu thập thông tin để từ đó đánh giá
mức độ tin cậy, vừa để bổ sung, vừa để kiểm nghiệm lại kết quả đã thu được
Sử dụng phương pháp này để tìm hiểu địa bàn thông qua tri giác trực
tiếp tại địa bàn nghiên cứu về đời sống của các gia đình tại xã Thụy Bình cần
hỗ trợ để ngăn ngừa những hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên
6. Ý ngĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Đề tài nghiên cứu công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành
vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình được xây dựng dựa trên phương pháp nghiên cứu xã hội học. Đồng
thời nghiên cứu đề tài làm sáng tỏ thực trạng ngăn ngừa các hành vi lệch
chuẩn của trẻ vị thành niên, tìm hiểu sự hiểu biết cúa các gia đình về kiến
thức trong việc ngăn ngừa các hành vi lệch chuẩn cho trẻ vị thành niên.
Thông qua đề tài nghiên cứu giúp người đọc hiểu một cách đầy đủ, cụ thể
hơn về các lý thuyết của bộ môn này nói chung cũng như bộ môn công tác xã
hội nói riêng. Tức là chúng ta nhìn nhận vấn đề ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở
trẻ vị thành niên trong các gia đình nông thôn sẽ khách quan, khoa học hơn.
Góp phần vào việc làm sáng tỏ vai trò chức năng công tác xã hội trong
hỗ trợ gia đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Từ góc độ công tác xã hội và xã hội học thông qua đề tài nghiên cứu này
sẽ giúp các nhà nghiên cứu có thêm tư liệu về vấn đề này.
Đề tài cũng giúp các bậc làm cha làm mẹ tiếp thu, tích luỹ thêm được

nhiều kiến thức về ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên, từ đó có
những phương pháp ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn đối với con em mình. Từ
đó để thế hệ trẻ có điều kiện phát triển một cách toàn diện cả về thể lực cũng
như trí tuệ.
Mặt khác đề tài cũng có thể dùng để làm tư liệu tham khảo cho các
chương trình liên quan đến vấn đề này.
12


7. Kết cấu của luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm: Mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo, phục lục; luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ gia
đình ngăn ngừa hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội trong hỗ trợ gia đình ngăn ngừa
hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy công tác xã hội hỗ trợ gia đình ngăn ngừa
hành vi lệch chuẩn ở trẻ vị thành niên tại xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy.

13


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
HỖ TRỢ GIA ĐÌNH NGĂN NGỪA HÀNH VI LỆCH CHUẨN
Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
1.1. Lý luận về hành vi lệch chuẩn và trẻ vị thành niên có hành vi
lệch chuẩn.
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
* Khái niệm vị thành niên

Quá trình phát triển của một đứa trẻ từ khi sinh ra tới khi trưởng thành trải
qua các giai đoạn phát triển khác nhau với các đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng.
Tuổi vị thành niên là giai đoạn cuối cùng trong quá trình phát triển của
trẻ. Đó là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em thành người lớn.
Việc xác định chính xác tuổi bắt đầu và kết thúc của tuổi vị thành niên
là không đơn giản. Mỗi tác giả có những quan niệm khác nhau. Chẳng hạn
E.Spranger cho rằng tuổi vị thành niên là từ 14 tới 17 tuổi; Đ.Bromlei lại coi
tuổi vị thành niên là từ 11 đến 15 tuổi; nhà tâm lý học Xô viết Đ.B.Enconhin
cho rằng lứa tuổi vị thành niên là từ 11 cho đến hết tuổi 15 – Vũ Dũng, Tâm
lý học tuổi vị thành niên, Tạp chí Tâm lý học, số 4/1998 trang 17-21. [30]
Dưới góc độ sinh học: Vị thành niên là khái niệm chỉ giai đoạn phát
dục mạnh mẽ của cá thể, trong giai đoạn này các cơ năng sinh lý của cá thể có
những biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc cơ thể như chiều cao, cân nặng, hệ cơ
xương...[21]
Dưới góc độ tâm lý học: Vị thành niên là một giai đoạn quá độ sang
giai đoạn trưởng thành của mỗi cá thể, là giai đoạn phát triển và định hình về
năng lực nhận thức, tình cảm, cảm xúc chưa ổn định. “Giai đoạn Vị thành
niên là giai đoạn chuyển tiếp giữa giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng

14


thành; tâm lý học coi vị thành niên là một giai đoạn kết nối, chuyển tiếp và
đòi hỏi mỗi cá nhân phải có những thay đổi mới để thích nghi” [21]
Dưới góc độ luật học: Theo quy định của Liên hiệp Quốc: Vị thành
niên là những trẻ em tuổi từ 10 – 18 và hoàn toàn trùng lặp với khái niệm trẻ
em (Child) là người dưới 18 tuổi, còn người chưa thành niên (Juvenile) có lứa
tuổi từ 15 đến 18; thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi. Theo đó,
pháp luật quốc tế cũng có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của
đối tượng người trẻ tuổi này [27]

Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định trong Hiến
Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2009, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự và một số văn bản quy phạm pháp
luật khác. Tuy nhiên quy định của hệ thống pháp luật của Việt Nam về khái
niệm vị thành niên cũng không thống nhất. Ví dụ: Hiến pháp 2013 quy định:
“Công dân,... đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi
mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo
qui định của pháp luật”, Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 18), quy định: “Người
chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em 2004 (Điều 1), quy định: “Trẻ em quy định trong Luật này là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi”; Luật Thanh niên 2005 (Điều 1), quy định:
“Thanh niên trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba
mươi tuổi”; Bộ luật lao động 2012 (Điều 3), quy định: “Người lao động là
người từ đủ 15 tuổi trở lên, ...”.
Như vậy, theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành, đối với vị
thành niên có các độ tuổi: “đủ 14 tuổi”; “đủ 15 tuổi”; “dưới 16 tuổi”; “đủ 16
tuổi”; “dưới 18 tuổi”.
Theo các nhà tâm lý học Việt Nam thì tuổi vị thành niên gồm 2 giai
đoạn là: giai đoạn học sinh THCS (hay thiếu niên) và giai đoạn học sinh
PTTH (hay giai đoạn tuổi thanh niên)
15


Theo chúng tôi, khái niệm trẻ em vị thành niên là khái niệm chung để
chỉ những trẻ em có độ tuổi từ 11 tới 15 tuổi, là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em
lên người lớn và đang trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách, …
* Khái niệm hành vi lệch chuẩn
Hành vi lệch chuẩn là những hành vi của một cá nhân, của một nhóm
người hay một cộng đồng người tạo ra không phù hợp với chuẩn mực xã hội
hiện hành, bị cộng đồng, xã hội lên án. [1]

1.1.2. Các loại hành vi lệch chuẩn và nguyên nhân sai lệch hành vi
1.1.2.1. Các loại hành vi lệch chuẩn
Hành vi lệch chuẩn cá nhân: là hành vi xảy ra khi một cá nhân hành
động lệch lạc một cách đơn độc ra khỏi các chuẩn mực xã hội đã được thiết
lập [24].
Hành vi lệch chuẩn nhóm: là hành vi xảy ra khi một nhóm các thành
viên hành động trái ngược với các chuẩn mực xã hội đã được qui ước. Các
hành vi lệch chuẩn nhóm thường thuộc loại tiểu văn hóa của nhóm [24].
Hành vi lệch chuẩn xã hội: là bất kỳ một hành vi hay hành động của
cá nhân hay nhóm xã hội không phù hợp với sự mong đợi chung của các
thành viên của xã hôi, đi chệch khỏi xã hội; sai lệch xã hội là hành vi,
hành động đi chệch khỏi các quy định của pháp luật, đi chệch khỏi các giá
trị, chuẩn mực, quy tắc xã hội; lệch chuẩn xã hội là hành vi đi chệch khỏi
chuẩn mực của nhóm, là sự đi chệch khỏi các chuẩn mực văn hóa đã được
thừa nhận, là hành vi của một cá nhân hay nhóm vi phạm các quy tắc, quy
định của các chuẩn mực xã hội, là những tình huống, sự kiện cụ thể của
cuộc sống đóng vai trò là những nhân tố phá vỡ sự tác động của các chuẩn
mực xã hội; sai lệch xã hội là sự vi phạm có nhận thức các quy phạm văn
hóa [23].

16


Lệch chuẩn thuộc tiểu văn hóa xảy ra khi một cá nhân hay một nhóm
không tuân thủ theo mong đợi chung của xã hội, nhưng hành xử theo mong
đợi của nhóm. Vấn đề lệch chuẩn của một nhóm xảy ra khi mong đợi của
nhóm khác hoặc đi ngược với mong đợi của xã hội.
Mặt khác, lệch chuẩn có thể thay đổi không còn là sự lệch lạc thậm chí
có thể thành chuẩn mực khi thời gian, nơi chốn và văn hóa thay đổi. Do đó,
hành vi lệch chuẩn có tính tương đối.

Căn cứ vào nội dung, tính chất của các chuẩn mực xã hội thì hành vi
lệch chuẩn được chia thành hành vi lệch chuẩn tích cực và hành vi lệch chuẩn
tiêu cực đó là:
Hành vi lệch chuẩn tích cực là những hành vi (có thể là cố ý hoặc vô ý) vi
phạm phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù
hợp với thực tế xã hội hoặc không còn được nhà nước và xã hội thừa nhận. [24]
Trong xã hội học pháp luật có hai khả năng xảy ra: Một là, các quy
phạm pháp luật do chế độ cũ ban hành không còn phù hợp trong điều kiện xã
hội mới do tính chất hà khắc, lạc hậu, lỗi thời của nó. Hành vi vi phạm, phá
bỏ các quy tắc pháp luật đó mang ý nghĩa tích cực về mặt xã hội nên đó là
hành vi sai lệch tích cực; Hai là, các quy phạm pháp luật do nhà nước hiện
nay ban hành, đã hết hoặc vẫn còn hiệu lực thực tế, nhưng chúng không còn
phù hợp với yêu cầu thực tế cuộc sống, đòi hỏi nhà nước phải sửa đổi hoặc
bãi bỏ. Việc một cá nhân, nhóm xã hội chống lại các quy phạm pháp luật hiện
hành nhưng không còn phù hợp đó là sự “gióng lên hồi chuông” để nhà nước
sửa đổi chúng, nghĩa là nó mang ý nghĩa tích cực.
Hành vi lệch chuẩn tiêu cực có thể hiểu là những hành vi (có thể cố ý
hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực xã hội
hiện hành, có nội dung, tính chất phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành
và được nhà nước, các cộng đồng người thừa nhận rộng rãi trong xã hội.[24]

17


1.1.2.2. Nguyên nhân hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên
Trong phần này chúng tôi đi sâu phân tích một số nguyên nhân dẫn đến
hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên từ góc độ gia đình
Trẻ em từ khi sinh ra đã phải chịu rất nhiều ảnh hưởng ở những môi
trường xã hội khác nhau như: môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, bạn
bè... Tuy nhiên, môi trường trẻ chịu ảnh hưởng sớm nhất, nhiều nhất và trực

tiếp nhất là giáo dục gia đình. Bởi vì:
Sự tác động của giáo dục gia đình diễn ra thường xuyên, liên tục và kéo
dài theo suốt quá trình phát triển của trẻ.
Tác động của giáo dục gia đình diễn ra theo cơ chế bắt chước, đồng
nhất từ phía trẻ nhỏ theo những tấm gương của người lớn trong gia đình mà
trẻ có thể học tập.
Sự tác động của giáo dục gia đình dựa trên tình cảm.
Có 3 cách giáo dục gia đình ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển nhân
cách của trẻ, đó là:
- Cha mẹ quá nương chiều con cái. Là mẫu cha mẹ rất quan tâm dến
con cái nhưng lại sao nhãng việc quản lý con và thường rất ít đặt ra các yêu
cầu đối với con cái. Nhiều cha mẹ cố ý nuôi nấng con theo cách này, bởi họ
tin rằng với sự quan tâm trìu mến, kết hợp với việc ít kiềm chế, bó buộc con
theo ý mình thì sẽ nuôi dạy con trở thành người tự tin và sáng tạo.
Bởi hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, không ít ông bố,
bà mẹ mải lo làm ăn... mà ít có thời gian chăm sóc con cái, phó mặc mọi việc
dạy dỗ và giáo dục con cho ông bà và nhà trường. Họ nghĩ đơn giản rằng,
việc cung cấp cho con mọi nhu cầu về vật chất là điều kiện tốt nhất cho con
mình phát triển nhưng đâu đơn giản như vậy.
Các bậc cha mẹ tưởng rằng cung cấp đầy đủ tiền bạc cho con cái là
chúng phát triển bình thường như bao trẻ khác. Họ không hiểu rằng ở giai
đoạn này nhu cầu chia sẻ của trẻ rất lớn. Do đó, sự thương yêu chăm sóc,
18


động viên của cha mẹ, đặc biệt là mẹ đối với trẻ nữ và cha đối với trẻ nam có
ý nghĩa lớn lao.
Mặt khác, chính cách giáo dục con cái theo kiểu nuông chiều như vậy
đã làm cho trẻ có cơ hội phát triển tính tự cao, tự đại quá đáng, sinh ra tâm lý
thích chơi trội, thích được coi là người sành điệu, thời thượng. Chính việc

được chu cấp tiền bạc rủng rỉnh từ phía cha mẹ, những đứa trẻ sống trong các
gia đình có kiểu giáo dục con cái theo kiểu trên sẵn sang tham gia bất cứ hoạt
động nào miễn được coi là thời thượng, là chơi trội, là dân sành điệu..
- Cha mẹ thờ ơ, không quan tâm đến con cái, đó là cha mẹ không quan
tâm tới cuộc sống của con cái, không biết đến nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng
của con. Cha mẹ không cần biết kết quả học tập của con cái ra sao, bạn bè của
con mình là những người như thế nào. Chính sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của
cha mẹ trong việc giáo dục con mà biết bao trường hợp trẻ em có những hành
vi lệch chuẩn do tập nhiễm từ những nhóm bạn xấu mà cha mẹ không hề hay
biết. Nguy hiểm là những em có hành vi lệch chuẩn mà không biết mình có
hành vi lệch chuẩn, không được sự định hướng, khuyên nhủ từ cha mẹ
- Cha mẹ quá nghiêm khắc với con cái thì cũng đẩy trẻ tới việc vi phạm
các chuẩn mực xã hội hay có những hành vi hành vi lệch chuẩn. Cha mẹ có
kiểu giáo dục này là cha mẹ rất khắt khe, bắt buộc con cái nhất nhất phải theo
đường, hướng mà cha mẹ đã vạch ra và phải luôn luôn xem trọng các công
việc và sự nỗ lực. Cha mẹ kiểu này thường đặt ra những giới hạn chính xác.
Quản lý gắt gao và kiểm soát con hoàn toàn. Những kiểu cha mẹ này thường
rất ý khi cho con cái trao đổi, tranh luận với họ và hơn nữa họ không cho con
cái được có cơ hội nói nên chính kiến của mình mà áp đặt con cái phục tùng
theo ý kiến của mình. Điều này khiến cho con cái họ thường thiếu tính cái
nhân, sống thụ động, không tự tin, không có chính kiến, bảo gì làm lấy rất dễ
bị lôi kéo thuyết phục bởi người khác thực hiện các hành vi lệch chuẩn mà
không biết.
19


×